Nhìn ra thế giới

Giáo trình lịch sử Nhật Bản (Phần hai: Mạc phủ Muromachi và Edo)[2]

Tiết 2: Nụy khấu và chính sách đối ngoại của Mạc phủ.

2.1 Nụy khấu và mậu dịch Nhật Minh:

Trong phần này, chúng ta thử quan sát chính sách ngoại giao của Mạc phủ Muromachi trong suốt 180 năm trãi qua 15 đời Shôgun. Đồng thời đại với Mạc phủ Muromachi (1336-1573) nhưng kéo dài mãi về sau là nhà Minh (1368-1644) bên Trung Quốc và họ Rhee (hay I, Lý, 1392-1910) ở Triều Tiên.

Dưới thời Ashikaga Takauji cai trị Nhật Bản có một vị tăng tên Musô Soseki (Mộng Song Sơ Thạch, 1275-1351) thuộc tông Rinzai (Lâm Tế), môn phái Zen (Thiền) có ảnh hưởng rất lớn đến tầng lớp vũ gia cao cấp tự thời Kamakura. Vị này đã khuyên nhà chúa nên xây một ngôi chùa (đó là Tenryuuji hay Thiên Long Tự) để an ủi oan hồn của Thiên hoàng Go-Daigo (Hậu Đề Hồ, trị vì 1318-1339, sống 1288-1339), người bị Shôgun Takauji phản bội trong cuộc trung hưng thời Kenmu và đã uất hận đến nổi ly khai, bỏ vào rừng núi Yoshino lập ra Nam Triều. Chi phí xây chùa do nguồn lợi thu lượm được từ đoàn thuyền mậu dịch sang bên nhà Nguyên. Đó là khoảng năm 1342 (Kôei nguyên niên) và người ta gọi những chiếc thuyền mậu dịch đó là Tenryuujibune (Thuyền chùa Tenryuu). Thực ra thì cách thức “thuyền nhà chùa” này cũng đã có tiền lệ dưới thời Kamakura rồi. Năm 1325 (Shôchuu 2), để trùng tu Kenchôji (Kiến Trường Tự), Mạc phủ Kamakura cũng đã cho phép những chiếc thuyền mậu dịch mang tên Kenchôjibune  (Thuyền chùa Kenchô) sang nhà Nguyên buôn bán.

                            

Wakô (Nụy khấu)

Tưởng là khi thông thương như thế thì có thể xem như giữa mạc phủ với nhà Minh (nối nghiệp nhà Nguyên bên Trung Quốc) từng có trao đổi về ngoại giao rồi nhưng thực ra, giữa hai nước không hề có một quan hệ chính thức. Ngược lại, đó là một thời kỳ rất đặc biệt: thời của Wakô (Nụy khấu, Oải hay Oa khấu). Wakô hoạt động rất mạnh mẽ và đã làm cho hai nước Minh và Triều Tiên khốn đốn trong một thời gian dài.

Wako là ai vậy? Wa (Nụy, Oa, Oải) vốn là tiếng Trung Quốc xưa kia gọi người Nhật Bản với giọng điệu khinh thị. Còn kô (khấu) thì trong các tự điển đều cho ta biết rõ ràng, đó là bọn giặc, kẻ làm loạn, kẻ chuyên môn phá hoại hay địch đến từ bên ngoài.

Nhìn chung, Wakô chỉ bọn cướp biển (hải tặc) hung hãn xuất thân từ Nhật Bản. Nói cách khác, đó là những người Nhật làm nghề cướp bóc. Hoạt động của Wakô có thể chia làm hai thời kỳ: thời giữa thế kỷ 14 và thời giữa thế kỷ 16. Cần phân biết Wakô giai đoạn đầu (I) và Wakô giai đoạn sau (II). Tuy nhiên, tại sao thời này người Wa lại trở thành cướp biển? Chỉ là vì trong thời buổi đó, sự chi phối mặt biển đã trở thành một vấn đề nan giải và không một thế lực nào có đủ sức đứng ra cáng đáng.

Giai đoạn Wakô I tương đương với thời kỳ Nam Bắc Triều là một giai đoạn nước Nhật mất an ninh. Từ hậu bán thế kỷ 14 cho đến suốt thế kỷ 15, phải nói là cả vùng Đông Á, kể cả Nhật Bản, đang trải qua một thời kỳ thay đổi chính quyền trong nội bộ của họ làm cho tương quan giữa các quốc gia trong vùng (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản) cũng xáo trộn, sự cai quản mặt biển trở nên lỏng lẻo. Sau khi ấy thì bên trong các nước, lần hồi các chính quyền nội bộ được thành lập vững vàng rồi từ đó đẻ ra một liên hệ quốc tế mới.

