Nhìn ra thế giới

Vì sao các quốc gia thất bại (NGUỒN GỐC CỦA QUYỀN LỰC, THỊNH VƯỢNG VÀ SỰ NGHÈO KHÓ) [17]

KHÔNG THỂ SẮP ĐẶT SỰ THỊNH VƯỢNG

Không giống lý thuyết mà chúng ta đã phát triển trong cuốn sách này, giả thuyết ngu dốt (không hiểu biết) đến dễ dàng với một gợi ý về làm thế nào để “giải” vấn đề nghèo khó: nếu sự thiếu hiểu biết đã đưa chúng ta đến đây, thì sự khai sáng và các nhà cai trị và các nhà hoạch định chính sách có hiểu biết có thể đưa chúng ta ra khỏi đây, và chúng ta phải có khả năng để “sắp đặt-engineer” sự thịnh vượng quanh thế giới bằng cung cấp lời khuyên đúng và bằng cách thuyết phục các chính trị gia về hoạt động kinh tế tốt là gì.

 Trong chương 2, khi chúng ta thảo luận về giả thuyết này, chúng ta đã cho thấy kinh nghiệm của thủ tướng Ghana Kofi Busia vào đầu các năm 1970 đã nhấn mạnh như thế nào sự thực rằng cản trở chính đối với việc chấp nhận các chính sách mà sẽ làm giảm các khuyết tật thị trường và khuyến khích tăng trưởng kinh tế không phải là sự ngu dốt của các chính trị gia, mà là các khuyến khích và các ràng buộc mà họ đối mặt từ các thể chế chính trị và kinh tế trong các xã hội của họ. Tuy nhiên, giả thuyết dốt nát vẫn ngự trị tối cao trong các giới hoạch định chính sách phương Tây, mà, hầu như loại trừ mọi thứ khác, chỉ chú tâm vào làm thế nào để sắp đặt sự thịnh vượng.

Các nỗ lực sắp đặt này đến với hai hương vị. Thứ nhất, thường được chủ trương bởi các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế, nhận ra rằng sự phát triển nghèo là do các chính sách và các thể chế kinh tế tồi gây ra, và sau đó đề xuất một danh sách những cải thiện mà các tổ chức quốc tế này thử xui các nước nghèo chấp nhận. (Đồng thuận Washington pha chế một danh mục như vậy.) Những sự cải thiện này tập trung vào các thứ nhạy cảm như ổn định kinh tế vĩ mô và các mục tiêu kinh tế vĩ mô có vẻ hấp dẫn như giảm quy mô của khu vực nhà nước, tỷ giá hối đoái linh hoạt, và tự do hóa tài khoản vốn. Họ cũng tập trung vào các mục tiêu kinh tế vi mô hơn, như tư nhân hóa, cải thiện hiệu quả của việc cung ứng dịch vụ công, và có lẽ cũng gợi ý làm thế nào để cải thiện sự hoạt động của bản thân nhà nước bằng cách nhấn mạnh các biện pháp chống tham nhũng. Mặc dù tự chúng những cải cách này có thể hợp lý, cách tiếp cận của các tổ chức quốc tế ở Washington, London, Paris, và những nơi khác vẫn đắm mình trong một viễn cảnh sai mà không nhận ra vai trò của các thể chế chính trị và các ràng buộc chúng đặt ra cho việc hoạch định chính sách. Các nỗ lực của các tổ chức quốc tế để sắp đặt sự tăng trưởng kinh tế bằng cách bắt nạt các nước nghèo phải chấp nhận các chính sách và các thể chế tốt hơn là không thành công bởi vì chúng không xảy ra trong bối cảnh của một sự giải thích vì sao các chính sách và các thể chế tồi lại ở đó trước tiên, ngoại trừ rằng các lãnh đạo của các nước nghèo là dốt nát. Hệ quả là, các chính sách không được chấp nhận và không được thực hiện, hay chỉ được thực hiện trên danh nghĩa mà thôi.

