Sự tương phản của Nam và Bắc Triều Tiên, của hai Nogalese, và Hoa Kỳ với Mexico nhắc nhở chúng ta rằng đấy là các hiện tượng tương đối gần đây. Năm trăm năm trước, Mexico, quê hương của nhà nước Aztec, đã chắc chắn giàu hơn các chính thể ở phía bắc, và Hoa Kỳ đã không vượt trước Mexico cho đến thế kỷ thứ mười chín. Khoảng cách giữa hai Nogalese thậm chí còn mới đây hơn. Nam và Bắc Triều Tiên về mặt kinh tế, cũng như về mặt xã hội và văn hóa, đã không thể phân biệt được trước khi nước này bị chia cắt tại vĩ tuyến thứ 38 sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Tương tự, hầu hết những sự khác biệt kinh tế khổng lồ mà chúng ta quan sát thấy xung quanh chúng ta hôm nay đã nổi lên trong hai trăn năm vừa qua.
Tất cả những thứ này có cần phải như thế? Có phải đã được xác định trước về mặt lịch sử – hay về mặt địa lý hay văn hóa hay sắc tộc – rằng Tây Âu, Hoa Kỳ, và Nhật Bản trở nên giàu hơn nhiều đến thế so với châu Phi hạ-Sahara, Mỹ Latin, và Trung Quốc trong khoảng hai trăm năm qua? Đã có phải là không thể tránh được rằng Cách mạng Công nghiệp đã tiến triển trong thế kỷ thứ mười tám ở Anh, và sau đó lan sang Tây Âu và các nhánh của châu Âu ở Bắc Mỹ và Australasia? Liệu một thế giới phản thực (counterfactual) nơi Cách mạng Vinh quang và Cách mạng Công nghiệp xảy ra ở Peru, mà sau đó thuộc địa hóa Tây Âu và bắt những người da trắng làm nô lệ, là có thể, hay chỉ là một dạng của khoa học viễn tưởng lịch sử?
Để trả lời – thực ra, ngay cả để suy luận về – các câu hỏi này, chúng ta cần một lý thuyết về vì sao một số quốc gia thịnh vượng trong khi các quốc gia khác thất bại và nghèo. Lý thuyết này cần phác họa cả các nhân tố mà tạo ra và làm chậm sự thịnh vượng và các nguồn gốc lịch sử của chúng. Cuốn sách này đã đề xuất một lý thuyết như vậy. Bất cứ hiện tượng xã hội phức tạp nào, như nguồn gốc của các quỹ đạo kinh tế và chính trị khác nhau của hàng trăm chính thể quanh thế giới, chắc có vô số nguyên nhân, khiến cho hầu hết các nhà khoa học xã hội tránh các lý thuyết một nguyên nhân, đơn giản, và có thể áp dụng một cách rộng rãi, và thay vào đó tìm kiếm những sự giải thích khác nhau cho những kết quả có vẻ tương tự nổi lên trong các thời đại và các vùng khác nhau. Thay vào đó chúng tôi đã đề nghị một lý thuyết đơn giản và đã sử dụng nó để giải thích những đường nét chính của sự phát triển kinh tế và chính trị khắp thế giới từ Cách mạng đồ Đá Mới. Sự lựa chọn của chúng tôi đã được thúc đẩy không phải bởi một lòng tin ấu trĩ rằng một lý thuyết như vậy có thể giải thích mọi thứ, mà bởi lòng tin rằng một lý thuyết như vậy sẽ cho phép chúng ta tập trung vào những sự tương tự, đôi khi phải trả giá bằng trừu tượng hóa khỏi [tức là phải bỏ qua] nhiều chi tiết lý thú. Một lý thuyết thành công, khi đó, không tái tạo một cách trung thành các chi tiết, nhưng cung cấp một sự giải thích có ích và có cơ sở về mặt kinh nghiệm cho một loạt các quá trình trong khi cũng làm rõ các lực chính đang hoạt động.
