Từ từ, trong nửa sau của thế kỷ thứ mười chín, những người Anh đã mở rộng sự cai trị của họ vào nội địa thông qua một chuỗi dài các hiệp ước với các nhà cai trị Phi châu. Ngày 31 tháng Tám, 1896, chính phủ Anh đã tuyên bố thuộc địa là một chế độ bảo hộ dựa trên cơ sở của các hiệp ước này. Những người Anh đã nhận diện các nhà cai trị quan trọng và đã trao cho họ một tước hiệu mới, thủ lĩnh tối cao. Ở miền đông Sierra Leone, chẳng hạn, trong quận khai mỏ kim cương hiện đại, quận Kono, họ đã bắt gặp Suluku, một nhà vua chiến binh hùng mạnh. Vua Suluku đã được biến thành Thủ lĩnh Tối cao Suluku, và chức thủ lĩnh của Sandor đã được tạo ra như một đơn vị hành chính trong chế độ bảo hộ.
Mặc dù các vua như Suluku đã ký các hiệp định với một người cầm quyền hành chính, họ đã không hiểu rằng các hiệp định này sẽ được diễn giải như sự được phép toàn quyền hành động để dựng lên một thuộc địa. Khi những người Anh đã thử thu thuế lều – một khoản thuế năm shilling phải được thu từ mỗi nhà – trong tháng Giêng 1898, các thủ lĩnh đã đứng lên trong một cuộc nội chiến mà được biết đến như Nổi loạn Thuế Lều (Hut Tax Rebellion). Nó đã bắt đầu ở miền bắc, nhưng đã mạnh nhất và kéo dài hơn ở miền nam, đặc biệt ở Mendeland, bị chi phối bởi nhóm sắc tộc Mende. Nổi loạn Thuế Lều đã mau chóng thất bại, nhưng nó đã cảnh cáo những người Anh về các thách thức của việc kiểm soát nội địa Sierra Leone. Những người Anh đã bắt đầu xây dựng một đường sắt từ Freetown vào nội địa. Công việc đã bắt đầu trong tháng Ba 1896, và tuyến đường sắt đã đến Songo Town tháng Mười Hai 1898, giữa cuộc Nổi loạn Thuế Lều. Các báo quốc hội Anh từ 1904 đã ghi rằng:
Trong trường hợp Đường sắt Sierra Leone cuộc Khởi nghĩa Bản địa nổ ra trong tháng Giêng 1898 đã có tác động làm ngừng hoàn toàn công việc và làm tan rã nhân viên trong thời gian nào đó. Những người nổi loạn đã bất ngờ tấn công đường sắt, với kết quả là toàn bộ nhân viên đã phải rút về Freetown … Rotifunk, bây giờ ở đường sắt cách Freetown 55 dặm, vào lúc đó đã hoàn toàn trong tay những người nổi loạn.
Thực ra, Rotifunk đã không ở trên tuyến đường sắt được dự tính trong năm 1894. Con đường đã bị thay đổi sau khi bắt đầu vụ bạo loạn, cho nên thay vì đi theo hướng đông bắc, nó đã đi xuống phía nam, qua Rotifunk và đến Bo, vào đất Mende (Mendeland). Những người Anh đã muốn tiếp cận nhanh đến Mendeland, trung tâm của cuộc nổi loạn, và đến các phần khác có tiềm năng gây hỗn loạn ở nội địa nếu các cuộc nổi loạn khác bùng nổ.
Khi Sierra Leone trở nên độc lập năm 1961, những người Anh đã trao quyền lực cho Sir Milton Margai và Đảng Nhân dân Sierra Leone (Sierra Leone People’s Party – SLPP), mà đã thu hút sự ủng hộ chủ yếu ở miền nam, đặc biệt Mendeland, và ở miền đông. Tiếp theo Sir Milton đã là em ông, Sir Albert Margai, với tư cách thủ tướng năm 1964. Năm 1967 SLPP đã thua sít sao một cuộc bầu cử tranh giành nóng bỏng trước phe đối lập, Đảng Hội nghi Toàn dân (All People’s Congress Party – APC), do Siaka Stevens lãnh đạo. Stevens đã là một người Limba, từ miền bắc, và APC đã có hầu hết sự ủng hộ của họ từ các nhóm sắc tộc miền bắc, những người Limba, Temne, và Loko.
Mặc dù đường sắt xuống phía nam ban đầu đã được thiết kế bởi những người Anh để cai trị Sierra Leone, vào năm 1967 vai trò của nó đã là kinh tế, chuyên chở hầu hết hàng xuất khẩu của đất nước: cà phê, cocoa, và kim cương. Các nông dân trồng cà phê và cocoa đã là những người Mende, và đường sắt đã là cửa sổ của Mendeland ra thế giới. Mendeland đã hết sức bầu cho Albert Margai trong bầu cử năm 1967. Stevens đã quan tâm nhiều đến việc bám chắc lấy quyền lực hơn là thúc đẩy xuất khẩu của Mendeland. Lập luận của ông đã đơn giản: bất cứ thứ gì tốt cho người Mende là tốt cho SLPP, và xấu cho Stevens. Cho nên ông đã ngừng tuyến đường sắt đến Mendeland. Rồi ông đã đi trước và đã bán tống bán tháo đường ray và nguyên liệu lưu chuyển để làm cho sự thay đổi càng không thể đảo ngược được càng tốt. Bây giờ, khi bạn lái xe ra khỏi Freetown sang phía đông, bạn đi qua các ga đường sắt đổ nát Hastings và Waterloo. Không còn tàu hỏa đi đến Bo nữa. Tất nhiên, hành động quyết liệt của Stevens đã gây thiệt hại một cách tai họa cho một số khu vực sôi động của nền kinh tế Sierra Leone. Nhưng giống nhiều lãnh đạo Phi châu sau độc lập, khi sự lựa chọn đã là giữa củng cố quyền lực và khuyến khích sự tăng trưởng kinh tế, Stevens chọn củng cố quyền lực của mình, và ông đã chẳng bao giờ nhìn lại. Ngày nay không thể đi tàu hỏa đến Bo nữa, bởi vì giống Sa hoàng Nicholas I, người đã sợ rằng đường sắt sẽ mang cách mạng đến Nga, Stevens đã tin đường sắt sẽ tăng cường các đối thủ của ông. Giống rất nhiều nhà cai trị khác khi kiểm soát các thể chế khai thác, ông đã sợ các thách thức đối với quyền lực chính trị của mình và đã sẵn sàng hy sinh sự tăng trưởng kinh tế để phá các thách thức đó.
Chiến lược của Stevens thoạt nhìn tương phản với chiến lược của người Anh. Nhưng thực ra, có một mức độ liên tục đáng kể giữa sự cai trị Anh và chế độ của Stevens mà minh họa logic của các vòng luẩn quẩn. Stevens đã cai trị Sierra Leone bằng cách khai thác các nguồn lực từ người dân của nó sử dụng các phương pháp tương tự. Ông đã vẫn còn nắm quyền lực trong năm 1985 không bởi vì ông đã được nhân dân ưa thích bầu lại, mà bởi vì sau 1967 ông đã dựng lên một chế độ độc tài hung bạo, giết và quấy rối các đối thủ chính trị của ông, đặc biệt các thành viên của SLPP. Ông đã biến mình thành tổng thống trong năm 1971, và sau 1978, Sierra Leone đã chỉ có một đảng chính trị, APC của Stevens. Stevens như thế đã củng cố quyền lực của mình một cách thành công, cho dù với cái giá làm bần cùng phần lớn nội địa.
Trong thời kỳ thuộc địa, người Anh đã sử dụng một hệ thống cai trị gián tiếp để quản lý Sierra Leone, như họ đã làm với hầu hết các thuộc địa Phi châu của họ. Tại cơ sở của hệ thống này đã là các thủ lĩnh tối cao, họ thu thuế, thực thi công lý, và giữ trật tự. Người Anh đối phó với các nông dân trồng cocoa và cà phê không phải bằng cách cô lập họ, mà bằng cách buộc họ phải bán tất cả sản phẩm của họ cho một hội đồng marketing được phát triển bởi sở thuộc địa được cho là để giúp đỡ các nông dân. Giá cả của các mặt hàng nông nghiệp đã lên xuống dữ dội theo thời gian. Giá cocoa có thể cao một năm và thấp trong năm tiếp theo. Thu nhập của các nông dân đã lên xuống theo. Lý lẽ biện minh cho hội đồng marketing đã là, họ, chứ không phải các nông dân, sẽ hấp thu những dao động giá. Khi giá thế giới cao, hội đồng trả các nông dân ở Sierra Leone ít hơn giá thế giới, nhưng khi giá thế giới thấp, họ sẽ làm điều ngược lại. Đã có vẻ là một ý tưởng tốt về nguyên lý. Tuy vậy, thực tế đã rất khác. Hội đồng Marketing Sản phẩm Sierra Leone đã được thành lập năm 1949. Tất nhiên hội đồng đã cần một nguồn thu nhập để hoạt động. Cách tự nhiên để đạt những điều này là trả cho các nông dân ít hơn mức họ phải được nhận một chút cả trong năm thuận lợi lẫn trong năm bất lợi. Số tiền này khi đó có thể được dùng cho các khoản chi tiêu chung và hành chính. Chẳng bao lâu ít hơn một chút trở thành ít hơn nhiều. Nhà nước thuộc địa đã sử dụng hội đồng marketing như một cách để đánh thuế các nông dân một cách nặng nề.
Nhiều người đã kỳ vọng các tập quán tồi nhất của sự cai trị thuộc địa ở châu Phi hạ-Sahara ngừng lại sau độc lập, và việc sử dụng các hội đồng marketing để đánh thuế quá đáng các nông dân sẽ chấm dứt. Nhưng chẳng việc nào đã xảy ra. Trên thực tế, sự tước đoạt các nông dân bằng cách sử dụng các hội đồng marketing đã trở nên tồi hơn nhiều. Vào giữa các năm 1960, các nông dân trồng cọ lấy nhân đã nhận được 56 phần trăm giá thế giới từ hội đồng marketing; nông dân cocoa, 48 phần trăm; và nông dân cà phê, 49 phần trăm. Vào thời gian Stevens rời chức vụ trong năm 1985, việc từ chức để cho phép ông chọn người kế vị của mình, Joseph Momoh, để trở thành tổng thống, các con số này, một cách tương ứng, đã là 37, 19, và 27 phần trăm. Dẫu đáng thương như điều này có thể có vẻ, nó tốt hơn mức các nông dân đã nhận được dưới triều đại Stevens, mà đã thường thấp đến mức 10 phần trăm – tức là, 90 phần trăm thu nhập của các nông dân đã bị chính phủ Stevens tước đoạt, và không cung cấp các dịch vụ công, như đường sá hay giáo dục, mà chỉ để làm giàu cho bản thân và cho những cánh hẩu của ông và để mua sự ủng hộ chính trị.
Như một phần của sự cai trị gián tiếp của họ, những người Anh đã cũng quy định rằng chức thủ lĩnh tối cao được giữ suốt đời. Để đủ tư cách là một thủ lĩnh, người ta đã phải là thành viên của một “gia tộc cai trị” được công nhận. Nét nhận diện của các gia tộc cai trị trong một chức thủ lĩnh đã tiến triển theo thời gian, nhưng về cơ bản nó dựa trên dòng dõi của các vua ở một vùng cá biệt và của các gia đình elite mà đã ký các hiệp ước với những người Anh vào cuối thế kỷ thứ mười chín. Các thủ lĩnh đã được bầu, nhưng không theo cách dân chủ. Một cơ quan được gọi là Nhà chức trách Bộ lạc, mà các thành viên của nó đã là thủ lĩnh các làng nhỏ hơn hay được các thủ lĩnh tối cao chỉ định, các thỉ lĩnh làng, hay các nhà chức trách Anh, đã quyết định ai sẽ trở thành thủ lĩnh tối cao. Người ta có thể đã hình dung rằng thể chế thuộc địa này cũng sẽ được bãi bỏ hay chí ít được cải cách sau khi độc lập. Nhưng giống hệt như hội đồng marketing, nó đã không, và đã tiếp tục không thay đổi gì. Ngày nay các thủ lĩnh tối cao vẫn chịu trách nhiệm thu thuế. Không còn là thuế lều nữa, mà là hậu duệ gần của nó, thuế thân. Trong năm 2005 Nhà chức trách Bộ lạc ở Sandor đã bầu một thủ lĩnh tối cao mới. Chỉ các ứng viên từ gia tộc cai trị Fasuluku, mà là gia tộc cai trị duy nhất, đã có thể ra ứng cử. Người chiến thắng đã là Sheku Fasuluku, chút của Vua Suluku.