Thí dụ, nhiều kinh tế gia quanh thế giới làm ra vẻ thực hiện những cải cách như vậy, đáng chú ý nhất ở Mỹ Latin, đã đình trệ suốt các năm 1980 và 1990. Trên thực tế, những cải cách như vậy đã bị áp đặt lên các nước này trong các bối cảnh nơi chính trị tiếp tục như bình thường. Vì thế, ngay cả khi những cải cách được chấp nhận, ý định của chúng đã bị phá vỡ, hay các chính trị gia đã sử dụng những cách khác để làm cùn tác động của chúng. Tất cả những điều này được minh họa bởi “sự thực hiện” của một trong những khuyến nghị chủ chốt của các tổ chức quốc tế nhắm tới việc đạt sự ổn định kinh tế vĩ mô, sự độc lập của ngân hàng trung ương. Khuyến nghị này hoặc được thực hiện trên lý thuyết nhưng không trong thực tiễn hay đã bị làm xói mòn bởi việc sử dụng các công cụ chính sách khác. Đã khá đúng đắn về nguyên lý. Nhiều chính trị gia quanh thế giới đã chi tiêu nhiều hơn mức họ thu thuế và sau đó đã buộc ngân hàng trung ương phải bù khoản chênh lệch bằng in thêm tiền. Lạm phát nảy sinh do đó đã tạo ra sự bất ổn định và sự bất trắc. Lý thuyết đã là, các ngân hàng trung ương độc lập, như Bundesbank ở Đức, sẽ kháng cự lại áp lực chính trị và kiềm chế lạm phát. Tổng thống Zimbabwe Mugabe đã quyết định để lưu ý đến lời khuyên quốc tế; ông đã tuyên bố ngân hàng trung ương Zimbabwe độc lập trong năm 1995. Trước việc này, tỷ lệ lạm phát ở Zimbabwe đã quanh quẩn khoảng 20 phần trăm. Vào năm 2002 nó đã lên 140 phần trăm; vào 2003, gần 600 phần trăm; vào năm 2007, 66.000 phần trăm; và vào năm 2008, 230 triệu phần trăm! Tất nhiên, trong một nước nơi tổng thống trúng xổ số (trang 368-373), thì không làm ai ngạc nhiên rằng việc thông qua một luật biến ngân hàng trung ương thành độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Thống đốc ngân hàng trung ương Zimbabwe có lẽ đã biết người tương nhiệm của ông ở Sierra Leone đã “rơi” từ tầng trên cùng của tòa nhà ngân hàng trung ương khi ông không đồng ý với Siaka Stevens (trang 344). Độc lập hay không, tuân theo các đòi hỏi của tổng thống đã là lựa chọn khôn ngoan cho sức khỏe cá nhân của ông, cho dù không tốt cho sức khỏe của nền kinh tế. Không phải tất cả các nước đều giống Zimbabwe. Tại Argentina và Colombia, các ngân hàng trung ương cũng đã được biến thành độc lập trong các năm 1990, và chúng thực sự đã làm công việc của mình để làm giảm lạm phát. Nhưng vì chẳng ở nước nào đã có sự thay đổi chính trị, các elite chính trị đã có thể sử dụng những cách khác để mua phiếu bầu, duy trì các lợi ích của họ, và thưởng cho bản thân họ và những người theo họ. Vì họ đã không thể làm việc này bằng in tiền nữa, họ đã phải dùng một cách khác. Trong cả hai nước việc đưa các ngân hàng trung ương thành độc lập đã trùng với một sự mở rộng to lớn của chi tiêu chính phủ, được tài trợ chủ yếu bằng tiền vay.

Cách tiếp cận thứ hai đến sắp đặt sự thịnh vượng đang là cách được ưa chuộng nhiều ngày nay. Nó nhận ra rằng không có cách sửa chữa dễ dàng để chuyển một quốc gia từ nghèo sang thịnh vượng trong một sớm một chiều hay thậm chí trong tiến trình của vài thập kỷ. Thay vào đó, nó khẳng định, có nhiều “khuyết tật thị trường vi mô” mà có thể được uốn nắn với lời khuyên đúng, và sự thịnh vượng sẽ nảy sinh nếu các nhà hoạch định chính sách tận dụng lợi thế của các cơ hội này – mà, lần nữa, lại có thể đạt được với sự giúp đỡ và tầm nhìn của các nhà kinh tế học và những người khác. Các khuyết tật nhỏ của thị trường là khắp mọi nơi trong các nước nghèo, cách tiếp cận này khẳng định – chẳng hạn, trong các hệ thống giáo dục, trong cung ứng chăm sóc sức khỏe của họ, và cách mà các thị trường của họ được tổ chức. Điều này không nghi ngờ gì là đúng. Nhưng vấn đề là, những khuyết tật thị trường nhỏ này có thể chỉ là cái chóp của tảng băng, là triệu chứng của các vấn đề nằm sâu hơn trong một xã hội hoạt động dưới các thể chế khai thác. Hệt như không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng các nước nghèo đã có các chính sách kinh tế vĩ mô tồi, không là một sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng các hệ thống giáo dục của họ không hoạt động tốt. Những khuyết tật thị trường này có thể không phải chỉ do sự dốt nát. Các nhà hoạch định chính sách và các quan chức quan liêu, những người được cho là hoạt động theo lời khuyên có ý định tốt, có thể phần nhiều chính là một phần của vấn đề, và nhiều cố gắng để chỉnh sửa những sự thiếu hiệu quả này có thể lại gây ra kết quả không mong đợi chính xác bởi vì những người chịu trách nhiệm không vật lộn trước hết với những nguyên nhân thể chế của sự nghèo khó.