Tóm lại là Wakô đã được sinh ra trong tình huống như vậy. Wakô có căn cứ ở các đảo Tsushima (Đối Mã), Iki (Nhất Kỳ) và vùng Hizen Matsuura (nay là một phần tỉnh Saga và Nagasaki trên đảo Kyuushuu). Đó là những tập đoàn hải tặc mà người Nhật là bộ phận nòng cốt. Chúng hoành hành ở vùng duyên hải Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Khởi đầu chúng chỉ có 2,3 chiếc thuyền nhưng sau đó đã tổ chức thành những tập đoàn vài trăm chiếc. Kể từ ấy, Wakô trở thành một vấn đề làm nhức óc nhà đương cuộc Trung Quốc lẫn Triều Tiên.

 Trong khi đó, bên Trung Quốc, Chu Nguyên Chương (sau đó lên ngôi Thái Tổ Hồng Vũ Đế nhà Minh) vào năm 1368 đã thành công trong việc đánh đuổi triều đình nhà Nguyên của tộc Mông Cổ ra khỏi Bắc kinh và tái lập vương triều tộc Hán. Triều Minh của ông ra đời tương ứng vào lúc Ashikaga Yoshimitsu (Túc Lợi Nghĩa Mãn, tại vị 1368-1394, sinh sống 1358-1408) làm Shôgun.

Như đã nói tự đầu, trong một khoảng thời gian, giữa mạc phủ của Nhật Bản và Trung Quốc, không có liên hệ ngoại giao chính thức ngay cả sau khi hai cuộc xâm lăng của quân Nguyên đã kết thúc. Chỉ có những đoàn thuyền tư nhân qua lại buôn bán mà thôi. Thế rồi sau khi Chu Nguyên Chương thống nhất trung nguyên, ông bèn nghĩ đến việc tái lập quan hệ quốc tế truyền thống mà người Trung Quốc giữ địa vị trung tâm, kêu gọi các lân bang nối lại ngoại giao. Có thể một trong những mục đích của hoàng đế nhà Minh là nếu kết nối được quan hệ ngoại giao chính thức, Nhật Bản sẽ phải giúp ông kiềm chế Wakô đang uy hiếp vùng duyên hải Trung Quốc.

Thế nhưng trước lời kêu gọi của nhà Minh, Nhật Bản chẳng đáp ứng được gì bởi vì chính họ hãy còn đang ở trong tình trạng hỗn loạn của cuối thời Nanbokuchô (Nam Bắc Triều).Chưa có một chính quyền thống nhất để đàm phán, họ đành một lần nữa bỏ qua cơ hội thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Quốc.

Trên thực tế thì lúc đó, Mạc Phủ Muromachi dù đã chi phối được nhiều địa phương nhưng riêng Kyuushuu thì hãy chưa. Trên hòn đảo lớn này, thế lực của Hoàng tử Kaneyoshi (Hoài Lương thân vương,  ? - 1383)[1] - một người con trai của Thiên hoàng Go-Daigo - vẫn còn rất mạnh. Nhà Minh vì thấu hiểu sự tình nên trước tiên đã gửi sứ giả đến với hoàng tử. Thế nhưng tại sao nhà Minh thay vì gửi sứ đi gặp Yoshimitsu ở Kyôto, lại xử sự như vậy? Đó là một câu hỏi đáng cho chúng ta đặt ra.

Bởi vì xưa nay Dazaifu (Đại tể phủ) ở Kyuushuu vẫn là cánh cửa ngoại giao phải mở ra khi muốn chế ngự Wakô. Lúc đó, người có thế lực ở phủ này và có thể cộng tác với họ không ai khác hơn Hoàng tử Kaneyoshi. Đây là con đường ngoại giao ngắn nhất mà nhà Minh có thể dùng để đạt mục tiêu. Huống chi nếu hoàng tử chấp nhận sự giao hiếu của nhà Minh, ông sẽ được Minh triều chính thức nhìn nhận là “Nhật Bản quốc vương”.Một khi nhà Minh chịu làm hậu thuẫn, hoàng tử sẽ có cơ hội giữ Kyuushuu như một lãnh thổ độc lập. Đó là một chi tiết ít khi thấy có nhà viết sách giáo khoa nào ở Nhật nói đến. Chuyện này xảy ra vào năm 1371 (Ôan 8), một thời gian dài trước khi Yoshimitsu bật đèn xanh cho mậu dịch giữa hai nước chính thức bắt đầu.

Về sau, để bình định Kyuushuu, Mạc phủ Muromachi đã gửi võ tướng và cũng là nhà thơ waka lừng danh Imagawa Ryôshun (Kim Xuyên Liễu Tuấn, 1326- khoảng 1414) xuống Kyuushuu tandai giữ chức vụ thủ hiến trên đảo. Ryôshun đã đánh bại Kaneyoshi, giúp Yoshimitsu thống nhất toàn quốc. Từ đó, Yoshimitsu mới có thể đáp lời kêu gọi của nhà Minh. Vào năm 1401 (Ôei 8), ông đã gửi sứ giả sang bên ấy thiết lập quốc giao. Đó là buớc đầu của mậu dịch Nhật Minh và cũng là bước đầu của giao lưu văn hoá với những thiền tăng phái Gozan (Ngũ sơn). Gidô Shuushin (Nghĩa Đường Chu Tín, 1325-1388), Zekkai Chuushin (Tuyệt Hải Trung Tân, 1336-1405). Ngoài việc xuất bản bản in khắc thơ văn chữ Hán gọi là Gozanban (Ngũ sơn bản), nền tảng của phong trào Gozan bungaku (văn học Ngũ sơn), còn có nhiều đóng góp như cố vấn cho các hoạt động chính trị, ngoại giao của mạc phủ. Chẳng những thế, các thiền tăng còn giới thiệu các khía cạnh văn hóa khác của đời sống Trung Quốc đến cho người Nhật. Tập nhật ký mang tên Kuuge Nikkishuu (viết tắt của Không hoa nhật dụng công phu lược tập, 20 quyển) của Gidô Shuushin có thể xem như một tài liệu quí báu giúp chúng ta hiểu thêm về sinh hoạt chính trị, xã hội của người đương thời.