Ứng xử của các các hội đồng marketing và các hệ thống truyền thống về quyền sở hữu đất giải thích thành công vì sao năng suất nông nghiệp lại hết sức thấp ở Sierra Leone và ở phần lớn châu Phi hạ-Sahara. Nhà khoa học chính trị Robert Bates trong các năm 1980 đã bắt đầu tìm hiểu vì sao nông nghiệp đã rất không sinh lời ở châu Phi cho dù theo sách giáo khoa kinh tế học đấy đã phải là khu vực kinh tế năng động nhất. Ông đã nhận ra rằng điều này đã chẳng liên quan gì đến địa lý hay các loại nhân tố đã được thảo luận ở chương 2 mà được cho là làm cho năng suất nông nghiệp thấp một cách nội tại. Đúng hơn, nó đã đơn giản là bởi vì các chính sách giá của các hội đồng marketing đã loại bỏ bất cứ khuyến khích nào cho các nông dân để đầu tư, sử dụng phân bón, hay bảo vệ đất.
Lý do mà các chính sách của các hội đồng marketing đã rất không thuận lợi cho các nhóm lợi ích nông thôn, là các nhóm này đã không có quyền chính trị. Các chính sách giá này đã tương tác với các nhân tố cơ bản khác khiến cho đất phát canh không an toàn, làm xói mòn thêm các khuyến khích đầu tư. Ở Sierra Leone, các thủ lĩnh tối cao không chỉ cung cấp luật và trật tự và các dịch vụ tư pháp, và thu thuế, mà họ cũng là “những người trông coi đất.” Mặc dù các gia đình, các thị tộc, và các triều đại đã có các quyền sử dụng và các quyền truyền thống đối với đất; rốt cuộc các thủ lĩnh có tiếng nói cuối cùng về ai canh tác ở đâu. Các quyền tài sản về đất của bạn chỉ an toàn nếu bạn có quan hệ với thủ lĩnh, có lẽ từ cùng gia tộc cai trị. Đất không thể được mua hay bán hay dùng như tài sản thế chấp cho một khoản vay, và nếu bạn sinh ra ở bên ngoài vùng do thủ lĩnh cai trị, bạn không thể trồng bất cứ cây trồng lâu năm nào như cà phê, cocoa, hay cọ vì sợ rằng việc này sẽ cho phép bạn xác lập quyền sở hữu “de facto – thực tế”.
Sự tương phản giữa các thể chế khai thác được phát triển bởi người Anh ở Sierra Leone và các thể chế bao gồm mà đã phát triển ở các thuộc địa khác, như Australia, được minh họa bởi cách tài nguyên khoáng sản được quản lý. Kim cương đã được phát hiện ra ở Kono ở miền đông Sierra Leone tháng Giêng 1930. Kim cương bồi tích, tức là, không ở trong các mỏ sâu. Cho nên phương pháp chủ yếu để khai mỏ đã là đãi ở các sông. Một số nhà khoa học xã hội gọi đấy là “kim cương dân chủ,” bởi vì chúng cho phép nhiều người tham gia vào khai mỏ, tạo ra một cơ hội bao gồm tiềm năng. Không phải thế ở Sierra Leone. Vui vẻ bỏ qua bản chất dân chủ vốn có của việc đãi kim cương, chính phủ Anh đã dựng lên một độc quyền cho toàn bộ lãnh thổ bảo hộ, gọi nó là Sierra Leone Selection Trust, và đã nhượng nó cho De Beers, công ty Nam Phi khai khoáng kim cương khổng lồ. Năm 1936 De Beers cũng đã được trao quyền để thành lập Lực lượng Bảo vệ Kim cương, một quân đội tư nhân mà sẽ trở nên lớn hơn quân đội của chính phủ thuộc địa ở Sierra Leone. Ngay có như thế, thì sự sẵn có rộng rãi của kim cương bồi tích đã làm cho tình hình khó để kiểm soát bằng cảnh sát. Vào các năm 1950, Lực lượng Bảo vệ Kim cương đã bị lấn át bởi hàng ngàn người khai mỏ kim cương bất hợp pháp, một nguồn xung đột và hỗn loạn rất lớn. Trong năm 1955 chính phủ Anh đã mở một số khu khai thác kim cương cho những người đào có giấy phép ngoài Sierra Leone Selection Trust, mặc dù công ty này vẫn nắm các vùng giàu [kim cương] nhất ở các Khu khai thác Yengema, Koidu và Tongo. Tình hình cuối cùng đã trở nên tồi hơn sau khi độc lập. Trong năm 1970 Siaka Stevens trên thực tế đã quốc hữu hóa Sierra Leone Selection Trust, tạo ra Công ty trách nhiệm hữu hạn Khai mỏ Kim cương Quốc gia [National Diamond Mining Company (Sierra Leone) Limited], trong đó chính phủ, trên thực tế có nghĩa là Stevens, đã có 51 phần trăm phần hùn. Đây là giai đoạn mở đầu của kế hoạch của Stevens để thâu tóm việc khai mỏ kim cương ở nước này.
Tại Australia thế kỷ thứ mười chín, vàng, được phát hiện ra năm 1851 ở New South Wales và bang Victoria mới được tạo ra, chứ không phải kim cương, đã là cái thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Giống kim cương ở Sierra Leone, vàng đã ở dạng bồi tích, và một quyết định đã phải được đưa ra về khai thác nó thế nào. Một số, như James Macarthur, con trai của John Macarthur, nhà lãnh đạo nổi bật của những Kẻ Chiếm Đất (Squatter) mà chúng ta đã thảo luận ở trước (trang 276-2820, đã đề xuất rằng phải rào quanh các vùng khai mỏ và bán đấu giá các quyền độc quyền [khai thác]. Họ đã muốn một phiên bản Australian của Sierra Leone Selection Trust. Thế nhưng nhiều người ở Australia đã muốn sự tiếp cận tự do đến các vùng khai mỏ. Mô hình bao gồm đã thắng, và thay cho việc dựng lên một độc quyền, các nhà chức trách Australia đã cho phép bất kỳ ai chịu đóng một khoản phí khai mỏ hàng năm được tự do tìm kiếm và đào vàng. Chẳng bao lâu, những người đào, những người mạo hiểm này được được gọi như vậy, đã là một lực lượng hùng mạnh trong hoạt động chính trị Australia, đặc biệt ở Victoria. Họ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đề xuất chương trình nghị sự về quyền bầu cử phổ quát và bầu bằng phiếu kín bí mật.
Chúng ta đã thấy rồi hai tác động tai hại của sự mở rộng và sự cai trị thuộc địa của người Âu châu ở châu Phi: việc đưa vào buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương, mà đã khuyến khích sự phát triển các thể chế chính trị và kinh tế Phi châu theo hướng khai thác, và việc sử dụng pháp luật thuộc địa và các thể chế để loại bỏ sự phát triển của ngành nông nghiệp thương mại Phi châu mà đã có thể cạnh tranh với những người Âu châu. Tình trạng nô lệ đã chắc chắn là một lực ở Sierra Leone. Tại thời kỳ thuộc địa hóa, đã không có nhà nước tập trung mạnh trong nội địa, chỉ có nhiều vương quốc nhỏ, đối kháng lẫn nhau, đột kích nhau liên miên và bắt giữ đàn ông và đàn bà của nhau. Tình trạng nô lệ đã là bệnh địa phương, với có lẽ 50 phần trăm dân số làm việc như các nô lệ. Môi trường bệnh tật đã có nghĩa rằng sự định cư quy mô lớn của người da trắng đã là không thể ở Sierra Leone, như ở Nam Phi. Vì thế đã không có những người da trắng nào cạnh tranh với những người Phi châu. Hơn nữa, việc thiếu một nền kinh tế khai mỏ có quy mô của Johannesburg đã có nghĩa rằng, ngoài sự thiếu cầu đối với lao động Phi châu từ các trang trại da trắng, đã không có khuyến khích nào để tạo ra các thể chế thị trường khai thác rất đặc trưng của Nam Phi Apartheid.
Nhưng các cơ chế khác cũng đã hoạt động. Các chủ trang trại cocoa và cà phê của Sierra Leone đã không cạnh tranh với những người da trắng, mặc dù thu nhập của họ vẫn đã bị tước đoạt thông qua một độc quyền chính phủ, hội đồng marketing. Sierra Leone cũng đã chịu đau khổ từ sự cai trị gián tiếp. Trong nhiều phần của châu Phi nơi các nhà chức trách Anh đã muốn sử dụng sự cai trị gián tiếp, họ đã tìm thấy những người mà đã không có một hệ thống quyền lực được tập trung hóa để có thể tiếp quản. Thí dụ, ở đông Nigeria những người Igbo đã không có các thủ lĩnh khi những người Anh bắt gặp họ trong thế kỷ thứ mười chín. Người Anh sau đó đã tạo ra các thủ lĩnh, các thủ lĩnh được cho phép. Ở Sierra Leone, người Anh đã đặt cơ sở sự cai trị gián tiếp trên các thể chế bản địa và các hệ thống quyền lực hiện tồn.
Tuy nhiên, bất chấp cơ sở lịch sử cho các cá nhân được công nhận như các thủ lĩnh tối cao năm 1896, sự cai trị gián tiếp, và các năng lực mà nó đã đầu tư vào các thủ lĩnh tối cao, đã làm thay đổi hoàn toàn nền chính trị hiện tồn của Sierra Leone. Một là, nó đã đưa vào một hệ thống phân tầng xã hội – các gia tộc cai trị – nơi trước kia đã chẳng hề có gia tộc nào. Một giới quý tộc cha truyền con nối đã thay thế một tình trạng mà đã dễ thay đổi và nơi các thủ lĩnh đã phải có sự ủng hộ của dân chúng. Thay vào đó cái đã nổi lên là một hệ thống cứng nhắc với các chức thủ lĩnh suốt đời, chịu ơn những người bảo trợ họ ở Freetown hay ở Anh, và có ít trách nhiệm giải trình hơn rất nhiều đối với nhân dân mà họ cai trị. Người Anh cũng đã vui vẻ phá vỡ các thể chế theo các cách khác nữa, thí dụ, bằng thay thế các thủ lĩnh hợp pháp bằng những người sẵn sàng hợp tác hơn. Thật vậy, gia đình Margai, mà đã cung cấp hai thủ tướng đầu tiên cho Sierra Leone độc lập, đã lên nắm quyền ở vùng lãnh địa Hạ Banta bằng cách đứng về phía người Anh trong cuộc Nổi loạn Thuế Lều chống lại thủ lĩnh đang trị vì, Nyama. Nyama đã bị phế truất, và nhà Margais trở thành các thủ lĩnh và đã giữ vị trí cho đến 2010.