Lý thuyết của chúng tôi đã thử đạt điều này bằng hoạt động trên hai mức. Mức thứ nhất là sự phân biệt giữa các thể chế kinh tế và chính trị khai thác với các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm. Mức thứ hai là sự giải thích của chúng tôi vì sao các thể chế bao gồm đã nổi lên ở một số phần của thế giới và không ở các phần khác. Trong khi mức đầu tiên của lý thuyết của chúng tôi là về một sự diễn giải mang tính thể chế của lịch sử, mức thứ hai là về lịch sử đã định hình thế nào các quỹ đạo thể chế của các quốc gia.
Trung tâm của lý thuyết của chúng tôi là mối liên kết giữa các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm và sự thịnh vượng. Các thể chế kinh tế bao gồm, mà thực thi các quyền tài sản, tạo ra một sân chơi bình đẳng, và khuyến khích đầu tư vào các công nghệ mới và các kỹ năng, là có ích cho sự tăng trưởng kinh tế hơn các thể chế kinh tế khai thác mà được xếp đặt để khai thác các nguồn lực từ nhiều người bởi số ít và không bảo vệ các quyền tài sản hay không tạo ra những khuyến khích cho hoạt động kinh tế. Các thể chế kinh tế bao gồm đến lượt được ủng hộ bởi, và ủng hộ cho, các thể chế chính trị bao gồm, tức là, các thể chế phân bổ quyền lực chính trị rộng rãi theo cách đa nguyên và cho phép đạt một mức độ nào đó của sự tập trung hóa chính trị để thiết lập luật pháp và trật tự, nền tảng của các quyền tài sản an toàn, và một nền kinh tế thị trường bao gồm. Tương tự, các thể chế kinh tế khai thác liên kết một cách đồng vận với các thể chế chính trị khai thác, mà tập trung quyền lực vào tay của số ít người, những người sau đó sẽ có các khuyến khích để duy trì và phát triển các thể chế kinh tế khai thác cho lợi ích của họ và sử dụng các nguồn lực họ có được để thắt chặt sự nắm giữ quyền lực chính trị của họ.
Các xu hướng này không ngụ ý rằng các thể chế kinh tế và chính trị khai thác là không nhất quán với tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, trong điều kiện mọi thứ khác bằng nhau, mọi elite đều muốn khuyến khích tăng trưởng càng nhiều càng tốt nhằm có nhiều hơn để khai thác. Các thể chế khai thác mà đã đạt ít nhất một mức tối thiểu của sự tập trung hóa chính trị thường có khả năng tạo ra mức tăng trưởng nào đó. Cái quyết định, tuy vậy, là sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác sẽ không bền vững, vì hai lý do. Thứ nhất, sự tăng trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi đổi mới, và đổi mới không thể tách khỏi sự phá hủy sáng tạo, mà thay thế cái cũ bằng cái mới trong lĩnh vực kinh tế và cũng làm mất ổn định các mối quan hệ quyền lực đã được thiết lập trong chính trị. Bởi vì các elite chi phối các thể chế khai thác sợ sự phá hủy sáng tạo, họ sẽ chống lại nó, và bất cứ sự tăng trưởng nào nảy sinh dưới các thể chế khai thác cuối cùng đều sẽ ngắn ngủi. Thứ hai, khả năng của những người chi phối các thể chế khai thác để hưởng lợi rất nhiều với sự tổn hại của phần còn lại của xã hội ngụ ý rằng quyền lực chính trị dưới các thể chế khai thác là hết sức đáng thèm muốn, làm cho nhiều nhóm và nhiều cá nhân chiến đấu để có được nó. Như một hệ quả, sẽ có các lực hùng mạnh đẩy các xã hội dưới các thể chế khai thác theo hướng bất ổn chính trị.