Như ta đã biết, mậu dịch Nhật Minh bắt đầu vào năm 1301 (Ôei 8). Ngay trước khi mậu dịch bắt đầu, Yoshimitsu tổ chức đoàn thuyền gọi là Kenminsen (Khiển Minh thuyền).Viên chính sứ là Soa (Tổ A), một tăng lữ thân tín của ông. Phó sứ là Koitsumi (Phì Phú), một thương nhân ở Hakata. Quan hệ mậu dịch Nhật Minh bắt đầu như thế nào thì đã được ghi lại trong Zenrin Kokuhôki (Thiện lân quốc bảo ký), một sử liệu do tăng phái Rinzai là Zuikei Shuuhô (Thụy Khê Chu Phượng, 1391-1473) chấp bút. Nhân đây cũng nên để ý đến một chuyện: nhà buôn Koitsumi (Phì Phú) nói đến trên kia thật ra có họ Koizumi (Tiểu Tuyền), thuộc cánh Kobayakawa (Tiểu Tảo Xuyên), một nhóm hải tặc (kaizokushuu) hoạt động ở vùng biển nội địa Seto. Còn như muốn biết về hình thù con thuyền đi sứ nhà Minh (Kenminsen) như thế nào, chúng ta có thể tham khảo ở Shinnyodô engi Emaki (Chân Như Đường duyên khởi hội quyển) tức “quyển tranh cuộn nói về gốc gác Chân Như Đường[2]”. Rõ ràng là “thuyền có 2 cánh buồm, ở giữa sàn thuyền có một kiến trúc giống như căn buồng lợp bằng vỏ cây hinoki (Japanese cypress)”.

                          

Thuyền mậu dịch Nhật - Minh

Khi ngoại giao giữa hai nước thành lập, Yoshimitsu đã cho sứ thần mang quốc thư sang và năm sau, hoàng đế nhà Minh cũng phúc đáp. Trung Quốc nhìn nhận Yoshimitsu như vua Nhật Bản. Danh hiệu nhà Minh ban tặng cho ông là Nihon kokuô Gen Dôgi (Nhật Bản quốc vưong Nguyên Đạo Nghĩa). Gen (Nguyên) vì Yoshimitsu là dòng dõi nhà Minamoto[3], còn Dogi (Đạo Nghĩa) là pháp danh của ông. Nhà Minh cũng ban lịch. Việc Nhật Bản nhận lịch rất đáng ghi nhớ bởi vì nó có ý nghĩa sâu sắc: qua hành động ấy, Nhật Bản chấp nhận mình như một quốc gia nằm trong vòng ảnh hưởng của Minh triều. Từ đó về sau, mỗi khi Shôgun Nhật Bản gửi văn thư cho hoàng đế nhà Minh thường dùng lối xưng danh Nihon Kokuô shin Minamoto mà shin có nghĩa là thần hạ. Shôgun đã xưng thần với vua Minh trong một quan hệ nước lớn nước nhỏ gọi là thể chế sách (sắc) phong (sakuhô taisei).

Theo đó, sự thiết lập mậu dịch khởi đầu bằng việc quốc vương Nhật Bản mang lễ vật triều cống hoàng đế nhà Minh và để đáp lại sự tùng phục ấy, Minh cho phép (hạ tứ) mua sản vật của Minh về. Tiếng chuyên môn gọi đó là hình thức “mậu dịch theo lối triều cống”. Thuyền Nhật Bản phái sang Trung Quốc lúc ấy phải có giấp phép do nhà Minh cấp. Giấy phép đó là loại chứng minh thư làm theo lối kangô (khám hợp). Nguyên lai, kangô nghĩa là xem xét có ăn khớp hay không. Với Nhật Bản thì “giấy phép” đó gồm hai thứ thẻ bài, một khắc chữ Nhật, một khắc chữ Bản và có số hiệu đính kèm (từ 1 đến 100), ví dụ Nhật tự nhất hiệu, Bản tự thập tam hiệu vv.... Mỗi thứ đều được chẻ đôi, một phần gọi là kango (khám hợp), phần kia dùng để làm bản gốc, để kiểm tra có ăn khớp hay không. Nó được gọi là kango teibo (khám hợp để bạ) mà teibô (để bạ) nghĩa là sổ gốc. Thuyền từ Nhật sang Trung Quốc thì dùng mảnh kangô có viết chữ Bản (Honji kangô), còn thuyền từ Trung Quốc sang Nhật phải mang theo mảnh kangô có viết chữ Nhật (Nichiji kangô). Như thế, hai nước đã thiết lập được một con đường giao thương chính thức và có thể kiểm soát được hoạt động đó (cũng để loại trừ khả năng thuyền cướp biển Wakô đi làm mậu dịch “chui”). Hai trạm kiểm soát của nhà Minh được đặt ở Ninh Ba (Ningpo) và Bắc Kinh (Pekin). Thuyền mậu dịch chính thức ấy vì thế có tên là kangôsen (khám hợp thuyền) và chứng thư của nó sau được gọi là kangôfu (khám hợp phù).  