Điều đáng chú ý là mức độ của tính liên tục giữa Sierra Leone thuộc địa và Sierra Leone độc lập. Người Anh đã tạo ra các hội đồng marketing và đã sử dụng chúng để đánh thuế các nông dân. Các chính phủ hậu thuộc địa đã cũng làm thế, tước đoạt với các tỷ lệ thậm chí còn cao hơn. Người Anh đã tạo ra hệ thống cai trị gián tiếp thông qua các thủ lĩnh tối cao. Các chính phủ tiếp sau sự độc lập đã không loại bỏ thể chế thuộc địa này; đúng hơn, họ đã sử dụng nó để cai trị cả vùng nông thôn nữa. Người Anh đã lập ra một độc quyền kim cương và đã thử không cho phép các nhà khai mỏ Phi châu. Các chính phủ sau độc lập đã làm y thế. Đúng là, người Anh đã nghĩ rằng xây dựng đường sắt đã là cách tốt để cai trị Mendeland, còn Siaka Stevens thì đã nghĩ ngược lại. Người Anh đã có thể tin cậy quân đội của họ và đã biết nó có thể được điều động đến Mendeland nếu một cuộc nổi loạn nảy sinh. Stevens, ngược lại, đã không thể làm như vậy. Như ở nhiều quốc gia Phi châu khác, một quân đội mạnh có thể trở thành mối đe dọa đối với sự cai trị của Stevens. Chính vì lý do này mà ông ta đã hoạn quân đội, cắt giảm nó và tư nhân hóa bạo lực thông qua các đơn vị nửa vũ trang được tạo ra một cách đặc biệt chỉ trung thành với ông ta, và trong quá trình này, ông đã làm tăng tốc sự suy sụp của quyền lực nhà nước ít ỏi mà đã tồn tại ở Sierra Leone. Thay cho quân đội, đầu tiên đã là Đơn vị An ninh Nội địa (Internal Security Unit), ISU, mà dân Sierra Leone chịu đau khổ từ lâu đã nhận biết như “I Shoot U – Tao Bắn Mày.” Rồi đến Sư đoàn An ninh Đặc biệt (Special Security Division), SSD, mà nhân dân nhận biết như “Siaka Stevens’s Dogs – Những con Chó của Siaka Stevens.” Cuối cùng, việc thiếu một quân đội ủng hộ chế độ cũng đã là nguyên nhân sụp đổ của nó. Chính một nhóm chỉ có ba mươi lính, đứng đầu bởi Đại úy Valentine Strasser, là cái đã hất chế độ APC khỏi quyền lực vào ngày 29 tháng Tư, 1992.
Sự phát triển, hay sự thiếu phát triển, của Sierra Leone đã có thể được hiểu kỹ nhất như kết quả của vòng luẩn quẩn. Trước hết, các nhà chức trách thuộc địa Anh đã xây dựng các thể chế khai thác, và các chính trị gia Phi châu sau độc lập đã rất vui vẻ nắm lấy gậy chỉ huy cho bản thân họ. Hình mẫu đã tương tự một cách bí hiểm đáng sợ trên toàn bộ châu Phi hạ-Sahara. Đã có những hy vọng tương tự cho Ghana, Kenya, Zambia, và nhiều nước Phi châu sau độc lập. Thế nhưng, trong tất cả các trường hợp, các thể chế khai thác đã được tái tạo lại theo một hình mẫu được tiên đoán bởi vòng luẩn quẩn – chúng chỉ trở nên đồi bại hơn với thời gia trôi qua. Trong tất cả các nước này, chẳng hạn, các hội đồng marketing và sự cai trị gián tiếp do người Anh tạo ra đã được duy trì.
Có các lý do tự nhiên cho vòng luẩn quẩn này. Các thể chế chính trị khai thác dẫn dến các thể chế kinh tế khai thác, mà làm giàu cho một số ít làm tổn hại đến nhiều người. Những người được hưởng lợi từ các thể chế khai thác, như vậy có các nguồn lực để xây dựng các quân đội (tư nhân) và các lính đánh thuê của họ, để mua chuộc các thẩm phán, và để gian lận các cuộc bầu cử nhằm ở lại nắm quyền. Họ cũng có mọi lợi ích trong bảo vệ hệ thống. Vì thế, các thể chế kinh tế khai thác tạo ra cái nền cho các thể chế chính trị khai thác tồn tại dai dẳng. Quyền lực là có giá trị trong các chế độ với các thể chế chính trị khai thác, bởi vì quyền lực không bị kiềm chế và mang lại sự giàu có kinh tế.
Các thể chế chính trị khai thác cũng không cung cấp sự kiểm soát nào chống lại sự lạm dụng quyền lực. Liệu quyền lực có gây đồi bại hay không còn đáng tranh cãi, nhưng Lord Acton đã chắc chắn đúng khi ông cho rằng quyền lực tuyệt đối gây đồi bại tuyệt đối. Chúng ta đã thấy ở chương trước rằng ngay cả khi Franklin Roosevelt đã muốn sử dụng quyền lực tổng thống của mình theo một cách mà ông nghĩ là có lợi cho xã hội, đã bị cản trở bởi các ràng buộc do Tòa án Tối cao áp đặt, các thể chế chính trị bao gồm của Hoa Kỳ đã ngăn ngừa việc ông muốn dẹp các ràng buộc lên quyền lực của ông sang một bên. Dưới các thể chế chính trị khai thác, có ít sự kiềm chế chống lại việc sử dụng quyền lực, dẫu nó có thể trở nên bị bóp méo và rối loạn nhân cách chống đối xã hội (sociopathic) đến thế nào. Trong năm 1980 Sam Bangura, thống đốc khi đó của ngân hàng trung ương Sierra Leone, đã phê phán các chính sách của Siaka Stevens là các chính sách hoang toàng. Không lâu sau ông đã bị giết và bị quăng từ tầng trên cùng của tòa nhà ngân hàng trung ương xuống con đường được đặt tên thích hợp là Đường Siaka Stevens. Các thể chế chính trị khai thác, như thế cũng có xu hướng tạo ra một vòng luẩn quẩn bởi vì chúng không tạo ra tuyến phòng thủ nào chống lại những người muốn thúc đẩy sự chiếm đoạt và sự lạm dụng quyền lực nhà nước.
Còn một cơ chế khác nữa cho vòng luẩn quẩn là, các thể chế khai thác, bằng cách tạo ra quyền lực không bị kiềm chế và sự bất bình đẳng thu nhập lớn, làm tăng sự đặt cược chính trị của trò chơi chính trị. Bởi vì bất cứ ai kiểm soát nhà nước đều trở thành người hưởng quyền lực quá đáng này và của cải mà nó đẻ ra, các thể chế khai thác tạo ra các khuyến khích cho việc đấu đá nội bộ nhằm kiểm soát quyền lực và các lợi ích của nó, một động lực mà chúng ta thấy đã hoạt động ở các thành-quốc Maya và ở Rome Cổ xưa. Dưới ánh sáng này, không ngạc nhiên rằng các thể chế khai thác, mà nhiều nước Phi châu đã thừa kế từ các cường quốc thuộc địa, đã gieo hạt của các cuộc tranh giành quyền lực và các cuộc nội chiến. Các cuộc đấu tranh này là các xung đột rất khác với Nội chiến Anh và Cách mạng Vinh quang. Chúng đã không được chiến đấu để làm thay đổi các thể chế chính trị, để đưa ra các ràng buộc lên việc sử dụng quyền lực, hay để tạo ra chủ nghĩa đa nguyên, mà để chiếm quyền và làm giàu cho một nhóm với sự tổn hại của những người còn lại. Ở Angola, Burundi, Chad, Côte d’Ivoire, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ethiopia, Liberia, Mozambique, Nigeria, Cộng hòa Congo Brazzaville, Rwanda, Somalia, Sudan, và Uganda, và tất nhiên ở Sierra Leone, như chúng ta sẽ thấy chi tiết hơn trong chương tiếp theo, những xung đột này đã biến thành các cuộc nội chiến đẫm máu và tạo ra sự đổ nát kinh tế và sự đau khổ con người không đâu sánh kịp – cũng như gây ra sự thất bại nhà nước.
TỪ ENCOMIENDA ĐẾN SỰ CHIẾM ĐOẠT ĐẤT
Ngày 14-1-1993, Ramiro De León Carpio đã tuyên thệ với tư cách tổng thống Guatemala. Ông đã bổ nhiệm Richard Aitkenhead Castillo làm bộ trưởng tài chính, và Ricardo Castillo Sinibaldi làm bộ trưởng phát triển của mình. Cả ba người này đã có cái gì đó chung: tất cả họ đều là những hậu duệ trực tiếp của các nhà chinh phục Tây Ban Nha những người đã đến Guatemala vào đầu thế kỷ thứ mười sáu. Tổ tiên rạng rỡ của De León đã là Juan De León Cardona, trong khi nhà Castillo có quan hệ họ hàng với Bernal Díaz del Castillo, người đã viết một trong những tường thuật nhân chứng nổi tiếng nhất về sự chinh phục Mexico. Để tưởng thưởng sự phục vụ của ông cho Hernán Cortés, Díaz del Castillo đã được chỉ định làm thống đốc Santiago de los Caballeros, mà ngày nay là thành phố Antigua ở Guatemala. Cả Castillo và De León đã thành lập các triều đại cùng với các nhà chinh phục khác, như Pedro de Alvarado. Nhà xã hội học Guatemala Marta Casaús Arzú đã nhận diện một nhóm lõi gồm hai mươi dòng họ ở Guatemala mà đã có các liên kết thông qua hôn nhân với hai mươi sáu dòng họ khác ở bên ngoài nhóm lõi. Nghiên cứu phả hệ và chính trị của bà đã gợi ý rằng những dòng họ này đã kiểm soát quyền lực kinh tế và chính trị ở Guatemala từ năm 1531. Một định nghĩa thậm chí rộng hơn về các dòng họ nào đã là phần của giới elite này đã gợi ý rằng họ chỉ chiếm hơn 1 phần trăm dân cư trong các năm 1990.
Ở Sierra Leone và ở phần lớn châu Phi hạ-Sahara, vòng luẩn quẩn đã có dạng của các thể chế khai thác được các cường quốc thuộc địa dựng lên và được tiếp quản bởi các nhà lãnh đạo sau độc lập. Ở Guatemala, như ở phần lớn Trung Mỹ, chúng ta thấy một dạng đơn giản hơn, trần trụi hơn của vòng luẩn quẩn: những người có quyền lực kinh tế và chính trị đã sắp đặt các thể chế để bảo đảm tính liên tục của quyền lực của họ, và họ đã thành công trong việc làm như vậy. Loại này của vòng luẩn quẩn dẫn đến sự tồn tại dai dẳng của các thể chế khai thác và sự tồn tại dai dẳng của cùng các elite nắm quyền lực, cùng với sự tồn tại dai dẳng của của sự chậm phát triển.
Vào thời chinh phục, Guatemala đã được định cư đông đúc, có lẽ với một dân số khoảng hai triệu người Maya. Bệnh tật và sự bóc lột đã tiêu diệt một phần lớn như ở mọi nơi khác ở châu Mỹ. Đã chỉ đến các năm 1920 thì toàn bộ dân số mới quay về mức này. Như ở các nơi khác trong Đế chế Tây Ban Nha, những người bản xứ bị phân vào các encomienda được ban cho các nhà chinh phục. Như chúng ta đã thấy trong bối cảnh của sự thuộc địa hóa Mexico và Peru, encomienda đã là một hệ thống lao động cưỡng bức, mà sau đó đã nhường đường cho các thể chế cưỡng bách khác tương tự, đặc biệt là repartimiento, cũng được gọi là mandamiento ở Guatemala. Elite, gồm các hậu duệ của các nhà chinh phục và một số yếu tố bản địa, không chỉ đã hưởng lợi từ các hệ thống lao động cưỡng bức khác nhau mà cũng đã kiểm soát và độc quyền hóa thương mại thông qua một phường hội nhà buôn được gọi là Consulado de Comercio. Hầu hết dân cư ở Guatemala đã ở trên núi cao và xa bờ biển. Chi phí giao thông cao đã làm giảm mức độ xuất khẩu của nền kinh tế, và ban đầu đất đã không có nhiều giá trị. Phần lớn đất đã vẫn trong tay những người bản xứ, những người đã có các khu ruộng chung lớn được gọi là ejido. Phần còn lại đã chủ yếu là đất không được chiếm giữ và trên danh nghĩa do chính phủ sở hữu. Đã có nhiều tiền trong kiểm soát và đánh thuế buôn bán, như đã là vậy, hơn là kiểm soát đất.