Các vấn đề này được minh họa bởi sự can thiệp được sắp đặt bởi tổ chức phi chính phủ (NGO) Seva Mandir để cải thiện việc cung ứng chăm sóc sức khỏe tại bang Rajasthan ở Ấn Độ. Câu chuyện về cung ứng chăm sóc sức khỏe ở Ấn Độ là câu chuyện về sự kém hiệu quả và thất bại đã ăn sâu. Chăm sóc sức khỏe do chính phủ cung cấp, ít nhất trên lý thuyết, là sẵn có rộng rãi và rẻ, và nhân viên nói chung đủ tiêu chuẩn. Nhưng ngay cả những người Ấn Độ nghèo nhất cũng không sử dụng các phương tiện chăm sóc sức khỏe của chính phủ, thay vào đó chọn các nhà cung cấp tư nhân đắt hơn rất nhiều, không được điều tiết, và đôi khi thậm chí không đủ khả năng. Việc này không phải bởi vì loại nào đó của tính phi lý: người dân không có khả năng nhận được bất cứ sự chăm sóc nào từ các cơ sở của chính phủ, mà bị cản trở bởi sự vắng mặt. Nếu một người Ấn Độ đến cơ sở do chính phủ điều hành, không chỉ không có ý tá nào ở đó, mà có lẽ anh ta không có khả năng vào trong tòa nhà, bởi vì các cơ sở chăm sóc sức khỏe đóng cửa hầu hết thời gian.

Năm 2006 Seva Mandir, cùng với một nhóm các kinh tế gia, đã thiết kế một sơ đồ để động viên các ý tá đến làm việc ở quận Udaipur của Rajasthan. Ý tưởng đã đơn giản: Seva Mandir đưa vào các đồng hồ bấm giờ mà sẽ bấm ngày và giờ khi các y tá ở trong cơ sở. Các y tá được cho là phải bấm thẻ thời gian ba lần một ngày, để bảo đảm rằng họ đến đúng giờ, ở quanh đó, và ra về đúng giờ. Nếu một sơ đồ như vậy hoạt động, và làm tăng chất lượng và số lượng cung ứng chăm sóc sức khỏe, thì sẽ là một minh họa mạnh mẽ cho lý thuyết rằng có những lời giải dễ cho các vấn đề then chốt trong sự phát triển.

Khi điều đó xảy ra, sự can thiệp đã tiết lộ cái gì đó rất khác. Không lâu sau khi chương trình được thực hiện, đã có sự tăng đột ngột về sự có mặt của các y tá. Nhưng tình hình này đã rất ngắn ngủi. Trong hơn một năm một chút, cơ quan quản lý ý tế địa phương của quận đã chủ tâm làm xói mòn sơ đồ khuyến khích do Seva Mandir đưa vào. Sự vắng mặt đã quay trở lại mức bình thường của nó, thế nhưng đã có một sự tăng đột ngột về “những ngày được miễn,” mà đã có nghĩa rằng các y tá đã thực sự không ở quanh đó – nhưng việc này đã thừa nhận bởi cơ quan quản lý y tế địa phương. Đã cũng có sự tăng đột ngột về “các vấn đề máy móc,” vì các đồng hồ bấm giờ bị hỏng hóc. Nhưng Seva Mandir đã không có khả năng thay thế chúng bởi vì bộ trưởng y tế địa phương đã không hợp tác.