                        

Quan lại kiểm nhận thẻ kangôfu

Mậu dịch kiểu kangô đã bắt đầu từ năm Ôei thứ 14 (1404) và trong vòng 150 năm đã có 19 lần thuyền Kenminsen (Khiển Minh thuyền) được phái qua Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng có khi việc qua lại bị gián đoạn. Đó là sự cố xảy ra vào đời Shôgun thứ 4 là Yoshimochi (Nghĩa Trì, tại chức 1394-1423). Lý do hình như là phía Nhật Bản không chịu được sự khuất nhục khi bị nhà đương cuộc Trung Quốc khám xét thẻ bài và Shôgun Yoshimochi vốn ghét lối mậu dịch giới hạn hẹp hòi như thế nên đã ra lệnh ngưng.

Chính trị “xét lại” của Shôgun Yoshimochi

 

Yoshimitsu

Yoshimochi

Shôgun quyết định một mình (độc đoán)

Chế độ hiệp nghị với các nguyên lão đại thần (shukurô kaigi = túc lão hội nghị)

Mưu đồ soán đoạt (ngồi ngang hàng (bình tọa) với Thiên hoàng, đặt nghi thức như lập thái tử cho con cháu mình)

Bãi bỏ danh xưng Thái thượng pháp hoàng của Yoshimitsu

Xúc tiến mậu dịch khám hợp Nhật Minh

Ngưng mậu dịch Nhật Minh vì cảm thấy nhận sách phong là nhục nhã.

Thế nhưng khi Yoshimochi quyết định như vậy, ông đã làm thiệt thòi cho phía Nhật Bản vì sự giao thương ấy đem lại cho họ rất nhiều lợi ích. Khi thực hiện mậu dịch dưới hình thức triều cống, phía Nhật Bản đỡ phải trả rất nhiều kinh phí từ tiền ăn ở, tiền chuyển vận. Mọi thứ đều được phía nhà Minh phụ đảm. Do đó, sau khi Shôgun Yoshimochi qua đời thì người Nhật, vì đặt lợi ích kinh tế lên trên, đã tái lập giao thương với Trung Quốc vào năm Eikyô 4 (1432) đời Shôgun thứ 6 là Yoshinori (Nghĩa Giáo, tại chức 1429-1441). Tóm lại, kangyô bôeki (khám hợp mậu dịch) đã bắt đầu với Shôgun đời thứ 3 (Yoshimitsu), gián đoạn với Shôgun đời thứ 4 (Yoshimochi) và tái lập với Shôgun đời thứ 6 (Yoshinori).    

Sau đây xin liệt kê những loại sản phẩm đã được người Nhật xuất khẩu và nhập khẩu trong việc mậu dịch với nhà Minh.

-Hàng xuất: các loại vũ khí và vũ cụ như đao kiếm, thương, áo giáp, các mặt hàng tiêu dùng hay nghệ thuật phẩm như quạt, bình phong, các khoáng chất như đồng, lưu huỳnh.

-Hàng nhập: tiền đồng, tơ sống, các loại đồ thêu và đồ gốm cao cấp, hội họa và thư tịch.

Những hàng nhập từ Trung Quốc thời ấy, người Nhật gọi là Karamono (Đường vật) và rất quí trọng chúng. Ngoài ra, tiếp nối việc nhập khẩu tiền đời Tống (Sôsen =Tống tiền) của Mạc phủ Kamakura, họ cho nhập một lượng hết sức lớn tiền nhà Minh (Minsen = Minh tiền). Lý do là vì Nhật Bản không đúc tiền nữa, phải sử dụng tiền nước ngoài đã đúc sẳn để thỏa mãn nhu cầu giao dịch thương mại quốc nội. Đương thời, ba loại tiền nhà Minh được người Nhật yêu chuộng là Hồng Vũ thông bảo, Vĩnh Lạc thông bảo và Tuyên Đức thông bảo. Ba loại tiền này đều mang niên hiệu các hoàng đế nhà Minh.