Đúng như ở Mexico, elite Guatemala đã xem xét Hiến pháp Cadiz (trang 28-32) với sự thù nghịch, mà đã khuyến khích họ để tuyên bố độc lập đúng như các elite Mexico đã làm. Tiếp sau một sự hợp nhất ngắn với Mexico và Liên hiệp Trung Mỹ, elite thuộc địa đã cai trị Guatemala dưới chế độ độc tài của Rafael Carrera từ 1839 đến 1871. Trong thời kỳ này các hậu duệ của các nhà chinh phục và elite bản xứ đã duy trì các thể chế kinh tế khai thác của thời kỳ thuộc địa phần lớn không thay đổi. Ngay cả tổ chức Consulado đã không thay đổi sau độc lập. Mặc dù đấy đã là một thể chế hoàng gia, nó đã vui vẻ tiếp tục dưới một chính phủ cộng hòa.
Sự độc lập sau đó đã đơn giản là một cuộc đảo chính bởi elite địa phương đã tồn tại từ trước, đúng như ở Mexico; họ đã tiếp tục như thường lệ với các thể chế kinh tế khai thác mà từ đó họ đã hưởng lợi rất nhiều. Khá mỉa mai, trong thời kỳ này Consulado đã vẫn chịu trách nhiệm về phát triển kinh tế của nước này. Nhưng như đã đúng trước thời độc lập, trong thâm tâm Consulado đã có lợi ích riêng của nó, chứ không phải các lợi ích của đất nước. Một phần trách nhiệm của nó đã là phát triển hạ tầng cơ sở, như các cảng và đường sá, nhưng như ở Áo-Hungary, Nga, và Sierra Leone, việc này thường bị sự phá hủy sáng tạo đe dọa và đã có thể làm mất ổn định hệ thống. Vì thế, phát triển hạ tầng cơ sở, thay cho được thực hiện, thì đã thường bị cưỡng lại. Chẳng hạn, việc phát triển một cảng ở bờ biển Suchitepéquez, tiếp giáp với Thái Bình Dương, đã là một trong những dự án được đề xuất. Vào thời đó các cảng thích hợp duy nhất đã ở bên bờ Caribe, và đã được Consulado kiểm soát. Consulado đã chẳng làm gì ở bên Thái Bình Dương bởi vì một cảng ở vùng đó sẽ đã tạo một lối ra dễ hơn rất nhiều cho hàng hóa từ các thành phố cao nguyên Mazatenango và Quezaltenango, và sự tiếp cận đến một thị trường khác cho các hàng hóa này làm xói mòn độc quyền ngoại thương của Consulado. Cùng logic đã áp dụng cho đường sá, nơi, lần nữa, Consulado đã có trách nhiệm cho toàn bộ đất nước. Có thể tiên đoán được rằng nó cũng đã từ chối để xây dựng đường sá mà có thể củng cố các nhóm cạnh tranh hay có tiềm năng phá hoại độc quyền của nó. Áp lực để làm như vậy lại đến từ miền tây Guatemala và Quezaltenango, ở vùng Los Altos. Nhưng nếu đường giữa Los Altos và bờ Suchitepéquez được cải thiện, thì việc này đã có thể tạo ra một tầng lớp nhà buôn, mà là một đối thủ cạnh tranh với Consulado, các nhà buôn ở thủ đô. Đường đã không được cải thiện.
Như một kết quả của sự chi phối này của elite, Guatemala đã bị mắc trong một sự sai lạc thời gian (cuộn thời gian) vào giữa thế kỷ thứ mười chín, khi phần còn lại của thế giới thay đổi nhanh chóng. Nhưng những thay đổi này cuối cùng đã tác động đến Guatemala. Chi phí giao thông giảm do những đổi mới công nghệ như tàu hơi nước, đường sắt, và các loại tàu thủy nhanh hơn nhiều. Hơn nữa, thu nhập tăng lên của người dân ở Tây Âu và Bắc Mỹ đã tạo ra cầu hàng loạt đối với nhiều sản phẩm mà một nước như Guatemala đã có thể có tiềm năng sản xuất.
Đầu thế kỷ, một số bột chàm và sau đó phẩm son, cả hai là các thuốc nhuộm tự nhiên, đã được sản xuất cho xuất khẩu, nhưng cơ hội sinh lời hơn đã là sản xuất cà phê. Guatemala có nhiều đất phù hợp cho cà phê, và việc trồng đã bắt đầu lan ra – mà không có sự giúp đỡ nào từ Consulado. Khi giá cà phê thế giới tăng lên và buôn bán quốc tế được mở rộng, đã có các khoản lợi nhuận khổng lồ để kiếm, và elite Guatemala đã bắt đầu quan tâm đến cà phê. Trong năm 1871 chế độ kéo dài của nhà độc tài Carrera cuối cùng đã bị lật đổ bởi một nhóm người tự gọi mình là Liberal (những người theo chủ nghĩa Tự do), theo phong trào rộng khắp thế giới có cái tên đó. Chủ nghĩa khai phóng (chủ nghĩa tự do-liberalism) có nghĩa là gì đã thay đổi theo thời gian. Nhưng trong thế kỷ thứ mười chín ở Hoa Kỳ và châu Âu, nó đã là tương tự như cái ngày nay được gọi là chủ nghĩa tự do (libertarianism), và đã có nghĩa là quyền tự do của các cá nhân, chính phủ hạn chế, và tự do thương mại. Các thứ đã hơi khác ở Guatemala. Ban đầu được lãnh đạo bởi Miguel García Granados, và sau 1873 bởi Justo Rufino Barrios, các Liberal Guatemala, phần lớn, đã không phải là những người mới với các lý tưởng tự do phóng khoáng. Nhìn chung, vẫn cũng các gia đình đó chịu trách nhiệm. Họ đã duy trì các thể chế chính trị khai thác và đã thực hiện một sự tái tổ chức khổng lồ đối với nền kinh tế để khai thác cà phê. Họ đã xóa bỏ Consulado năm 1871, nhưng hoàn cảnh kinh tế đã thay đổi. Sự chú tâm vào các thể chế kinh tế khai thác bây giờ là sản xuất và xuất khẩu cà phê.
Sản xuất cà phê đã cần đến đất và lao động. Để tạo ra đất cho các trang trại cà phê, những người Liberal đã làm đến cùng việc tư nhân hóa đất đai, trên thực tế là một sự chiếm đoạt đất đai mà trong đó họ có khả năng chiếm đất mà trước kia là đất chung hay đất của chính phủ. Mặc dù cố gắng của họ đã bị tranh cãi gay gắt, căn cứ vào các thể chế chính trị hết sức khai thác và sự tập trung của quyền lực chính trị ở Guatemala, cuối cùng elite đã thắng. Giữa 1871 và 1883 gần một triệu mẫu (acre) đất, hầu hết là đất chung của người bản xứ và đất biên cương, đã chuyển vào tay elite, và chỉ sau đó cà phê mới phát triển nhanh chóng. Mục đích đã là hình thành các khu đất lớn. Đất được tư nhân hóa đã được bán đấu giá một cách điển hình cho elite truyền thống hay những người có mối quan hệ với họ. Quyền lực ép buộc của nhà nước Liberal sau đó đã được dùng để giúp những địa chủ lớn này có được sự tiếp cận đến lao động bằng cách phỏng theo và tăng cường những hệ thống lao động cưỡng bức khác nhau. Trong tháng Mười Một 1876, Tổng thống Barrios đã viết cho tất cả các thống đốc của Guatemala lưu ý rằng
bởi vì nước ta có các vùng đất rộng mà cần để khai thác bằng trồng cây sử dụng nhiều người lao động mà ngày nay họ vẫn ở bên ngoài phong trào phát triển các yếu tố sản xuất của quốc gia, các ông phải cho mọi sự giúp đỡ cho nền nông nghiệp xuất khẩu:
1. Từ các thị trấn Indian thuộc phạm vi quyền hạn của các ông để cung cấp cho các chủ fincas [trang trại] ở vùng đó những người yêu cầu số người lao động họ cần, dù là năm mươi hay một trăm.
Repartimiento, việc bắt người lao động cưỡng bức, đã chẳng bao giờ bị bãi bỏ sau độc lập, nhưng bây giờ nó đã được tăng về quy mô và thời gian. Nó đã được thể chế hóa trong năm 1877 bởi Sắc lệnh 177, quy định rằng những người sử dụng lao động có thể yêu cầu và nhận từ chính phủ cho đến sáu mươi người lao động cho mười lăm ngày làm việc nếu bất động sản ở trong cùng hạt, và cho ba mươi ngày nếu nó đã nằm ngoài. Yêu cầu đã có thể được nhắc lại nếu người chủ muốn vậy. Những người lao động này đã có thể được tuyển bằng vũ lực trừ phi họ đã có thể chứng tỏ từ sổ lao động cá nhân của họ rằng dịch vụ như vậy mới được họ thực hiện một cách thỏa mãn gần đây. Tất cả những người lao động nông thôn cũng đã buộc phải mang một sổ lao động, được gọi là một libreta, mà bao gồm các chi tiết họ đã làm việc cho ai và một sự ghi chép về bất cứ khoản nợ nào. Nhiều người lao động nông thôn đã bị nợ các ông chủ của mình, và một người lao động mắc nợ đã không thể rời người chủ sử dụng lao động hiện thời của mình mà không có sự cho phép. Sắc lênh 177 còn đã quy định thêm rằng cách duy nhất để bạn tránh bị bắt vào repartimiento đã là chứng minh rằng bạn hiện đang mắc nợ một người sử dụng lao động. Những người lao động bị sập bẫy. Ngoài các luật này ra, vô số luật lang thang đã được thông qua sao cho bất cứ ai không thể chứng minh là có một việc làm lập tức bị bắt ở trên đường để đưa vào repartimiento hay các loại khác của lao động cưỡng bức, hay bị ép buộc chấp nhận việc làm trong một trang trại. Như ở Nam Phi thế kỷ thứ mười chín và thế kỷ thứ hai mươi, các chính sách đất sau năm 1871 đã cũng được thiết kế để làm xói mòn nền kinh tế ở mức tồn tại qua ngày của những người bản xứ, để buộc họ làm việc với lương thấp. Repartimiento đã tồn tại đến các năm 1920; hệ thống libreta và cả loạt luật lang thang đã có hiệu lực cho đến 1945, khi Guatemala trải qua sự nở rộ dân chủ ngắn ngủi.
Đúng như trước 1871, elite Guatemala đã cai trị qua những người lính mạnh mẽ. Họ đã tiếp tục làm vậy sau khi đợt hưng thịnh bột phát về cà phê cất cánh. Jorge Ubico, tổng thống giữa 1931 và 1944, đã cai trị dài nhất. Ubico đã thắng cuộc bầu cử tổng thống năm 1931 không gặp sự đối lập, vì đã không ai đủ xuẩn ngốc để ra ứng cử chống lại ông. Giống Consulado, ông đã không chuẩn y việc làm các thứ mà có thể gây ra sự phá hủy sáng tạo và đe dọa cả quyền lực chính trị của ông và các khoản lợi nhuận của elite. Vì thế ông đã chống lại công nghiệp vì cùng lý do mà Francis I ở Áo-Hungary và Nicholas I ở Nga đã chống: các công nhân công nghiệp đã có thể gây rắc rối. Trong một luật không có gì sánh được về sự hà khắc hoang tưởng, Ubico đã cấm việc sử dụng các từ như obreros (các công nhân), sindicatos (các nghiệp đoàn lao động), và huelgas (các cuộc đình công). Bạn đã có thể bị bỏ tù vì việc sử dụng bất cứ từ nào trong số đó. Cho dù Ubico đã hùng mạnh, elite đã giật giây. Sự phản đối chế độ của ông đã tăng lên trong năm 1944, dẫn đầu bởi các sinh viên đại học bất mãn, những người đã bắt đầu tổ chức các cuộc biểu tình. Sự bất mãn của nhân dân đã tăng lên, và ngày 24 tháng Sáu, 311 người, nhiều trong số đó từ giới elite, đã ký Memorial de los 311, một bức thư ngỏ lên án chế độ. Ubico đã từ chức ngày 1 tháng Bảy. Mặc dù tiếp sau ông đã là một chế độ dân chủ trong năm 1945, chế độ này đã bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính năm 1954, dẫn đến một cuộc nội chiến giết người. Guatemala đã lại dân chủ hóa chỉ sau 1986.