Sự đồng vận giữa các thể chế kinh tế và chính trị khai thác tạo ra một vòng luẩn quẩn, nơi các thể chế khai thác, một khi ở đúng vị trí, có xu hướng tồn tại dai dẳng. Tương tự, có một vòng thiện gắn với các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm. Nhưng cả vòng luẩn quẩn lẫn vòng thiện đều không là tuyệt đối. Thực ra, một số quốc gia sống dưới các thể chế bao gồm ngày nay bởi vì, mặc dù các thể chế khai thác đã là tiêu chuẩn trong lịch sử, một số xã hội đã có khả năng phá vỡ khuôn đúc và chuyển tiếp theo hướng các thể chế bao gồm. Sự giải thích của chúng ta cho những sự chuyển tiếp này mang tính lịch sử, nhưng không phải được định trước về mặt lịch sử. Sự thay đổi thể chế lớn, điều kiện tiên quyết cho sự thay đổi kinh tế lớn, xảy ra như kết quả của sự tương tác giữa các thể chế hiện tồn và các bước ngoặt. Các bước ngoặt là các sự kiện lớn mà phá vỡ sự cân bằng chính trị và kinh tế hiện tồn trong một hay nhiều xã hội, như cái Chết Đen, mà đã giết có lẽ nhiều đến một nửa dân số của hầu hết các vùng ở châu Âu trong thế kỷ thứ mười bốn; việc mở các đường buôn bán Đại Tây Dương, mà đã tạo ra những cơ hội sinh lời khổng lồ cho nhiều người ở Tây Âu; và Cách mạng Công nghiệp, mà đã tạo ra khả năng cho những thay đổi nhanh nhưng cũng phá hủy trong cấu trúc của các nền kinh tế quanh thế giới.
Bản thân những khác biệt thể chế hiện tồn giữa các xã hội là kết quả của những sự thay đổi thể chế trong quá khứ. Vì sao con đường thay đổi thể chế là khác nhau từ xã hội này sang xã hội khác? Câu trả lời cho câu hỏi này nằm ở sự trôi dạt thể chế. Theo cùng cách mà các gene của hai quần thể biệt lập của các sinh vật trôi dạt khỏi nhau một cách chậm chạp bởi vì các đột biến ngẫu nhiên trong quá trình được gọi là tiến hóa hay trôi dạt genetic, hai xã hội mặt khác giống nhau cũng sẽ trôi dạt xa nhau về mặt thể chế – mặc dù, lại, cũng chậm. Xung đột về thu nhập và quyền lực, và một cách gián tiếp về các thể chế, là liên tục trong mọi xã hội. Xung đột này thường có một kết quả tùy thuộc ngẫu nhiên, cho dù sân chơi mà trên đó nó diễn ra là không bằng phẳng. Kết quả của xung đột này dẫn đến sự trôi dạt thể chế. Nhưng đấy không nhất thiết là một quá trình tích lũy. Nó không ngụ ý rằng những sự khác biệt nhỏ mà nổi lên tại điểm nào đó sẽ nhất thiết trở nên lớn hơn theo thời gian. Ngược lại, như thảo luận của chúng ta về Anh thuộc La Mã ở chương 6 minh họa, những sự khác biệt nhỏ mở ra, và rồi biến mất, và sau đó lại xuất hiện trở lại. Tuy nhiên, khi một bước ngoặt đến, những sự khác niệt nhỏ này, mà đã nổi lên như một kết quả của sự trôi dạt thể chế, có thể là những khác biệt nhỏ mà quan trọng trong việc dẫn các xã hội mặt khác khá giống nhau rẽ theo các hướng khác nhau căn bản.
Như chúng ta đã thấy trong chương 7 và chương 8 rằng bất chấp nhiều sự giống nhau giữa các nước Anh, Pháp, và Tây Ban Nha, bước ngoặt của buôn bán Đại Tây Dương đã có tác động biến đổi nhất lên nước Anh bởi vì những sự khác biệt nhỏ như thế – sự thực rằng bởi vì những sự phát triển trong các thế kỷ mười lăm và mười sáu, Quốc vương Anh đã không thể kiểm soát toàn bộ ngoại thương, trong khi ngoại thương đã hầu như dưới sự độc quyền của Quốc vương ở Pháp và Tây Ban Nha. Như một kết quả, ở Pháp và Tây Ban Nha, chính nền quân chủ và các nhóm liên minh với nó đã là những người hưởng lợi chính của các khoản lợi nhuận lớn do thương mại Đại Tây Dương và sự mở rộng thuộc địa tạo ra, trong khi ở Anh lại chính là các nhóm chống lại mạnh mẽ nền quân chủ đã là những người hưởng lợi từ các cơ hội kinh tế được mở ra bởi bước ngoặt này. Mặc dù sự trôi dạt thể chế dẫn đến những sự khác biệt nhỏ, sự tác động qua lại của nó với các bước ngoặt dẫn đến sự phân kỳ thể chế, và như thế sự phân kỳ này rồi bây giờ tạo ra những sự khác biệt lớn hơn về thể chế mà bước ngoặt tiếp theo sẽ tác động đến.