Mậu dịch theo thể chế sách phong ở vùng Đông Á chủ yếu bao gồm 4 nước: Trung Quốc nhà Minh, Nhật Bản thời Muromachi, Triều Tiên họ Lý (Rishi Chôsen) và Vương quốc Lưu Cầu (Ryuukyuu ôkoku). Với cả 3 nước, nhà Minh nhận triều cống (chôkô) và hạ tứ (kashi) bán cho phương vật. Các mặt hàng xuất nhập khẩu giữa Minh và Nhật Bản như thế nào thì đã được trình bày bên trên. Còn như giữa Nhật Bản và Triều Tiên thì Nhật nhập bông vải, nhân sâm và đại tạng kinh, xuất đồng, lưu huỳnh, các loại gỗ thơm (kôboku = hương mộc) và cây cỏ để nhuộm màu (soboku = tô mộc). Với Lưu Cầu thì Nhật nhập gỗ thơm và cây cỏ nhuộm màu, xuất đao kiếm, quạt, đồng.

Mậu dịch kiểu kangô (khám hợp) đến hậu bán thế kỷ thứ 15 thì nhân lúc Mạc phủ suy thoái, thực quyền nằm trong tay thương nhân hai thành phố Sakai và Hakata. Họ Hosokawa kết hợp với thành phố Sakai ở vùng biển nội địa trong khi họ Ôuchi liên kết với Hakata trên đảo Kyuushuu. Thế rồi giữa hai dòng họ này lại xảy ra những vụ tranh đoạt kịch liệt về lợi ích, đến nổi năm Taiei 5 (1253), bọn họ đã gây ra một cuộc xung đột giữa người Nhật với nhau ở cảng Ninh Ba (Ningpo) trên đất Trung Quốc.Sử gọi đó là cuộc biến loạn ở Ninh Ba (Ninpo no ran). Người thắng cuộc trong vụ tranh chấp này là họ Ôuchi nên từ dạo ấy, họ Ôuchi đã loại được họ Hosokawa để dành lấy độc quyền mậu dịch với nhà Minh. Tuy nhiên, chính họ Ôuchi này đến giữa thế kỷ thứ 16, vì bị cuốn vào các cuộc tranh hùng với lân quốc trong thời Sengoku (Chiến Quốc Nhật Bản, 1467-1568) rồi bị diệt vong sau đó cho nên mậu dịch kangô cũng lụi tàn theo. Như thế, kể từ giữa thế kỷ 16 trở đi, hải tặc Wakô (Nụy khấu) lại có cơ hưng thịnh và hoạt động mạnh mẽ. Nhóm Wakô này được gọi là Wakô hậu kỳ (Wako giai đoạn II).

Đặc trưng của Wakô II là họ không chỉ thuần có người Nhật mà là một tập đoàn kết hợp hai nhóm buôn lậu Trung Quốc (phần lớn) và Nhật Bản, Đài Loan, Lưu Cầu (phần nhỏ). Những người này vừa làm mậu dịch “chui” bằng cách đem bạc của Nhật đổi lấy tơ sống của Trung Quốc nhưng đồng thời cũng cướp bóc khắp nơi. Trị được họ có lẽ phải đợi đến cuối thế kỷ 16, lúc Tể tướng Toyotomi Hideyoshi (Phong Thần Tú Cát, 1537-1598) thành công trong việc tăng cường sức mạnh quân sự của Nhật Bản trên mặt biển.

Ta thấy rõ rằng mỗi khi có sự xung đột quyền lực chính trị thì Wakô lại hoạt động mạnh mẽ, còn như khi tình hình yên ổn rồi thì Wakô bị khống chế, phải rút lui vào bóng tối.Thời Sengoku vì loạn lạc không ngừng, chúng lại xuất hiện và hoành hành. Đến lúc Hideyoshi thống nhất được Nhật Bản, chúng trở nên im ắng. Như vậy, mậu dịch Nhật Minh giống như một cái phong vũ biểu. Tùy theo sự hưng thịnh hay suy thoái của nó mà người ta đoán biết được những thế lực chiếm giữ sân khấu chính trị có vững vàng hay không.

 2.2 Quan hệ Nhật Bản-Triều Tiên:

Đến đây, chúng ta thử xét về mối quan hệ giữa Nhật Bản và Triều Tiên.Trên bán đảo Triều Tiên, I Song-gye (Lý Thành Quế) - vị tướng từng đánh bại cướp biển Wakô vào năm Meitoku 3 (1392) - đã thành công trong việc chấm dứt sự cai trị của triều đình Cao Li (Goryeo) và xây dựng một đế chế mới: vương triều Triều Tiên (Joseon) (tiếng Nhật đọc là Chosen Rishi hay nước Triều Tiên họ Lý)[4]. Nhà nước Triều Tiên vừa thành lập đã có ngay bang giao chính thức với Nhật Bản để yêu cầu họ chặn đứng sự lộng hành  của Wakô. Việc này cũng đã xảy ra đồng thời với sự xúc tiến mậu dịch Nhật Minh nghĩa là vào dưới thời Shôgun Yoshimitsu cầm quyền.