Những người chinh phục Tây Ban Nha đã không có sự hối hận nào về việc dựng lên một hệ thống chính trị và kinh tế khai thác. Đó là vì sao họ đã từ xa đến Thế giới Mới. Nhưng hầu hết các thể chế mà họ dựng lên đã dự định là tạm thời. Thí dụ, encomienda đã là một sự cấp tạm thời các quyền đối với lao động. Họ đã không có một kế hoạch được vạch ra đầy đủ về họ sẽ dựng lên một hệ thống thế nào mà sẽ tồn tại dai dẳng trong bốn trăn năm nữa. Thực ra, các thể chế họ dựng lên đã thay đổi đáng kể suốt dọc đường, nhưng một thứ đã không: bản chất khai thác của các thể chế, kết quả của vòng luẩn quẩn. Dạng khai thác đã thay đổi, nhưng cả bản chất khai thác của các thể chế lẫn bản sắc của elite đã không. Ở Guatemala encomienda, repartimiento, và sự độc quyền hóa thương mại đã chịu thua libreta và sự chiếm đoạt đất. Nhưng đa số người Maya bản xứ đã tiếp tục làm việc như những người lao động lương thấp với ít giáo dục, không có quyền nào, và không dịch vụ công nào.
Ở Guatemala, như ở phần lớn Trung Mỹ, theo một hình mẫu điển hình của vòng luẩn quẩn, các thể chế chính trị khai thác ủng hộ các thể chế kinh tế khai thác, mà đến lượt lại cung cấp cơ sở cho các thể chế chính trị khai thác và sự tiếp tục của quyền lực của cùng elite.
TỪ CẢNH NÔ LỆ ĐẾN JIM CROW
Ở Guatemala, các thể chế khai thác đã tồn tại dai dẳng từ thời thuộc địa đến thời hiện đại với cùng giới elite nắm quyền kiểm soát vững chắc. Bất cứ sự thay đổi nào về các thể chế như kết quả từ những sự thích nghi với môi trường đang thay đổi, như trường hợp chiếm đoạt đất bởi elite được thúc đẩy bởi đợt hưng phát cà phê. Các thể chế ở miền Nam Hoa Kỳ đã là khai thác một cách tương tự cho đến Nội Chiến. Hoạt động kinh tế và chính trị đã bị chi phối bởi elite miền nam, các chủ đồn điền với đất rộng và chiếm hữu nô lệ. Các nô lệ đã không có quyền chính trị cũng đã chẳng có các quyền kinh tế; quả thực họ đã có ít quyền thuộc bất cứ loại nào.
Các thể chế kinh tế và chính trị khai thác của miền Nam đã làm cho nó nghèo hơn miền Bắc một cách đáng kể vào giữa thế kỷ thứ mười chín. Miền Nam đã thiếu công nghiệp và đã đầu tư tương đối ít vào hạ tầng cơ sở. Trong năm 1860 toàn bộ sản lượng chế tác của nó đã ít hơn sản lượng của Pennsylvania, New York, hay Massachusetts. Chỉ 9 phần trăm dân số miền Nam đã sống trong các vùng đô thị, so với 35 phần trăm ở vùng Đông Bắc. Mật độ đường sắt (tức là, số dặm đường ray chia cho diện tích đất) ở các bang miền Bắc đã cao hơn ba lần ở các bang miền Nam. Tỷ lệ độ dài kênh rạch cũng đã tương tự.

Bản đồ 18 cho thấy mức độ của tình trạng nô lệ được vẽ bằng tỷ lệ phần trăm dân số mà đã là nô lệ tại các quận Hoa Kỳ trong năm 1840. Rõ rành rành tình trạng nô lệ đã trội ở miền Nam, với một số quận, chẳng hạn, dọc Sông Mississippi có đến 95 phần trăm dân cư đã là nô lệ. Rồi Bản đồ 19 cho thấy một trong những hệ quả của điều này, tỷ lệ lực lượng lao động làm việc trong ngành chế tác trong năm 1880. Mặc dù tỷ lệ này đã không cao ở bất cứ đâu theo tiêu chuẩn của thế kỷ thứ hai mươi, có những sự khác biệt nổi bật giữa miền Bắc và miền Nam. Trong phần lớn của Đông Bắc, hơn 10 phần trăm lực lượng lao động đã làm việc trong ngành chế tác. Ngược lại ở phần lớn của miền Nam, đặc biệt ở các vùng với sự tập trung cao nô lệ, tỷ lệ về cơ bản đã là zero.
Miền Nam đã thậm chí không đổi mới ở các khu vực mà trong đó nó đã chuyên môn hóa: từ 1837 đến 1859, số bằng sáng chế được cấp hàng năm cho những đổi mới liên quan đến ngô và lúa mỳ trung bình đã là mười hai và mười, một cách tương ứng; đã chỉ có một bằng sáng chế trên một năm cho cây trồng quan trọng nhất của miền Nam, bông. Đã không có chỉ báo nào rằng công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế sẽ bắt đầu sớm bất cứ lúc nào. Nhưng tiếp theo sự thất bại trong Nội Chiến đã là cải cách kinh tế và chính trị cơ bản trên đầu lưỡi lê. Chế độ nô lệ bị bãi bỏ, và những người đàn ông da đen đã được phép đi bầu.

Những thay đổi lớn này đã phải mở đường cho một sự biến đổi triệt để của các thể chế khai thác miền nam thành các thể chế bao gồm, và phóng miền Nam lên con đường tới thịnh vượng kinh tế. Nhưng trong một sự biểu thị khác nữa của vòng luẩn quẩn, chẳng có gì như vậy đã xảy ra. Một sự tiếp tục của các thể chế khai thác, lần này thuộc loại Jim Crow hơn là cảnh nô lệ, đã nổi lên ở miền Nam. Cụm từ Jim Crow, mà được cho là đã có xuất xứ từ “Jump Jim Crow,” một tác phẩm ca múa trào phúng đầu thế kỷ thứ mười chín về những người da đen do những người da trắng hóa trang, bôi “mặt đen,” biểu diễn, để nói đến toàn bộ cung bậc của luật pháp phân biệt chủ nghĩa mà được ban hành ở miền Nam sau năm 1865. Những thứ này đã vẫn dai dẳng trong gần một thế kỷ nữa, cho đến một sự chấn động lớn khác nữa, phong trào các quyền dân sự. Trong khi ấy, những người da đen đã tiếp tục bị loại trừ khỏi quyền lực và bị đàn áp. Ngành nông nghiệp kiểu đồn điền đã dựa trên lương thấp, lao động được giáo dục tồi vẫn đã tồn tại, và thu nhập miền nam đã giảm thêm tương đối so với thu nhập trung bình ở Hoa Kỳ. Vòng luẩn quẩn của các thể chế khai thác đã mạnh hơn mức nhiều người đã kỳ vọng vào lúc đó.
Lý do của chuyện quỹ đạo kinh tế và chính trị của miền Nam đã chẳng thay đổi, cho dù chế độ nô lệ đã bị xóa bỏ và những người đàn ông da đen đã được trao quyền bầu cử, là bởi vì sức mạnh chính trị và sự độc lập kinh tế của những người da đen đã mỏng manh. Các chủ đồn điền miền nam đã thua chiến tranh, nhưng thắng hòa bình. Họ đã vẫn tổ chức và đã vẫn sở hữu đất. Trong chiến tranh, khi chế độ nô lệ được bãi bỏ, người ta đã hứa cho mỗi nô lệ được giải phóng bốn mươi mẫu đất và một con la, và một số người thậm chí đã nhận được trong thời gian các chiến dịch nổi tiếng của Tướng William T. Sherman. Nhưng năm 1865, Tổng thống Andrew Johnson đã thu hồi các mệnh lệnh của Sherman, và việc chia lại ruộng đất được hy vọng đã chẳng bao giờ xảy ra. Trong một tranh luận về vấn đề này tại Quốc hội, Nghị sĩ George Washington Julian đã nhận xét một cách tiên tri, “Một đạo luật của Quốc hội xóa bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ phỏng có ích gì … nếu cơ sở nông nghiệp cũ của quyền lực quý tộc vẫn còn đó?” Đấy đã là sự khởi đầu của “sự chuộc lại” của miền Nam cũ và sự tồn tại bền bỉ của elite miền nam cũ sở hữu đất.
Nhà xã hội học Jonathan Wiener đã nghiên cứu tính bền bỉ của elite chủ đồn điền ở năm quận của Black Belt (Vành đai Đen), các quận sản xuất bông hàng đầu, ở nam Alabama. Lần theo dấu vết của các gia đình từ số liệu tổng điều tra dân số Hoa Kỳ và xem xét các gia đình có ít nhất $10.000 bất động sản, ông đã thấy rằng trong số 236 thành viên của elite chủ đồn điền trong năm 1850, thì 101 vẫn đã duy trì vị trí của họ trong năm 1870. Lý thú là, tỷ lệ này của tính bền bỉ đã rất giống tỷ lệ đã thấy trong thời kỳ trước Nội Chiến; trong số 236 gia đình chủ đồn điền giàu có nhất của năm 1850, chỉ còn 110 gia đình như vậy sau một thập kỷ. Tuy nhiên, trong số 25 chủ đồn điền với số ruộng lớn nhất trong năm 1870, có 18 chủ đồn điền (72 phần trăm) đã ở trong các gia đình elite năm 1860; 16 đã ở trong nhóm elite năm 1850. Trong khi hơn 600.000 người đã bị giết trong Nội Chiến, các elite chủ đồn điền đã chịu ít thương vong. Luật, do các chủ đồn điền thiết kế và để cho các chủ đồn điền, đã miễn trừ nghĩa vụ quân sự cho một chủ nô đối với mỗi hai mươi nô lệ được giữ. Khi hàng trăm ngàn người đã chết để giữ gìn nền kinh tế đồn điền miền nam, thì nhiều chủ nô lớn và các con trai của họ đã ngồi rồi trên hành lang của mình không tham gia chiến tranh và như thế đã bảo đảm tính bền bỉ của nền kinh tế đồn điền.
Sau khi chiến tranh kết thúc, các chủ đồn điền elite kiểm soát đất đã có khả năng sử dụng lại sự kiểm soát của họ đối với lực lượng lao động. Mặc dù thể chế kinh tế của chế độ nô lệ đã bị xóa bỏ, bằng chứng cho thấy một đường nét rõ ràng của sự dai dẳng trong hệ thống kinh tế của miền Nam dựa trên nền nông nghiệp kiểu đồn điền với lao động rẻ. Hệ thống kinh tế này đã được duy trì thông qua các kênh phong phú khác nhau, kể cả sự kiểm soát chính trị địa phương và sử dụng vũ lực. Như một hệ quả, dùng lời của học giả Mỹ gốc Phi W.E.B. Du Bois, miền Nam đã trở thành “đơn giản một doanh trại lính vũ trang để đe dọa người da đen.”
Trong năm 1865 cơ quan lập pháp bang Alabama đã thông qua Bộ luật Người da đen (Black Code), một cột mốc quan trọng hướng tới sự trấn áp lao động da đen. Giống như Sắc lệnh 177 ở Guatemala, Bộ luật Người da đen của Alabama đã gồm một luật lang thang và một luật chống lại “sự dụ dỗ” những người lao động chân tay. Nó đã được thiết kế để cản trở tính di động của lao động và làm giảm cạnh tranh trong thị trường lao động, và nó bảo đảm rằng các chủ đồn điền miền nam sẽ vẫn có một nguồn lao động giá rẻ đáng tin cậy.