Lịch sử là chìa khóa, vì chính là quá trình lịch sử, qua sự trôi dạt thể chế, tạo ra những khác biệt mà có thể trở nên quan trọng trong các bước ngoặt. Bản thân các bước ngoặt là các điểm ngoặt lịch sử. Và các vòng luẩn quẩn và vòng thiện ngụ ý rằng chúng ta phải nghiên cứu lịch sử để hiểu bản chất của những sự khác biệt thể chế mà đã được xếp đặt về mặt lịch sử. Thế nhưng lý thuyết của chúng ta không ngụ ý chủ nghĩa tất định lịch sử – hay bấy cứ loại tất định luận nào. Chính vì lý do này mà câu trả lời cho câu hỏi ở đầu chương này là không: không có sự tất yếu lịch sử nào rằng Peru cuối cùng lại hóa ra nghèo hơn Tây Âu hay Hoa Kỳ rất nhiều.
Để bắt đầu, ngược với các giả thuyết địa lý và văn hóa, Peru không bị buộc phải nghèo bởi vì địa lý hay văn hóa của nó. Trong lý thuyết của chúng ta, ngày nay Peru nghèo hơn Tây Âu hay Hoa Kỳ rất nhiều là bởi vì các thể chế của nó, và để hiểu các lý do của tình trạng này, chúng ta cần hiểu quá trình lịch sử của sự phát triển thể chế ở Peru. Như chúng ta đã thấy ở chương 2, năm trăm năm trước Đế chế Inca, mà đã ở Peru hiện nay, đã giàu hơn, có công nghệ tinh vi hơn, và được tập trung về mặt chính trị hơn các chính thể nhỏ hơn ở Bắc Mỹ. Điểm ngoặt đã là cách mà theo đó vùng này bị thuộc địa hóa và cách này tương phản ra sao với sự thuộc địa hóa ở Bắc Mỹ. Đấy đã không phải là kết quả từ một quá trình được định trước về mặt lịch sử mà như kết quả tùy thuộc ngẫu nhiên của nhiều sự tiến triển thể chế mấu chốt trong các bước ngoặt. Ít nhất ba nhân tố đã có thể làm thay đổi quỹ đạo này và dẫn đến các hình mẫu dài hạn rất khác nhau.
Thứ nhất, những sự khác biệt thể chế bên trong châu Mỹ trong thế kỷ thứ mười lăm đã định hình các vùng này bị thuộc địa hóa thế nào. Bắc Mỹ đã đi theo một quỹ đạo thể chế khác với Peru bởi vì nó được định cư thưa thớt trước thuộc địa hóa và đã thu hút những người định cư Âu châu những người sau đó đã thành công đứng lên chống lại elite những người mà các thực thể như Công ty Virginia và Quốc vương Anh đã thử tạo ra. Ngược lại, các nhà chinh phục Tây Ban Nha đã tìm thấy một nhà nước tập trung, khai thác ở Peru mà họ đã có thể tiếp quản và một dân cư đông mà họ đã có thể đưa vào làm việc tại các mỏ và các đồn điền. Cũng đã chẳng có gì được quyết định trước về mặt địa lý về địa hình địa vật bên trong châu Mỹ vào lúc những người Âu châu đến. Theo cùng cách mà sự nổi lên của một nhà nước tập trung do Vua Shyaam lãnh đạo giữa những người Bushong đã là một kết quả của một đổi mới thể chế lớn, hay có lẽ của một cách mạng chính trị, như chúng ta đã thấy ở chương 5, nền văn minh Inca ở Peru và dân cư đông ở vùng này đã là kết quả của những đổi mới thể chế lớn. Những điều này thay vào đó đã có thể xảy ra ở Bắc Mỹ, tại các nơi như Thung lũng Mississippi hay thậm chí đông bắc Hoa Kỳ. Giả như điều này đã thế, thì những người Âu châu đã có thể bắt gặp các vùng đất trống ở vùng Andes và các nhà nước tập trung ở Bắc Mỹ, và các vai trò của Peru và Hoa Kỳ đã có thể đảo ngược. Những người Âu châu sau đó đã có thể định cư ở các vùng quanh Peru, và xung đột giữa đa số những người định cư và elite đã có thể dẫn đến sự tạo ra các thể chế bao gồm ở đó thay cho ở Bắc Mỹ. Các con đường phát triển kinh tế sau đó chắc đã khác nhau.