                        

Triều Tiên Thái Tổ Lý Thành Quế

Mậu dịch Nhật Triều đã được tổ chức song song với mậu dịch Nhật Minh. Thế nhưng về hình thức vận hành thì có hơi khác. Lúc đầu mậu dịch Nhật Triều không có sự tham dự của mạc phủ. Nó chỉ được đóng góp bởi những thế lực địa phương như các lãnh chúa thủ hộ (shugo daimyô), hào tộc và thương nhân.Về phía Triều Tiên thì nhờ sự hiệp lực như môi giới của gia đình họ Sô (Tôn thị) ở vùng đảo Tsushima. Gia đình có thế lực này hầu như sắp đặt, định đoạt hình thức giao thương và quản lý việc mậu dịch giữa hai nước.

Sau đó, bước tiến của mậu dịch Nhật Triều đã có sự thay đổi nhân khi biến cố gọi là ngoại khấu (giặc đến từ bên ngoài) xảy ra vào năm Ôei thứ 26 (1419) (Ôei no gaikô).Nó làm cho sự giao thương phải đình chỉ trong một thời gian. Đó là sự kiện một đoàn thuyền gồm 200 tàu chiến Triều Tiên bất chợt tấn công đảo Tsushima, nơi mà họ nghĩ là sào huyệt của Nụy khấu (Wakô). Nguyên do của biến cố này là lúc đó, trong gia đình họ Sô đã xảy ra một chuyện tranh chấp về chức trưởng tộc làm cho quyền cai trị trên đảo bị yếu đi. Có lẽ phía nhà nước Triều Tiên vì lo lắng rằng nếu mọi việc cứ diễn tiến trong chiều hướng đó sẽ đưa đến nguy cơ là việc Wakô nắm lấy cơ hội bành trướng thế lực nên mới hạ thủ trước chăng?

Dù vậy, cho đến thế kỷ thứ 16, mậu dịch Nhật Triều rất thịnh vượng. Về phía Triều Tiên, nhờ sự giao dịch kinh tế này, họ đã có thể mở ra 3 hải cảng (phố) quan trọng là Phủ Sơn Phố (tức Phủ Sơn, Busan), Nãi Nhi Phố (Tế Châu hay Jeju) và Diêm Phố (Úy Sơn hay Ulsan). Ba hải cảng ấy được gọi chung là Sanpo (Tam Phố).Người Triều Tiên đã thành lập ở những nơi đây các cơ sở có tên là Wakan (Nụy Quán) dùng để tiếp đãi sứ thần Nhật Bản và xúc tiến mậu dịch.Chúng vẫn tiếp tục tồn tại như cơ sở ngoại giao giữa hai nước cho đến thời Meiji.

Ta đã biết Nhật nhập bông vải, đại tạng kinh và nhân sâm từ Triều Tiên nhưng đặc biệt phải chú ý đến việc họ nhập momen (bông vải) hơn cả. Lý do là vì vào thời điểm đó, Nhật Bản chưa bắt đầu trồng bông. Vải làm từ cây bông vải mềm mại dễ mặc, dễ nhuộm màu. Người Nhật vì thế rất yêu chuộng chúng trong cuộc sống hằng ngày. Bông vải sản xuất được ở Nhật là do hạt giống cây bông vải đến từ Triều Tiên. Bông vải phổ cập ở Nhật vào thời Sengoku (1467-1568) và đến thời Edo thì nó đã đóng vai trò chủ yếu trong việc hoàn thành cuộc “cách mạng về ăn mặc” của người trong nước. Muốn hiểu thêm về điều này, xin đọc tác phẩm Momen izen no koto (Cái thời trước khi có bông vải) của nhà dân tộc học sinh vào thời Meiji, Yanagita Kunio (Liễu Điền Quốc Nam, 1875-1962). Ngày nay ta không cảm thấy có gì khác thường đáng nói, nhưng phải biết là xưa kia việc sử dụng vải đã ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt của người Nhật. Còn đại tạng kinh, tên một mặt hàng du nhập quan trọng thứ hai thì thật ra chẳng có gì khác hơn là các loại kinh điển nhà Phật.

Tuy nhiên, một thời gian sau, mậu dịch Nhật Triều đã xuống dốc và điều này bắt nguồn từ một cuộc xung đột. Đó là cuộc biến loạn mang tên Sanpo no ran (Tam phố chi loạn, Loạn ở 3 hải cảng) xảy ra vào năm Eishô thứ 7 (1510). Trên ba bến cảng trên đất Triều Tiên (Busan, Jeju và Ulsan), chính quyền sở tại bắt đầu kiểm soát chặt chẽ hơn những con buôn Nhật sinh sống ở đó (gọi là kyoryuumin = cư lưu dân, dân ngụ cư) vốn được hưởng nhiều đặc quyền cho đến lúc bấy giờ. Dân ngụ cư (kiều dân Nhật) dựa vào thế lực nhà họ Sô ở Tsushima để chống lại chính quyền bản địa, gây ra bạo động. Kết quả là họ bị trấn áp nhưng đã quá trễ, vì lý do đó mà mậu dịch Nhật Triều cũng tàn lụi theo. 