Tiếp sau Nội Chiến, thời kỳ được gọi là Khôi phục đã kéo dài từ 1865 đến 1877. Các chính trị gia miền Bắc, với sự giúp đỡ của Quân đội Liên Hiệp, đã sắp đặt một số thay đổi xã hội ở miền Nam. Nhưng một sự giật lùi mang tính hệ thống từ elite miền nam dưới chiêu bài ủng hộ cái gọi là Những người Chuộc lại, tìm kiếm sự chuộc lại miền Nam, đã tái tạo hệ thống cũ. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1877, Rutherford Hayes đã cần đến sự ủng hộ miền nam trong đại hội đại biểu cử tri (electoral college). Đại hội đại biểu này, vẫn được dùng ngày nay, đã là thực chất của sự bầu tổng thống gián tiếp được Hiến pháp Hoa Kỳ tạo ra. Các phiếu bầu của các công dân không bầu tổng thống một cách trực tiếp mà thay vào đó bầu ra các đại cử tri những người sau đó chọn tổng thống trong đại hội đại biểu cử tri. Để đổi lại sự ủng hộ của họ trong đại hội đại biểu cử tri, những người miền nam đã đòi binh lính Quân đội Liên Hiệp rút khỏi miền Nam và để vùng này tự lo liệu. Hayes đã đồng ý. Với sự ủng hộ của miền nam, Hayes đã trở thành tổng thống và đã rút binh lính. Rồi thời kỳ sau 1877 đã đánh dấu sự nổi lên lại của elite chủ đồn điền trước Nội Chiến. Sự chuộc lại của miền Nam đã dính dáng đến việc đưa vào các loại thuế thân mới và các cuộc kiểm tra biết đọc biết viết cho việc bầu cử, mà đã tước một cách có hệ thống quyền bầu cử của những người da đen, và thường cả của dân cư da trắng nghèo. Các mưu toan này đã thành công và đã tạo ra một chế độ một đảng dưới Đảng Dân chủ, với phần lớn quyền lực chính trị rơi vào tay elite chủ đồn điền.
Các luật Jim Crow đã tạo ra các trường tách biệt, và có thể tiên đoán được là kém. Thí dụ, Alabama đã viết lại hiến pháp của nó trong năm 1901 để đạt được điều này. Thật sốc, ngay cả ngày nay Đoạn 256 của hiến pháp Alabama, mặc dù không còn được thực thi nữa, vẫn tuyên bố:
Nghĩa vụ của cơ quan lập pháp là thiết lập và duy trì hệ thống trường công; phân chia quỹ trường công; tách riêng các trường học cho trẻ em da trắng và trẻ em da màu.
Cơ quan lập pháp sẽ thiết lập, tổ chức, và duy trì một hệ thống tự do của các trường công trên khắp bang vì lợi ích của trẻ em giữa bảy tuổi và hai mươi mốt tuổi. Quỹ trường công sẽ được phân chia cho nhiều quận (county) theo tỷ lệ số trẻ em đi học ở độ tuổi đó, và sẽ được phân chia cho các trường trong các huyện (district) hay các thị trấn của quận đó theo cách để chu cấp, càng gần mức có thể làm được càng tốt, cho các kỳ học dài bằng nhau ở các quận hay thị trấn có trường như vậy. Các trường tách biệt sẽ được cung cấp cho trẻ em da trắng và trẻ em da màu, và không trẻ em nào của của mỗi chủng tộc được phép học ở trường của chủng tộc khác.
Một sự sửa đổi để bỏ Đoạn 256 khỏi hiến pháp đã bị đánh bại một cách sít sao trong cơ quan lập pháp bang trong năm 2004.
Sự tước quyền bầu cử, các luật lang thang như Bộ luật Người Da đen của Alabama, hay các luật Jim Crow khác nhau, và những hành động của Ku Klux Klan, thường được cấp tài chính và được ủng hộ bởi elite, đã biến miền Nam sau Nội Chiến thành một xã hội apartheid thật sự, nơi những người da đen và da trắng đã sống những cuộc sống khác nhau. Như ở Nam Phi, các luật và các tập quán này đã nhắm đến việc kiểm soát dân cư da đen và lao động của nó.
Các chính trị gia miền nam ở Washington cũng đã làm việc để bảo đảm rằng các thể chế khai thác của miền Nam vẫn còn. Thí dụ, họ đã bảo đảm rằng không dự án hay công trình công cộng liên bang nào, mà đã có thể gây nguy hiểm đến sự kiểm soát của elite miền nam đối với lực lượng lao động da đen, được chấp thuận. Vì thế, miền Nam đã bước vào thế kỷ thứ hai mươi như một xã hội chủ yếu là nông thôn với mức giáo dục thấp và công nghệ lạc hậu, vẫn áp dụng lao động chân tay và sức kéo của những con la hầu như không được trợ giúp bởi các công cụ cơ giới. Mặc dù tỷ lệ dân số đô thị đã tăng lên, nó đã ít hơn ở miền Bắc rất nhiều. Thí dụ, trong năm 1900, 13,5 phần trăm dân số miền Nam sống ở đô thị, so với 60 phần trăm ở Đông Bắc.
Xét về mọi mặt, các thể chế khai thác ở miền nam Hoa Kỳ, dựa trên quyền lực của elite sở hữu đất, nền nông nghiệp đồn điền, và lao động lương thấp, giáo dục thấp, đã tồn tại dai dẳng lâu vào thế kỷ thứ hai mươi. Các thể chế này đã bắt đầu sụp đổ chỉ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai và rồi thật sự sau phong trào các quyền dân sự đã phá hủy cơ sở chính trị của hệ thống. Và đã chỉ sau khi các thể chế này chết đi trong các năm 1950 và 1960 thì miền Nam mới bắt đầu quá trình hội tụ nhanh của nó với miền Bắc.
Miền Nam Hoa Kỳ cho thấy một mặt khác nữa, có khả năng phục hồi nhanh của vòng luẩn quẩn: như ở Guatemala, elite đồn điền miền nam đã vẫn nắm quyền và đã sắp đặt các thể chế kinh tế và chính trị nhằm bảo đảm tính liên tục của quyền lực của nó. Nhưng khác với Guatemala, nó đã đối mặt với những thách thức đáng kể sau thất bại trong Nội Chiến, mà đã xóa bỏ chế độ nô lệ và đã đảo ngược sự loại trừ hoàn toàn, hợp hiến của những người da đen ra khỏi sự tham gia chính trị. Nhưng có nhiều hơn một cách để lột da một con mèo: chừng nào elite chủ đồn điền còn kiểm soát các khu rộng mênh mông của nó và vẫn được tổ chức, nó đã có thể sắp đặt một tập mới của các thể chế, các thể chế Jim Crow thay cho thể chế nô lệ, để đạt được cùng mục đích. Vòng luẩn quẩn đã hóa ra là mạnh hơn nhiều người, kể cả Abraham Lincoln, đã nghĩ. Vòng luẩn quẩn dựa trên các thể chế chính trị khai thác tạo ra các thể chế kinh tế khai thác, mà đến lượt lại ủng hộ các thể chế chính trị khai thác, bởi vì sự giàu có và quyền lực kinh tế mua quyền lực chính trị. Khi bốn mươi mẫu đất và một con la đã không còn trên bàn nghị sự, quyền lực kinh tế của elite chủ đồn điền miền nam vẫn không bị mờ đi. Và, không ngạc nhiên và đáng tiếc, các hệ lụy đối với dân cư da đen của miền Nam, và sự phát triển kinh tế của miền Nam, cũng như nhau.
QUY LUẬT SẮT CỦA CHÍNH THỂ ĐẦU SỎ
Triều đại Solomonic ở Ethiopia đã kéo dài cho đến khi nó bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính quân sự trong năm 1974. Cuộc đảo chính đã được lãnh đạo bởi Derg, một nhóm Marxist sĩ quan quân đội. Chế độ mà Derg hất khỏi quyền lực đã trông giống như được làm đông lạnh trong thế kỷ trước nào đó, một sự sai niên đại lịch sử. Hoàng đế Haile Selassie bắt đầu ngày của mình bằng đi đến sân trong tại Cung điện Lớn, mà đã được Hoàng đế Menelik II xây dựng trong cuối thế kỷ thứ mười chín. Bên ngoài cung điện là một đám đông các chức sắc chờ đợi ngài đến, cúi chào và thử một cách tuyệt vọng để lấy sự chú ý của ngài. Hoàng đế tổ chức buổi chầu thiết triều ở Phòng Tiếp kiến, ngồi trên ngai vàng. (Selassie đã là một người nhỏ con; cho nên để cho chân ông không lủng lẳng trong không khí, đã là công việc của một viên quan đặc biệt mang gối đi cùng ông bất cứ nơi đâu ông đi để bảo đảm rằng có một chiếc gối thích hợp đặt dưới chân ông. Viên quan này giữ một kho năm mươi hai chiếc gối để đối phó với mọi tình huống.) Selassie đã điều khiển một tập cực đoan của các thể chế khai thác và đã vận hành đất nước cứ như là tài sản riêng của ông, phân phát ân huệ và ban sự đỡ đầu và trừng trị một cách tàn nhẫn sự thiếu trung thành. Đã không có sự phát triển kinh tế nào để nói về ở Ethiopia dưới triều đại Solomonic.
Ban đầu Derg đã được hình thành từ 108 đại diện của các đơn vị quân sự khác nhau từ khắp đất nước. Đại diện của Sư đoàn thứ Ba ở tỉnh Harar đã là thiếu tá Mengistu Haile Mariam. Mặc dù trong tuyên bố ban đầu của họ ngày 4 tháng Sáu, 1974, các sĩ quan Derg đã tuyên bố lòng trung thành của họ với hoàng đế, họ đã mau chóng bắt các thành viên của chính phủ, kiểm thử xem nó tạo ra bao nhiêu sự chống đối. Khi họ trở nên tự tin hơn rằng sự ủng hộ cho chế độ Selassie là trống rỗng, họ tiến đến bản thân hoàng đế, bắt giữ ông ngày 12 tháng Chín. Rồi các cuộc hành quyết bắt đầu. Nhiều chính trị gia cốt lõi của chế độ cũ đã bị giết nhanh chóng. Vào tháng Mười Hai, Derg đã tuyên bố rằng Ethiopia là một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Selassie chết, có lẽ đã bị giết, ngày 27 tháng Tám, 1975. Trong năm 1975 Derg đã bắt đầu quốc hữu hóa tài sản, gồm tất cả đất đô thị và nông thôn và hầu hết các loại tài sản tư nhân. Ứng xử ngày càng độc đoán của chế độ đã châm ngòi cho sự phản đối khắp đất nước. Các phần lớn của Ethiopia đã được ráp lại cùng nhau trong thời gian mở rộng thuộc địa Âu châu trong cuối thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi bởi các chính sách của Hoàng đế Menelik II, người chiến thắng trận Adowa, mà chúng ta đã bắt gặp trước đây (trang 237). Các phần này đã gồm Eritrea và Tigray ở miền bắc và Ogaden ở miền đông. Các phong trào độc lập đáp lại chế độ tàn nhẫn của Derg đã nổi lên ở Eritrea và Tigray, trong khi quân đội Somali đã xâm lấn Ogaden nói tiếng Somali. Bản thân Derg đã bắt đầu tan rã và tách thành các phe phái. Thiếu tá Mengistu hóa ra đã tàn nhẫn và thông minh nhất giữa họ. Vào giữa-1977 ông ta đã loại bỏ các đối thủ chính của mình và trên thực tế đã chịu trách nhiệm về chế độ, mà đã được cứu khỏi sự sụp đổ chỉ bằng sự tuôn ồ ạt vũ khí và binh lính từ Liên Xô và Cuba vào cuối tháng Mười Một năm đó.
Trong năm 1978 chế độ đã tổ chức một cuộc kỷ niệm quốc gia đánh dấu kỷ niệm lần thứ tư sự lật đổ Haile Selassie. Vào thời gian này Mengistu đã là nhà lãnh đạo không bị thách thức của Derg. Để làm nơi ở, nơi mà từ đó ông cai trị Ethiopia, ông đã chọn Cung điện Lớn của Selassie, bị bỏ trống từ khi nền quân chủ bị xóa bỏ. Tại buổi lễ kỷ niệm, ông đã ngồi trên một chiếc ghế bành mạ vàng để theo dõi cuộc duyệt binh, hệt như các hoàng đế thời xưa. Những hoạt động chính thức bây giờ lại được tiến hành ở Cung điện Lớn, với Mengistu ngồi trên ngai vàng cũ của Haile Selassie. Mengistu đã bắt đầu so sánh mình với Hoàng đế Tewodros, người đã thành lập lại Triều đại Solomonic trong giữa thế kỷ thứ mười chín sau một thời kỳ suy sụp.