Thứ hai, Đế chế Inca đã có thể chống lại chủ nghĩa thực dân Âu châu, như Nhật Bản đã làm khi các tàu của Commodore Perry đến Vịnh Edo. Mặc dù sự khai thác lớn hơn của Đế chế Inca ngược lại với Tokugawa, Nhật Bản, chắc đã làm cho một cuộc cách mạng chính trị na ná như Minh trị Canh tân là ít có khả năng ở Peru, đã không có sự tất yếu lịch sử nào rằng những người Inca hoàn toàn chịu thua ưu thế Âu châu. Nếu giả như họ đã có thể kháng cự và thậm chí hiện đại hóa về mặt thể chế trong việc đáp lại các mối đe dọa, thì toàn bộ con đường lịch sử của Thế giới Mới, và toàn bộ lịch sử của thế giới, đã có thể khác đi.
Thứ ba và triệt để nhất, thậm chí đã không được quyết định trước về mặt lịch sử hay địa lý hay văn hóa rằng những người Âu châu là những người thuộc địa hóa thế giới. Đã có thể là những người Trung Quốc hay thậm chí những người Inca. Tất nhiên, một kết quả như vậy là không thể khi chúng ta nhìn vào thế giới từ vị trí thuận lợi của thế kỷ thứ mười lăm, mà vào thời gian đó Tây Âu đã vượt trước châu Mỹ, và Trung Quốc đã quay sang hướng nội rồi. Nhưng Tây Âu của thế kỷ thứ mười lăm bản thân nó đã là một kết quả của một quá trình tùy thuộc ngẫu nhiên của sự trôi dạt thể chế được ngắt quãng bởi các bước ngoặt, và không có gì đã là không thể tránh khỏi về nó cả. Các cường quốc Tây Âu đã có thể không dấy lên trước và chinh phục thế giới mà không có vài điểm ngoặt lịch sử. Các điểm ngoặt này bao gồm con đường đặc thù mà chủ nghĩa phong kiến đã đi, thay thế chế độ nô lệ và trên đường làm yếu quyền lực của các quốc vương; sự thực rằng các thế kỷ tiếp sau sự chuyển tiếp thiên niên kỷ thứ nhất ở châu Âu đã chứng kiến sự phát triển của các thành phố độc lập và tự trị về thương mại; sự thực rằng các quốc vương Âu châu đã không bị đe dọa bởi, và vì thế đã không thử làm nản chí, việc buôn bán với nước ngoài như các hoàng đế Trung Quốc đã làm trong triều đại nhà Minh; và sự xảy ra của cái Chết Đen, mà đã làm lung lay nền tảng của trật tự phong kiến. Nếu giả như các sự kiện này đã diễn ra một cách khác đi, thì chúng ta đã có thể sống trong một thế giới rất khác, một thế giới trong đó Peru đã có thể giàu hơn Tây Âu hay Hoa Kỳ.