2.3 Quan hệ giữa Mạc phủ Muromachi với Ryuukyuu và Ezogashima:

Trong lãnh vực đối ngoại của nhà nước Nhật Bản thời đó, không thể bỏ qua mối liên hệ giữa họ với hai khu vực quan trọng là quần đảo Ryuukyuu (Lưu Cầu) và Ezochi (Hà Di địa). Hai miền đất này lúc đó không do người Nhật cai quản. Tuy hiện nay hai vùng đã trở thành lãnh thổ Nhật Bản (quần đảo Okinawa và đảo Hokkaidô) nhưng vào thế kỷ 14, thật ra tình thế chưa hẳn là như thế.

Lúc ấy, đảo Okinawa (đảo chính của quần đảo Lưu Cầu) được ngăn ra làm ba phần tỉnh từ bắc xuống nam gọi là “Tam sơn”: Hokuzan (Bắc sơn), Chuuzan (Trung sơn) và Nanzan (Nam sơn). Dân trong ba vùng này thường xuyên tranh chấp với nhau. Thật ra, kể từ cuối thế kỷ thứ 11, người trên đảo đã sống dưới sự cai trị của hào tộc địa phương họ Aji (Án Ty). Rồi đến năm 1429 thì vua vùng Chuusan (Trung Sơn Vương) tên Shôhashi (Thướng Ba Chí) – sau khi trãi qua một cuộc chiến kéo dài 20 năm - đã thành công trong việc thu cả “tam sơn” về một mối và thành lập vương quốc Lưu Cầu. Quốc vưong nước Lưu Cầu lợi dụng vị trí bốn mặt có biển để thiết lập quốc giao và mậu dịch với các quốc gia lân cận, trong đó có Trung Quốc của nhà Minh và Nhật Bản. Không những thuyền bè Lưu Cầu chỉ qua lại Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên mà còn nới rộng hoạt động xuống phía nam đến tận các đảo Java, Sumatra và bán đảo Đông Dương. Lưu Cầu đã đóng một vai trò chủ chốt trong một hệ thống gọi là chuukei bôeki (trung kế mậu dịch, transit trade), làm cứ điểm tiếp nối trong việc chuyển vận hàng hóa giữa những vùng đất quá xa cách nhau về mặt địa dư. Lưu Cầu chuyên chở đao kiếm, đồ sơn mài, quạt, tranh cuộn, vải vóc đã dệt xong là những sản phẩm Nhật Bản, đem chúng sang Trung Quốc, ngược lại, họ mang từ Trung Quốc về Nhật những sản phẩm có nguồn gốc đại lục như đồ gốm đồ sứ, vải vóc, tiền đúc. Sản phẩm vùng biển nam như các loại cỏ thơm, hương liệu, hồ tiêu cũng được thuyền Lưu Cầu chở về bán cho người Hoa, người Hàn và người Nhật. Nói chung, Lưu Cầu chính là địa điểm trung gian giúp cho hệ thống mậu dịch của vùng Đông Á được phát triển. Do đó bến càng Naha (Na Bá) ở kinh đô Lưu Cầu là thành Shuri (Thủ Lý) đã trở thành một cứ điểm vô cùng quan trọng của cả vùng đất ấy.

                   

Thành Shuri ngày nay ở Naha (Okinawa)

Nếu nhìn những gì được khắc trên quả chuông đúc vào năm 1458 treo trước ngôi điện chính của thành Shuri (nay được chưng ở Viện Bảo Tàng tỉnh Okinawa), ta sẽ nghiệm ra điều đó. Quả chuông có tên là “Vạn quốc tân lương chung” ý nói nó là cái chuông kỷ niệm việc đóng vai trò “cây cầu nối liền muôn nước” với nhau của hải cảng Naha. Lời minh văn trên quả chuông nhắc đến Lưu Cầu như “hòn đảo Bồng Lai, thắng địa vùng Nam Hải, gắn bó mật thiết với Đại Minh và Tam Hàn, có thế môi răng với Nhật vực, đã đem thuyền bè làm cầu nối cho vạn quốc”. Muốn hiểu về phong tục cổ xưa và tâm tình của người dân Lưu Cầu, có thể tham khảo tác phẩm Omoro Sôshi (Ghi chép thể loại dân ca Omoro) của họ gồm 22 quyển với 1.554 bài dân ca Omoro, hoàn thành khoảng năm 1531-1632) thu góp những bài hát đã lưu hành trên quần đảo từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 17.

Mặt khác, về phần đất gọi là Ezochi, kể từ thế kỷ thứ 14 trở đi, nó đã nối kết được với mười ba bến cảng (tosaminato) của vùng Kinai (đất kinh kỳ) và Tsugaru (mũi đất ở phía bắc đảo Honshuu) cho nên việc mậu dịch ở khu vực biển Nhật Bản được triển khai rộng rãi.Những sản vật vùng Bắc hải như cá hồi (shake) và rong biển konbu được chuyên chở đến tận Kyôto. Thế rồi người Nhật ở miệt dưới cũng vượt qua eo biển Tsugaru để tiến vào vùng gọi là Ezogashima (nghĩa là “đảo của người Ezo”) tức phía nam đảo Hokkaidô bây giờ. Họ đã bắt đầu lập những cơ sở ven biển gọi là tate (quán) và các bến cảng (minato) làm nơi cư trú và hoạt động. Có hào tộc ở Tsugaru gốc người Wa (Wajin) họ Andô (An Đằng hay An Đông) đã mở mang việc cai trị đối với dân gốc Ainu trên đảo.