Một trong các bộ trưởng của ông, Dawit Wolde Giorgis, đã nhớ lại trong hồi ký của mình:
Vào đầu cuộc Cách mạng tất cả chúng tôi đã hoàn toàn bác bỏ bất cứ thứ gì liên quan đến quá khứ. Chúng tôi sẽ không lái xe, hay mặc com lê nữa; ca vát đã được coi là tội ác. Bất cứ thứ gì mà làm cho bạn trông giống người khá giả hay tư sản, bất cứ thứ gì mà có vẻ một chút sung túc hay tinh vi, đã bị khinh bỉ như phần của trật tự cũ. Rồi, khoảng 1978, tất cả bắt đầu thay đổi. Dần dần sự quá thiên về vật chất được chấp nhận, rồi được đòi hỏi. Người thiết kế quần áo từ các thợ may Âu châu giỏi nhất thiết kế đồng phục cho tất cả các quan chức cấp cao của chính phủ và các thành viên của Hội đồng Quân sự. Chúng tôi đã có mọi thứ tốt nhất: nhà tốt nhất, xe tốt nhất, whiskey, champagne, thức ăn ngon nhất. Đã là một sự đảo ngược hoàn toàn của các lý tưởng của Cách mạng.
Giorgis cũng đã nghi lại một cách sống động Mengistu đã thay đổi ra sao một khi ông đã trở thành nhà cai trị duy nhất:
Mengistu thật lộ ra: thích báo thù, tàn ác và độc đoán … Nhiều người chúng tôi những người đã quen nói với ông ta với tay đút trong túi quần, cứ như ông ta là một trong những người chúng tôi, đã thấy mình đứng nghiêm cứng đờ, kính cẩn trước sự hiện diện của ông. Trong xưng hô với ông chúng tôi đã luôn sử dụng dạng thân mật của “anh,” ante; bây giờ chúng tôi thấy mình chuyển sang dạng “anh” hình thức hơn, ersiwo. Ông ta đã chuyển vào một văn phòng lớn hơn, sang trọng hơn trong Cung điện của Menelik … Ông ta bắt đầu dùng các xe của Hoàng đế … Chúng tôi được cho rằng có một cuộc cách mạng bình đẳng; bây giờ ông ta đã trở thành Hoàng đế mới.
Hình mẫu của vòng luẩn quẩn được mô tả bởi sự chuyển tiếp giữa Haile Selassie và Mengistu, hay giữa các thống đốc thuộc địa Anh của Sierra Leone và Siaka Stevens, là hết sức cực đoan và ở mức độ nào đó hết sức lạ, nên xứng đáng một cái tên đặc biệt. Như chúng ta đã nhắc đến rồi ở chương 4, nhà xã hội học Đức Robert Michels đã gọi nó là quy luật sắt của chính thể đầu sỏ (iron law of oligarchy). Logic bên trong của các chính thể đầu sỏ, và thực ra của tất cả các tổ chức có thứ bậc, là, Michels lập luận, chúng sẽ tái tạo chính mình không chỉ khi cùng nhóm nắm quyền lực, mà ngay cả khi khi một nhóm hoàn toàn khác nắm quyền kiểm soát. Cái Michels đã không lường trước có lẽ đã là một tiếng vọng của nhận xét của Karl Marx rằng lịch sử lặp lại chính nó – lần đầu tiên như tấn bi kịch, lần thứ hai như trò hề.
Không chỉ là, nhiều trong số lãnh tụ của châu Phi sau độc lập đã chuyển vào cùng dinh thự, sử dụng cùng các mạng lưới đỡ đầu, và đã áp dụng cùng những cách để thao túng các thị trường và tước đoạt các nguồn lực như các chế độ thuộc địa đã làm và các hoàng đế mà họ đã thay thế; mà họ còn đã làm cho tình hình tồi tệ hơn. Quả thực đã là một trò hề rằng Stevens chống thuộc địa một cách kiên định lại đã liên quan tới việc kiểm soát cùng những người, những người Mende, mà những người Anh đã tìm cách kiểm soát; rằng ông ta dựa vào cùng các thủ lĩnh mà những người Anh đã trao quyền và rồi đã dùng để kiểm soát nội địa; rằng ông ta vận hành nền kinh tế theo cùng cách, tước đoạt các nông dân với cùng các hội đồng marketing và kiểm soát kim cương dưới một độc quyền tương tự. Đã quả thực là một trò hề, một trò hề quả thật rất buồn, rằng Laurent Kabila, người đã huy động một quân đội chống lại chế độ độc tài Mobutu với lời hứa giải phóng nhân dân và chấm dứt sự tham nhũng và sự đàn áp gây nghẹt thở và gây bần cùng hóa ở Zaire của Mobutu, sau đó lại dựng lên một chế độ tham nhũng hệt thế và có lẽ thậm chí còn tai hại hơn. Chắc chắn đã là trò hề rằng ông ta đã thử bắt đầu một tệ sùng bái cá nhân Mobutu được giúp đỡ và tiếp tay bởi Dominique Sakombi Inongo, bộ trưởng thông tin của Mobutu trước đó, và rằng chế độ Mobutu bản thân nó đã rập theo hình mẫu bóc lột nhân dân mà đã bắt đầu hơn một thế kỷ trước với Nhà nước Tự do Congo của Vua Leopold. Đã quả thực là một trò hề rằng sĩ quan Marxist Mengistu bắt đầu sống trong một lâu đài, coi bản thân mình như một hoàng đế, và làm giàu cho bản thân mình và đoàn tùy tùng của ông hệt như Haile Selassie và các hoàng đế khác trước ông đã làm.
Tất cả đã là một trò hề, nhưng cũng đã bi thảm hơn thảm kịch ban đầu, và không chỉ vì những hy vọng đã bị tan vỡ. Stevens và Kabila, giống nhiều nhà cai trị khác ở châu Phi, đã bắt đầu giết các đối thủ của họ và rồi các công dân vô tội. Mengistu và các chính sách của Derg đã gây ra nạn đói tái diễn định kỳ cho các vùng đất màu mỡ của Ethiopia. Lịch sử đã lặp lại chính mình, nhưng trong một dạng rất bị bóp méo. Đã có một nạn đói ở tỉnh Wollo trong năm 1973 mà đối với nó Haile Selassie đã thờ ơ một cách rõ ràng mà cuối cùng sự thờ ơ ấy đã đóng góp rất nhiều vào việc củng cố sự chống đối chế độ của ông ta. Selassie chí ít đã chỉ thờ ơ. Mengistu thay vào đó đã coi nạn đói như một công cụ chính trị để làm xói mòn sức mạnh của các đối thủ của ông. Lịch sử đã không chỉ có tính khôi hài và bi kịch, mà cũng tàn nhẫn với các công dân của Ethiopia và phần lớn của châu Phi hạ-Sahara.
Bản chất của quy luật sắt của chính thể đầu sỏ, mặt cá biệt này của vòng luẩn quẩn, là, các lãnh tụ mới lật đổ các chế độ cũ với những lời hứa thay đổi triệt để chỉ mang lại vẫn thế. Ở mức nào đó, quy luật sắt của chính thể đầu sỏ là khó hơn để hiểu so với các dạng khác của vòng luẩn quẩn. Có một logic rõ ràng đối với sự dai dẳng của các thể chế khai thác ở miền Nam Hoa Kỳ và ở Guatemala. Cùng các nhóm đã tiếp tục chi phối nền kinh tế và chính trị trong hàng thế kỷ. Ngay cả khi bị thách thức, như các chủ đồn điền miền nam Hoa Kỳ đã bị sau Nội Chiến, quyền lực của họ đã vẫn nguyên vẹn và họ đã có khả năng giữ và tái tạo một tập tương tự của các thể chế khai thác mà từ đó họ lại có thể hưởng lợi. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể hiểu được những người lên nắm quyền nhân danh sự thay đổi triệt để lại tái tạo ra cùng hệ thống? Câu trả lời cho câu hỏi này tiết lộ, lại một lần nữa, rằng vòng luẩn quẩn là mạnh hơn nó thoạt đầu có vẻ.
Không phải tất cả những thay đổi triệt để buộc phải chịu thất bại. Cách mạng Vinh quang đã là một thay đổi triệt để, và nó đã dẫn đến cái có lẽ hóa ra là cách mạng chính trị quan trọng nhất của hai thiên niên kỷ qua. Cách mạng Pháp đã thậm chí triệt để hơn, với sự hỗn loạn và bạo lực quá đáng và sự nổi lên của Napoleon Bonaparte, nhưng nó đã không tái tạo ra ancien régime.
Ba nhân tố đã hết sức tạo thuận lợi cho sự nổi lên của các thể chế chính trị bao gồm hơn tiếp sau Cách mạng Vinh quang và Cách mạng Pháp. Thứ nhất đã là các nhà buôn và các nhà kinh doanh mới muốn tháo sức mạnh của sự phá hủy sáng tạo mà từ đó bản thân họ được hưởng lợi; những người mới này đã ở giữa các thành viên chủ chốt của các liên minh cách mạng và đã không muốn thấy sự phát triển của một tập khác nữa của các thể chế khai thác mà sẽ lại rình bắt họ làm mồi.
Thứ hai đã là bản chất của sự liên minh rộng rãi mà đã hình thành trong cả hai trường hợp. Thí dụ, Cách mạng Vinh quang đã không phải là một cuộc đảo chính của một nhóm hẹp hay một nhóm lợi ích hẹp cụ thể, mà là một phong trào được ủng hộ bởi các nhà buôn, các nhà công nghệ, giới quý tộc nhỏ (gentry), và các nhóm chính trị khác. Phần lớn đã cũng đúng thế với Cách mạng Pháp.
Nhân tố thứ ba liên quan đến lịch sử của các thể chế chính trị Anh và Pháp. Chúng đã tạo ra một bối cảnh mà trong đó các chế độ mới, và bao gồm hơn đã có thể phát triển. Trong cả hai nước đã có một truyền thống về nghị viện và chia sẻ quyền lực quay lại đến Magna Carta ở nước Anh và đến Hội đồng Nhân sĩ ở Pháp. Hơn nữa, cả hai cuộc cách mạng đã xảy ra giữa một quá trình mà đã làm yếu đi rồi sự nắm quyền lực của các chế độ chuyên chế, hay mong muốn là chuyên chế. Chẳng trong trường hợp nào các thể chế chính trị này lại làm dễ cho một nhóm mới của các nhà cai trị hay một nhóm hẹp để nắm quyền kiểm soát nhà nước và chiếm đoạt sự giàu có kinh tế và xây dựng quyền lực chính trị không bị kiềm chế và lâu bền. Trong hậu quả của Cách mạng Pháp, một nhóm hẹp dưới sự lãnh đạo của Robespierre và Saint-Just đã nắm được kiểm soát, với các hệ quả tai ác, nhưng đấy đã là tạm thời và đã không làm trệch đường tiến đến các thể chế bao gồm hơn. Tất cả điều này tương phản với tình hình của các xã hội với lịch sử dài của các thể chế kinh tế và chính trị khai thác cực đoan, và không có những sự kiềm chế lên quyền lực của các nhà cai trị. Trong các xã hội này, không có các nhà buôn hay các nhà kinh doanh mới và mạnh, ủng hộ và tài trợ cho sự kháng cự chống lại chế độ hiện tồn một phần để bảo đảm các thể chế kinh tế bao gồm hơn; không có các liên minh rộng nào đưa ra các ràng buộc chống lại quyền lực của mỗi thành viên của họ; không có các thể chế chính trị nào ngăn chặn các nhà cai trị mới có ý định chiếm đoạt và lợi dụng quyền lực.