Buộc các y tá bấm đồng hồ thời gian ba lần một ngày có vẻ không giống một ý tưởng đổi mới. Quả thực, nó là một sự thực hành được sử dụng khắp ngành công nghiệp, ngay cả công nghiệp Ấn Độ, và nó hẳn đã phải xuất hiện cho các nhà quản lý y tế như một giải pháp tiềm năng cho các vấn đề của họ. Có vẻ không chắc, khi đó, rằng sự không biết về một sơ đồ đơn giản như vậy là cái trước hết đã ngăn chặn việc sử dụng nó. Cái xảy ra trong chương trình đã đơn giản xác nhận điều này. Các nhà quản lý y tế đã phá hoại chương trình bởi vì họ đã móc ngoặc với các y tá và đồng lõa trong các vấn đề vắng mặt mà trở thành căn bệnh địa phương. Họ đã không muốn một sơ đồ khuyến khích buộc các y tá đến, hay giảm lương của họ nếu họ không đến.

Cái mà tình tiết này minh họa là một phiên bản vi mô của sự khó khăn để thực hiện những sự thay đổi có ý nghĩa khi trước hết các thể chế là nguyên nhân của các vấn đề. Trong trường hợp này, đã không phải là các chính trị gia tham nhũng hay các doanh nghiệp hùng mạnh làm xói mòn cải cách thể chế, mà đúng hơn, cơ quan quản lý y tế địa phương và các y tá đã có khả năng phá hoại sơ đồ khuyến khích của Seva Mandir và các nhà kinh tế học phát triển. Việc này gợi ý rằng nhiều khuyết tật thị trường vi mô mà có vẻ dễ sửa có thể là hão huyền: cấu trúc thể chế mà tạo ra các khuyết tật thị trường sẽ cũng ngăn cản việc thực hiện những can thiệp để cải thiện các khuyến khích ở mức vi mô. Cố gắng để sắp đặt sự thịnh vượng mà không đối mặt với nguyên nhân gốc rễ của các vấn đề – các thể chế khai thác và nền chính trị giữ chúng trong vị trí – là không chắc có kết quả.

 

SỰ THẤT BẠI CỦA VIỆN TRỢ NƯỚC NGOÀI

Tiếp sau các cuộc tấn công của Al Qaeda ngày 11 tháng Chín, 2001, các lực lượng do Hoa Kỳ lãnh đạo đã nhanh chóng lật đổ chế độ áp bức Taliban ở Afghanistan, mà đã che dấu và từ chối giao nộp các thành viên chủ chốt của Al Qaeda. Hiệp định Bonn tháng Mười Hai 2001 giữa các lãnh đạo của mujahideen Afghan trước đây những người đã hợp tác với các lực lượng Hoa Kỳ và các thành viên chủ chốt của cộng đồng Afghan hải ngoại, kể cả Hamid Karzai, đã tạo ra một kế hoạch cho việc thiết lập một chế độ dân chủ. Bước đầu tiên đã là đại hội đồng toàn quốc, Loya Jirga, mà đã bầu Karzai để lãnh đạo chính phủ lâm thời. Tình hình đã trở nên tốt hơn cho Afghanistan. Đa số nhân dân Afghan đã mong đợi để Taliban lại đằng sau. Cộng đồng quốc tế đã nghĩ rằng tất cả cái Afghanistan cần bây giờ là một sự bơm mạnh viện trợ nước ngoài vào. Các đại diện từ Liên Hiệp Quốc và nhiều NGO hàng đầu chẳng mấy chốc đã xuống thủ đô Kabul.