Một vùng duyên hải phía nam bán đảo Ôshima đã được các nhóm người di dân đến xây dựng nhiều đồn binh (jôsai, thành tái, hay tate) với lũy đất và hào rãnh. Tất cả khu vực ấy gồm có 12 đồn như thế. Chúng được gọi là Jônan juunitate (Nam đạo thập nhị quán). Tiêu biểu cho loại đồn như thế là Shinoridate, Hanasawadate, Mobetsudate. Thành phố Hakodate còn tồn tại đến ngày nay như một đô thị quan trọng ở Hokkaidô trước kia cũng chỉ là một loại đồn binh như thế. Hakodate được xây trên một địa điểm gọi là Usukeshi và có hình thù giống một cái hộp (hako) nên mới mang tên đó. Còn như cái đồn có tên là Shinoridate, nơi đã xảy ra cuộc biến loạn gọi là Koshamain (cuộc nổi dậy của Koshamain, tù trưởng một bộ lạc thổ dân), từ trong ba cái vò đất thật lớn ở đó, người ta khai quật được 40 vạn đồng tiền đồng Trung Quốc. Số tiền được chôn giấu này phỏng định có từ tiền bán thế kỷ 15. Đó là số lượng tiền đồng lớn nhất khai quật được chỉ từ một địa điểm trong toàn cõi Nhật Bản có từ trước tới nay. Qua đó, chúng ta thấy rằng khu vực nói trên đã từng chứng kiến một thời đại kinh tế vô cùng phồn vinh.      

                  

Tranh tù trưởng Shakushain người Ezo

Bên cạnh những người Wa từ phía nam đến di trú, trên đảo còn có sắc tộc bản quán là người Ainu. Họ chuyên sinh sống nhờ săn bắn, đánh cá và giao dịch (với cả người Wa). Thế nhưng khi người Wa lên đấy đông đảo, người Ainu thành ra bị chèn ép. Khi chịu đựng không nổi nữa, vào năm 1457 (Chôroku nguyên niên), người Ainu đã nổi dậy.Dưới sự lãnh đạo của đại tù trưởng Koshamain, họ đã tấn công và triệt hạ tất cả những cơ sở cư trú của người Wa (Wajin) trên đảo.

Sau đó, lãnh chúa vùng Jônokuni là họ Kakizaki thành công trong việc bình định cuộc nổi dậy này. Họ Kakizaki trở thành thế lực cai trị trên phần đất phiá nam đảo, nơi cư dân người Wa sinh sống. Đến đời Edo, khu vực này lại được đặt dưới quyền kiểm soát của phiên Matsumae (Tùng Tiền).

Qua những dòng trên, chúng ta đã tạm có một khái niệm về quan hệ đối ngoại của Nhật Bản dưới thời Muromachi.



[1] Còn gọi là Kanenaga. Được Thiên hoàng Go-Daigo giao trọng trách giữ vùng Kyuushuu. Chức Chinh tây tướng quân. Chết khoảng 55, 56 tuổi.

[2] Chùa tông Thiên thai ở vùng Sakyô (Tả kinh) thuộc kinh đô Kyôto, vốn tên là Shinshô kyokurakuji (Chân chính cực lạc tự) xây năm 984.,

[3] Các người cầm quyền Nhật Bản thường cố gắng đánh bóng tổ tiên. Họ Tokugawa (Owari), Shimadzu (Kagoshima), Takeda (Yamanashi), Hosokawa (Kunamoto), Sadake (Akita) đều tự nhận là dòng dõi Minamoto, vốn bắt đầu với Thiên hoàng Seiwa. Nhà Maeda (Kaga) nhận là con cháu của học giả Sugawara no Michizane, Hideyoshi xuất thân nông dân cũng được triều đình ân tứ họ Toyotomi, một chi của đại tộc Fujiwara.

[4] Sử Đại Hàn gọi cuộc đảo chánh phế bỏ vua Uwang (Ngu vương) vào năm 1388 của I Seong-gye (Lý Thành Quế) là vụ “hồi quân” (đem quân trở về kinh thành) từ Wihwa-do (Uy hoa đảo) khi ông đặt ưu tiên cho việc chấn chỉnh nội bộ trước việc hành quân chống giặc. Nó tương tự cuộc binh biến ở Trần Kiều của Triệu Khuông Dận bên Trung Quốc và lý do lên ngôi của Thập đạo tướng quân Lê Hoàn ở Việt Nam.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114597240

Hôm nay

2168

Hôm qua

2320

Tuần này

2488

Tháng này

223857

Tháng qua

131357

Tất cả

114597240