TẤT NHIÊN, SỨC MẠNH TIÊN ĐOÁN của một lý thuyết, nơi cả những sự khác biệt nhỏ và sự tùy thuộc ngẫu nhiên đóng các vai trò chủ chốt, sẽ là hạn chế. Ít người đã có thể tiên đoán trong thế kỷ thứ mười lăm hay thậm chí thế kỷ thứ mười sáu, nói chi đến trong nhiều thế kỷ tiếp sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã, rằng sự đột phá lớn hướng tới các thể chế bao gồm sẽ xảy ra ở Anh. Chỉ quá trình đặc thù của sự trôi dạt thể chế và bản chất của bước ngoặt được tạo ra bởi thương mại Đại Tây Dương là những cái đã làm cho điều này là có thể. Nhiều người cũng đã chẳng thể tin trong các năm 1970 giữa Cách mạng Văn hóa rằng chẳng bao lâu Trung Quốc sẽ bước lên con đường hướng tới những thay đổi triệt để về các thể chế kinh tế của nó và rồi sau đó lên một quỹ đạo tăng trưởng nhanh dễ gây tai nạn. Tương tự là không thể để tiên đoán với bất cứ sự chắc chắn nào xem tình hình sẽ ra sao trong năm trăm năm nữa. Thế nhưng đấy không phải là những thiếu sót của lý thuyết của chúng ta. Sự giải thích lịch sử mà chúng ta đã trình bày đến nay cho biết rằng bất cứ cách tiếp cận nào dựa trên tất định luận lịch sử – dựa vào địa lý, văn hóa, hay thậm chí các nhân tố lịch sử khác – là không thỏa đáng. Những sự khác biệt nhỏ và sự tùy thuộc ngẫu nhiên không chỉ là phần của lý thuyết của chúng ta; chúng là phần của hình thù của lịch sử.
Cho dù việc đưa ra các tiên đoán chính xác về các xã hội nào sẽ phát đạt tương đối so với các xã hội khác là khó, chúng ta đã thấy suốt cuốn sách này rằng lý thuyết của chúng ta giải thích khá tốt những sự khác biệt rộng về sự thịnh vượng và nghèo khó của các quốc gia khắp thế giới. Chúng ta sẽ thấy trong phần còn lại của chương này rằng nó cũng cung cấp một số chỉ dẫn về những kiểu nào của các xã hội có nhiều khả năng hơn để đạt sự tăng trưởng kinh tế trong nhiều thập niên tới.
Thứ nhất, các vòng luẩn quẩn và vòng thiện tạo ra nhiều sự dai dẳng và sự chậm chạp. Chắc có ít nghi ngờ rằng trong năm mươi hay thậm chí một trăm năm, Hoa Kỳ và Tây Âu, dựa vào các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm của chúng, sẽ giàu hơn, rất có thể giàu hơn đáng kể, so với châu Phi hạ-Sahara, Trung Đông, Trung Mỹ, hay Nam Á. Tuy nhiên, bên trong các hình mẫu rộng này sẽ có những thay đổi thể chế lớn trong thế kỷ tiếp, với một số nước phá vỡ khuôn đúc và chuyển từ nghèo sang giàu.
Các quốc gia mà đã hầu như không đạt sự tập trung hóa chính trị nào, như Somalia và Afghanistan, hay các quốc gia mà đã trải qua một sự sụp đổ nhà nước, như Haiti đã trải qua trong mấy thập kỷ qua – trước xa cơn động đất mạnh ở đó trong năm 2010 đã dẫn đến sự tàn phá hạ tầng cơ sở của nước này – không chắc đạt được sự tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác hay đưa ra những thay đổi lớn hướng tới các thể chế bao gồm. Thay vào đó, các quốc gia chắc sẽ tăng trưởng trong vài thập niên tiếp theo – mặc dù dưới các thể chế khai thác – là các quốc gia đã đạt mức độ nào đó của sự tập trung hóa chính trị. Ở châu Phi hạ-Sahara, các quốc gia này gồm có Burundi, Ethiopia, Rwanda, các quốc gia với lịch sử lâu đời về các nhà nước tập trung, và Tanzania, mà đã tìm được cách để xây dựng sự tập trung hóa như vậy, hay chí ít đã đặt vào vị trí những điều kiện tiên quyết cho sự tập trung hóa, kể từ khi độc lập. Ở Mỹ Latin, nó bao gồm Brazil, Chile, và Mexico, mà không chỉ đã đạt sự tập trung hóa chính trị mà cũng đã có những bước dài hướng tới chủ nghĩa đa nguyên non trẻ. Lý thuyết của chúng ta gợi ý rằng tăng trưởng kinh tế bền vững là rất ít có khả năng ở Colombia.