Cái xảy ra sau đó đã không phải là một sự ngạc nhiên, đặc biệt căn cứ vào sự thất bại của viện trợ nước ngoài cho các nước nghèo và các nhà nước thất bại trong năm thập kỷ qua. Ngạc nhiên hay không, lễ nghi thường lệ đã được lặp lại. Rất nhiều nhà viện trợ và tùy tùng của họ đã đến thành phố với các máy bay phản lực riêng của họ, các NGO thuộc đủ loại đổ vào để theo đuổi các chương trình nghị sự riêng của họ, và các cuộc nói chuyện cấp cao giữa các chính phủ và các đoàn đại biểu từ cộng đồng quốc tế. Hàng tỷ dollar bây giờ đổ vào Afghanistan. Nhưng ít trong số đó đã được dùng để xây dựng hạ tầng cơ sở, các trường học, hay các dịch vụ công khác thiết yếu cho sự phát triển của các thể chế bao gồm hay thậm chí cho việc tái lập luật pháp và trật tự. Trong khi phần lớn hạ tầng cơ sở vẫn rách rưới, khoản tiền đầu tiên đã được sử dụng để đưa vào vận hành một tuyến hàng không hoạt động con thoi quanh các quan chức Liên Hiệp Quốc và quốc tế khác. Việc tiếp theo họ đã cần đến là các lái xe và các phiên dịch. Cho nên họ đã thuê số quan chức ít ỏi nói được tiếng Anh và các giáo viên còn lại ở các trường học Afghan để làm lái xe và đi kèm họ đó đây, trả cho họ nhiều lần lương Afghan hiện hành. Vì số các quan chức có kỹ năng là ít và lại bị chuyển sang công việc phục vụ cộng đồng viện trợ nước ngoài, các luồng viện trợ, thay cho xây dựng cơ sở hạ tầng ở Afghanistan, lại đã bắt đầu làm xói mòn nhà nước Afghan mà họ được cho là để dựa vào và để củng cố.

Những người dân làng trong một huyện xa trong thung lũng trung tâm của Afghanistan đã nghe một công bố trên radio về một chương trình mới nhiều triệu dollar để phục hồi lại nhà cửa cho vùng của họ. Sau một thời gian dài, một ít xà gỗ, được chở bởi cartel vận tải của Ismail Khan, viên cựu tư lệnh nổi tiếng và thành viên của chính phủ Afghan, đã được giao. Nhưng chúng đã quá lớn để sử dụng vào bất cứ việc gì trong huyện, và các dân làng đưa chúng vào việc sử dụng khả dĩ duy nhất: làm củi. Thế thì cái gì đã xảy ra với hàng triệu dollar được hứa cho các dân làng? Trong số tiền được hứa, 20 phần trăm của nó được lấy ra như các chi phí của văn phòng trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Geneva. Phần còn lại được thầu lại cho một NGO, mà lấy 20 phần trăm nữa cho các chi phí văn phòng trụ sở chính của nó ở Brussels, và vân vân, cho ba lớp nữa, với mỗi bên lấy khoảng 20 phần trăm nữa của phần còn lại. Số tiền ít ỏi đến được Afghanistan đã được dùng để mua gỗ từ miền tây Iran, và phần lớn của nó được trả cho cartel vận tải của Ismail Khan để bù cho giá vận tải đã được thổi phồng lên. Đã phải có một chút phép mầu rằng các xà gỗ quá khổ đó thậm chí đã đến được làng.

Cái đã xảy ra ở thung lũng trung tâm của Afghanistan không phải là một sự cố cô lập. Nhiều nghiên cứu ước lượng rằng chỉ khoảng 10 hoặc nhiều nhất 20 phần trăm của viện trợ từng đến được mục tiêu của nó. Có hàng tá cuộc điều tra gian lận đang diễn ra về các lời tố giác các quan chức Liên Hiệp Quốc và địa phương chuyển lấy tiền viện trợ. Nhưng phần lớn sự lãng phí nảy sinh từ viện trợ nước ngoài không là gian lận, mà chỉ là sự bất tài hay thậm chí tồi hơn: công việc đơn thuần như bình thường đối với các tổ chức viện trợ.

Kinh nghiệm Afghan với viện trợ đã thực ra có lẽ được cho là một thành công so với những nơi khác. Suốt năm thập kỷ qua, hàng trăm tỷ dollar đã được trả cho các chính phủ xung quanh thế giới như viện trợ “phát triển”. Phần lớn của số đó đã bị lãng phí về chi phí chung và tham nhũng, hệt như ở Afghanistan. Tồi hơn, rất nhiều trong số đó đã thuộc về những kẻ độc tài như Mobutu, người phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài từ những người đỡ đầu ông ta ở phương Tây cả để mua sự ủng hộ từ các khách hàng của ông ta để đỡ chế độ của ông ta và làm giàu cho chính ông ta. Bức tranh ở phần lớn phần còn lại của châu Phi hạ-Sahara đã là tương tự. Viện trợ nhân đạo được cấp cho sự cứu tế tạm thời trong các thời kỳ khủng hoảng, chẳng hạn, gần đây nhất ở Haiti và Pakistan, đã chắc chắn hữu ích hơn, cho dù sự phân phát của nó cũng đã bị làm hại trong các vấn đề tương tự.