Vì thế, ở Sierra Leone, Ethiopia, và Congo, vòng luẩn quẩn là khó hơn rất nhiều để cưỡng lại, và các bước theo hướng các thể chế bao gồm là rất ít có khả năng để khởi hành. Đã cũng không có các thể chế truyền thống hay lịch sử nào mà đã có thể kiểm soát quyền lực của những người muốn nắm quyền kiểm soát nhà nước. Các thể chế như vậy đã tồn tại ở một vài phần của châu Phi, và một số, như ở Botswana, thậm chí đã sống sót qua thời kỳ thuộc địa. Nhưng chúng đã ít nổi bật hơn nhiều suốt lịch sử của Sierra Leone, và trong chừng mực chúng tồn tại, chúng đã bị sự cai trị gián tiếp làm sa đọa. Cũng đã đúng thế trong các thuộc địa Anh khác ở châu Phi, như Kenya và Nigeria. Chúng đã chẳng bao giờ tồn tại ở vương quốc Ethiopia chuyên chế. Ở Congo, các thể chế bản địa đã bị hoạn bởi sự cai trị Bỉ và các chính sách độc đoán của Mobutu. Trong tất cả các xã hội này, cũng đã không có các nhà buôn, các nhà kinh doanh, hay các doanh nhân khởi nghiệp mới ủng hộ các chế độ mới và đòi các quyền tài sản an toàn và một sự chấm dứt các thể chế khai thác trước đây. Thực ra, các thể chế kinh tế khai thác của thời kỳ thuộc địa có nghĩa rằng đã không có mấy tinh thần kinh doanh khởi nghiệp hay doanh nghiệp được để lại chút nào.
Cộng đồng quốc tế đã nghĩ rằng sự độc lập Phi châu hậu thuộc địa sẽ dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế thông qua quá trình lập kế hoạch nhà nước và nuôi dưỡng khu vực tư nhân. Nhưng đã không có khu vực tư nhân ở đó – trừ ở vùng nông thôn, mà đã không có sự đại diện nào trong các chính phủ mới và như thế sẽ là con mồi đầu tiên của chúng. Có lẽ quan trọng nhất, trong hầu hết các trường hợp này, đã có lợi ích khổng lồ từ sự nắm quyền. Những lợi ích này cả đã thu hút những người vô lương tâm nhất, như Stevens, những người đã muốn độc quyền hóa quyền lực này, và đã làm lộ ra cái tồi nhất của họ một khi họ đã nắm quyền lực. Đã chẳng có gì để phá vỡ vòng luẩn quẩn.
PHẢN HỒI ÂM VÀ CÁC VÒNG LUẨN QUẨN
Các quốc gia giàu là giàu phần lớn bởi vì họ đã tìm được cách để phát triển các thể chế bao gồm tại điểm nào đó trong ba trăm năm qua. Các thể chế này đã tồn tại bền bỉ thông qua một quá trình của các vòng thiện. Cho dù bao gồm chỉ theo một ý nghĩa hạn chế để bắt đầu với, và đôi khi mỏng manh, chúng đã gây ra động học mà sẽ tạo ra một quá trình phản hồi dương, từ từ làm tăng tính bao gồm của chúng. Nước Anh đã không trở thành một nền dân chủ sau Cách mạng Vinh quang năm 1688. Còn xa mới thế. Chỉ có một phần nhỏ của dân cư đã có sự đại diện chính thức, nhưng cốt yếu, nước Anh đã đa nguyên. Một khi chủ nghĩa đa nguyên được coi là linh thiêng, đã có một xu hướng cho các thể chế trở nên bao gồm hơn theo thời gian, cho dù đấy là một quá trình không vững và bất trắc.
Về mặt này, nước Anh đã là điển hình của các vòng thiện: các thể chế chính trị bao gồm tạo ra các ràng buộc chống lại việc lợi dụng và chiếm đoạt quyền lực. Chúng cũng thường tạo ra các thể chế kinh tế bao gồm, mà đến lượt lại làm cho sự tiếp tục của các thể chế chính trị bao gồm có khả năng hơn.
Dưới các thể chế kinh tế bao gồm, của cải không tập trung vào tay một nhóm nhỏ mà sau đó có thể sử dụng sức mạnh kinh tế của nó để làm tăng quyền lực chính trị của nó một cách không cân xứng. Hơn nữa, dưới các thể chế kinh tế bao gồm có lợi ích hạn chế hơn nhiều từ việc nắm giữ quyền lực chính trị, như thế các khuyến khích yếu hơn cho mỗi nhóm và mỗi cá nhân có tham vọng, mới phất để thử nắm quyền kiểm soát nhà nước. Một sự hợp lưu của các nhân tố tại một bước ngoặt, kể cả sự tác động lẫn nhau giữa các thể chế hiện tồn và các cơ hội và thách thức gây ra bởi bước ngoặt, nói chung chịu trách nhiệm về lúc bắt đầu của các thể chế bao gồm, như trường hợp nước Anh chứng minh. Nhưng một khi các thể chế bao gồm này ở vị trí của chúng, chúng ta không cần đến cùng sự hợp lưu của các nhân tố để cho chúng sống sót. Các vòng thiện, mặc dù vẫn phải chịu sự tùy thuộc ngẫu nhiên đáng kể, làm cho tính liên tục của các thể chế là có thể và thậm chí thường thả ra các động lực đưa xã hội hướng tới tính bao gồm lớn hơn.
Như các vòng thiện làm cho các thể chế bao gồm bền bỉ, các vòng luẩn quẩn tạo ra các lực hùng mạnh hướng tới sự tồn tại dai dẳng của các thể chế khai thác. Lịch sử không phải là định mệnh, và các vòng luẩn quẩn không phải là không thể bị phá vỡ, như chúng ta sẽ thấy thêm ở chương 14. Nhưng chúng có khả năng phục hồi nhanh. Chúng tạo ra một quá trình mạnh mẽ của phản hồi âm, với các thể chế chính trị khai thác rèn đúc các thể chế kinh tế khai thác, mà đến lượt lại tạo ra cơ sở cho sự dai dẳng của các thể chế chính trị khai thác. Chúng ta đã thấy điều này rõ nhất trong trường hợp của Guatemala, nơi cùng elite đã nắm giữ quyền lực, đầu tiên dưới sự cai trị thuộc địa, rồi ở Guatemala độc lập, trong hơn bốn thế kỷ; các thể chế khai thác làm giàu cho elite, và của cải của họ tạo thành cơ sở cho sự tiếp tục của sự thống trị của họ.
Cùng quá trình của vòng luẩn quẩn cũng hiển nhiên trong sự bền bỉ của nền kinh tế đồn điền ở miền Nam Hoa Kỳ, trừ rằng nó cũng giới thiệu khả năng phục hồi nhanh rất lớn của các vòng luẩn quẩn khi đối mặt với các thách thức. Các chủ đồn điền miền nam Hoa Kỳ đã mất sự kiểm soát chính thức của chúng đối với các thể chế kinh tế và chính trị sau sự thất bại của họ trong Nội Chiến. Chế độ nô lệ, mà đã là cơ sở của nền kinh tế đồn điền, đã bị xóa bỏ, và những người da đen đã được trao các quyền chính trị và kinh tế bình đẳng. Thế nhưng Nội Chiến đã không phá hủy quyền lực chính trị của elite đồn điền hay cơ sở kinh tế của nó, và chúng đã có khả năng sắp đặt lại hệ thống, dưới một chiêu bài khác nhưng vẫn dưới sự kiểm soát chính trị địa phương riêng của họ, và để đạt được cùng mục tiêu: sự dồi dào của lao động giá rẻ cho các đồn điền.
Dạng này của vòng luẩn quẩn, nơi các thể chế khai thác vẫn tồn tại dai dẳng bởi vì elite kiểm soát chúng và hưởng lợi từ chúng vẫn bền bỉ, không phải là dạng duy nhất. Một dạng thoạt đầu khó hiểu hơn, nhưng không kém thực tế và không kém độc hại của phản hồi âm đã định hình sự phát triển chính trị và kinh tế của nhiều quốc gia, và được minh họa bằng thí dụ bởi những kinh nghiệm của phần lớn châu Phi hạ-Sahara, đặc biệt là Sierra Leone và Ethiopia. Trong một dạng mà nhà xã hội học Robert Michels có thể nhận ra như quy luật sắt của chính thể đầu sỏ, sự lật đổ một chế độ điều khiển các thể chế khai thác báo hiệu sự đến của một nhóm mới của các ông chủ để khai thác cùng tập của các thể chế khai thác độc hại ấy.
Logic của kiểu này của vòng luẩn quẩn, về sau nhìn lại, cũng đơn giản để hiểu: các thể chế chính trị khai thác tạo ra ít ràng buộc lên việc sử dụng quyền lực, cho nên về cơ bản không có các thể chế để kiềm chế việc sử dụng và lạm dụng quyền lực bởi những người lật đổ các nhà độc tài trước đây và chiếm lấy sự kiểm soát nhà nước; và các thể chế kinh tế khai thác ngụ ý rằng có thể kiếm các khoản lợi nhuận và của cải khổng lồ chỉ bằng sự kiểm soát quyền lực, chiếm đoạt tài sản của những người khác, và dựng lên các độc quyền.
Tất nhiên, quy luật sắt của chính thể đầu sỏ không phải là một quy luật thật, theo nghĩa các quy luật của vật lý học. Nó không vẽ ra một con đường không thể tránh khỏi, như Cách mạng Vinh quang ở nước Anh hay Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản minh họa.
Một nhân tố chủ chốt trong các tình tiết này, mà đã thấy một sự đổi hướng chủ yếu theo hướng các thể chế bao gồm, đã là sự trao quyền cho một liên minh rộng mà đã có thể đứng lên chống lại chính thể chuyên chế và có thể thay thế các thể chế chuyên chế bằng các thể chế bao gồm, đa nguyên hơn. Một cuộc cách mạng bởi một liên minh rộng làm cho sự nổi lên của các thể chế chính trị đa nguyên có khả năng hơn nhiều. Ỏ Sierra Leone và Ethiopia, quy luật sắt của chính thể đầu sỏ đã làm cho có nhiều khả năng hơn không chỉ bởi vì các thể chế hiện tồn là hết sức khai thác mà cũng bởi vì cả phong trào độc lập ở Sierra Leone lẫn cuộc đảo chính Derg ở Ethiopia đã không là các cuộc cách mạng được lãnh đạo bởi những liên minh rộng như vậy, mà đúng hơn bởi các cá nhân và các nhóm tìm kiếm quyền lực sao cho họ có thể tiến hành khai thác.
Còn có một khía cạnh khác nữa, thậm chí khía cạnh còn tàn phá hơn của vòng luẩn quẩn, được lường trước bởi thảo luận của chúng ta về các thành-quốc Maya ở chương 5. Khi các thể chế khai thác tạo ra những sự bất bình đẳng khổng lồ trong xã hội và sự giàu có hết sức và quyền lực không bị kiềm chế cho những người nắm quyền kiểm soát, thì sẽ có nhiều người muốn chiến đấu để giành sự kiểm soát nhà nước và các thể chế. Các thể chế khai thác khi đó không chỉ mở đường cho chế độ tiếp theo, mà sẽ thậm chí khai thác hơn, nhưng chúng cũng gây ra sự đấu đá nội bộ liên miên và các cuộc nội chiến. Các cuộc nội chiến này rồi gây ra nhiều sự đau khổ con người và cũng phá hủy ngay cả một chút sự tập trung hóa nhà nước mà các xã hội này đã đạt được. Việc này cũng thường khởi động một quá trình sa sút thành tình trạng không có luật pháp, sự thất bại nhà nước, và hỗn loạn chính trị, nghiền nát mọi hy vọng về sự thịnh vượng kinh tế, như chương tiếp theo sẽ minh họa.
Người dịch: Nguyễn Quang A
Nguồn: Why Nations Fail
THE ORIGINS OF POWER, PROSPERITY, AND POVERTY
Daron Acemoglu and Jemes A. Robinson
Crown Publishers ● New York