Lý thuyết của chúng ta cũng gợi ý rằng sự tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác, như ở Trung Quốc, sẽ không mang lại sự tăng trưởng bền vững, và chắc sẽ hết hơi. Ngoài các trường hợp này, có nhiều sự không chắc chắn. Cuba, chẳng hạn, có thể chuyển tiếp theo hướng đến các thể chế bao gồm và trải qua một sự biến đổi kinh tế lớn, hay nó có thể chần chừ dưới các thể chế chính trị và kinh tế khai thác. Cũng đúng thế về Bắc Triều Tiên và Burma (Myanmar) ở châu Á. Như thế, trong khi lý thuyết của chúng ta cung cấp các công cụ cho tư duy về các thể chế thay đổi thế nào và các hệ quả của những thay đổi như vậy, bản chất của sự thay đổi này – vai trò của những sự khác biệt nhỏ và của sự tùy thuộc ngẫu nhiên – khiến cho các tiên đoán chính xác hơn là khó.
Thậm chí sự thận trọng lớn hơn là cần thiết trong rút ra các khuyến nghị chính sách từ sự đánh giá rộng này về các nguồn gốc của sự thịnh vượng và nghèo khó. Theo cùng cách mà sự tác động của các bước ngoặt phụ thuộc vào các thể chế hiện tồn, một xã hội sẽ phản ứng thế nào đối với cùng sự can thiệp chính sách phụ thuộc vào các thể chế hiện đang tồn tại. Tất nhiên, tất cả lý thuyết của chúng ta là về các quốc gia có thể tiến hành các bước thế nào hướng tới sự thịnh vượng – bằng cách biến đổi các thể chế của họ từ khai thác sang bao gồm. Nhưng nó cũng nêu rất rõ ngay từ đầu rằng không có các công thức dễ dàng nào cho việc đạt được một sự chuyển tiếp như vậy. Thứ nhất, vòng luẩn quẩn ngụ ý rằng sự thay đổi thể chế là khó hơn rất nhiều so với nó có vẻ lần đầu tiên. Đặc biệt, các thể chế khai thác có thể tái tạo mình dưới những vỏ bọc khác nhau, như chúng ta đã thấy với quy luật sắt của chính thể đầu sỏ trong chương 12. Như thế sự thực rằng chế độ khai thác của Tổng thống Mubarak bị lật đổ bởi sự phản đối của dân chúng trong tháng Hai 2011 không bảo đảm rằng Ai Cập sẽ chuyển theo con đường tới các thể chế bao gồm hơn. Thay vào đó các thể chế khai thác có thể tái tạo mình bất chấp phong trào sôi động và hy vọng thân-dân chủ. Thứ hai, bởi vì con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử ngụ ý rằng là khó để biết liệu một sự tác động qua lại cá biệt của các bước ngoặt và những sự khác biệt thể chế hiện tồn liệu có dẫn tới các thể chế bao gồm hơn hay khai thác hơn không, sẽ là quả cảm để đưa ra các khuyến nghị chính sách chung để cổ vũ sự thay đổi hướng tới các thể chế bao gồm. Tuy nhiên, lý thuyết của chúng ta vẫn hữu ích cho phân tích chính sách, vì nó cho phép chúng ta nhận ra lời khuyên chính sách tồi, dựa hoặc trên các giả thuyết không đúng hay trên sự hiểu biết không thỏa đáng về các thể chế có thể thay đổi ra sao. Trong việc này, như trong hầu hết sự việc, tránh các sai lầm tồi tệ nhất là quan trọng như – và thực tiễn hơn – việc thử phát triển các giải pháp đơn giản. Có lẽ điểm này có thể thấy được rõ nhất khi chúng ta xem xét các khuyến nghị chính sách hiện thời cổ vũ cho “sự tăng trưởng độc đoán” dựa trên kinh nghiệm tăng trưởng thành công của Trung Quốc trong vài thập niên qua. Tiếp theo chúng ta giải thích vì sao các khuyến nghị chính sách này làm cho lầm đường lạc lối và vì sao tăng trưởng Trung Quốc, như nó đã diễn ra cho đến nay, chỉ là một dạng khác nữa của sự tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác, không chắc để chuyển sang sự phát triển kinh tế bền vững.
Người dịch: Nguyễn Quang A
Nguồn: Why Nations Fail
THE ORIGINS OF POWER,
PROSPERITY, AND POVERTY
Daron Acemoglu and
Jemes A. Robinson
Crown Publishers ● New York