Bất chấp thành tích không tâng bốc này của viện trợ “phát triển,”, viện trợ nước ngoài là một trong những chính sách phổ biến nhất mà các chính phủ phương Tây, các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, và các NGO thuộc các hạng khác nhau khuyến nghị như một cách để chiến đấu với nghèo khó quanh thế giới. Và tất nhiên, chu trình thất bại của viện trợ nước ngoài tự lặp lại mình hết lần này đến lần khác. Ý tưởng rằng các nước phương Tây giàu phải cung cấp lượng lớn “viện trợ phát triển” nhằm giải quyết vấn đề nghèo ở châu Phi hạ-Sahara, vùng Caribe, Trung Mỹ, và Nam Á dựa trên một sự hiểu sai về cái gì gây ra nghèo khó. Các nước như Afghanistan là nghèo bởi vì các thể chế khai thác của họ – mà dẫn đến sự thiếu các quyền tài sản, thiếu luật pháp và trật tự, hay thiếu các hệ thống pháp lý hoạt động tốt và sự thống trị ngạt thở của các elite quốc gia và, thường xuyên hơn, của elite địa phương lên đời sống chính trị và kinh tế. Cùng các vấn đề thể chế có nghĩa rằng viện trợ nước ngoài sẽ không hiệu quả, vì nó sẽ bị tước đoạt và không chắc được giao đến nơi mà nó được cho là phải đến. Trong kịch bản xấu nhất, nó sẽ làm chỗ dựa cho các chế độ mà ở chính gốc rễ của các vấn đề của các xã hội này. Nếu sự tăng trưởng kinh tế bền vững phụ thuộc vào các thể chế bao gồm, cấp viện trợ cho các chế độ chủ trì các thể chế khai thác không thể là giải pháp. Việc này không để phủ định rằng, thậm chí vượt quá viện trợ nhân đạo, lợi ích đáng kể đến từ các chương trình viện trợ đặc thù mà xây dựng các trường học tại các vùng nơi đã không có trước đó và trả lương cho các giáo viên những người khác đi không được trả. Trong khi phần lớn của cộng đồng viện trợ mà đã đổ vào Kabul đã làm được ít để cải thiện đời sống của những người Afghan bình thường, đã cũng có thành công đáng kể trong xây dựng các trường học, đặc biệt cho con gái, những người đã hoàn toàn bị loại trừ khỏi giáo dục dưới thời Taliban và thậm chí trước nữa.

Một giải pháp – mà gần đây trở nên phổ biến hơn, một phần dựa vào sự nhận ra rằng các thể chế có liên quan gì đó đến sự thịnh vượng và ngay cả đến việc phân phát viện trợ – là để biến viện trợ thành “có điều kiện.” Theo quan điểm này, viện trợ nước ngoài được tiếp tục phải phụ thuộc vào các chính phủ nhận viện trợ thỏa mãn các điều kiện nào đấy – chẳng hạn, tự do hóa các thị trường hay tiến theo hướng dân chủ. Chính quyền George W. Bush đã tiến hành bước lớn nhất theo hướng loại này của viện trợ có điều kiện bằng bắt đầu các Tài Khoản Thách Thức Thiên Niên Kỷ, mà làm cho việc rót tiền viện trợ tương lai phụ thuộc vào những cải thiện chất lượng trong nhiều chiều kích của sự phát triển kinh tế và chính trị. Nhưng tính hiệu quả của viện trợ có điều kiện tỏ ra không tốt hơn loại không có điều kiện. Các nước không thỏa mãn các điều kiện này một cách điển hình vẫn nhận được nhiều viện trợ như các nước thỏa mãn. Có một lý do đơn giản: họ có nhu cầu lớn hơn đối với viện trợ thuộc loại hoặc phát triển hay nhân đạo. Và hoàn toàn có thể tiên đoán được, viện trợ có điều kiện có vẻ có ít ảnh hưởng lên các thể chế của một quốc gia. Rốt cuộc, sẽ hoàn toàn ngạc nhiên đối với ai đó như Siaka Stevens ở Sierra Leone hay Mobutu ở Congo đột nhiên bắt đầu dỡ bỏ các thể chế khai thác mà ông ta đã phụ thuộc vào chỉ vì một chút viện trợ nước ngoài nhiều hơn. Ngay cả ở châu Phi hạ-Sahara, nơi viện trợ nước ngoài là một phần đáng kể của ngân sách toàn bộ của nhiều chính phủ, và thậm chí sau các Tài Khoản Thách Thức Thiên Niên Kỷ, mà đã làm tăng phạm vi của tính có điều kiện, số lượng thêm viện trợ nước ngoài mà một nhà độc tài có thể nhận được bằng cách làm xói mòn quyền lực riêng của ông ta là cả nhỏ lẫn không bõ công để mạo hiểm hoặc sự thống trị được tiếp tục của ông ta đối với đất nước hay đối với cuộc sống của ông ta.

Nhưng tất cả điều này không ngụ ý rằng nên dừng viện trợ nước ngoài, trừ loại nhân đạo. Chấm dứt viện trợ nước ngoài là không thực tế và sẽ chắc dẫn đến thêm sự đau khổ con người. Nó không thực tiễn bởi vì các công dân của nhiều quốc gia phương Tây cảm thấy tội lỗi và lo lắng về những thảm họa kinh tế và con người quanh thế giới, và viện trợ nước ngoài làm cho họ tin rằng cái gì đó được làm để chiến đấu với các vấn đề. Cho dù cái gì đó này không rất hiệu quả, mong muốn của họ để làm việc đó sẽ tiếp tục, và như thế viện trợ nước ngoài sẽ tiếp tục. Các tổ chức quốc tế hết sức phức tạp và các NGO sẽ cũng không ngừng đòi hỏi và huy động các nguồn lực để bảo đảm sự tiếp tục của hiện trạng. Hơn nữa, sẽ là nhẫn tâm đi cắt viện trợ cho các quốc gia cần đến nhất. Đúng, phần lớn nó bị lãng phí. Nhưng nếu từ mỗi dollar cho viện trợ, mười cent được đưa cho người nghèo nhất trên thế giới, đó là mười cent nhiều hơn số họ đã có trước đó để xóa sự nghèo khốn nạn nhất, và nó vẫn có thể tốt hơn không có gì.

Có hai bài học quan trọng ở đây. Thứ nhất, viện trợ nước ngoài không phải là một phương tiện rất hiệu quả để giải quyết sự thất bại của các quốc gia quanh thế giới. Còn xa mới thế. Các nước cần các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm để phá vỡ vòng nghèo khó. Viện trợ nước ngoài một cách điển hình có thể làm ít trong khía cạnh này, và chắc chắn không với cách mà nó hiện đang được tổ chức. Nhận ra gốc rễ của sự bất bình đẳng thế giới và của sự nghèo khó là quan trọng chính xác sao cho chúng ta đừng đặt những hy vọng của mình vào các triển vọng giả. Vì các gốc rễ ấy nằm trong các thể chế, viện trợ nước ngoài, bên trong khung khổ của các thể chế cho trước trong các quốc gia nhận viện trợ, sẽ làm ít để kích thích mạnh mẽ sự tăng trưởng bền vững. Thứ hai, vì sự phát triển các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm là chìa khóa, việc sử dụng các luồng viện trợ nước ngoài hiện tồn chí ít một phần để tạo thuận lợi cho sự phát triển như vậy sẽ là hữu ích. Như chúng ta đã thấy, tính có điều kiện không phải là câu trả lời ở đây, vì nó đòi hỏi các nhà cai trị hiện hành đưa ra những sự nhượng bộ. Thay vào đó, có lẽ cấu trúc viện trợ nước ngoài sao cho việc sử dụng và quản lý của nó đưa các nhóm và các nhà lãnh đạo mặt khác bị loại trừ khỏi quyền lực vào quá trình ra quyết định và trao quyền cho một mảng rộng của dân cư có thể là một triển vọng tốt hơn.

Người dịch: Nguyễn Quang A

Nguồn: Why Nations Fail

THE ORIGINS OF POWER, PROSPERITY, AND POVERTY

Daron Acemoglu and Jemes A. Robinson

Crown Publishers ● New York

 


 

 


 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114570269

Hôm nay

218

Hôm qua

2287

Tuần này

218

Tháng này

228793

Tháng qua

129483

Tất cả

114570269