Nhìn ra thế giới

Giáo trình lịch sử Nhật Bản (Phần hai: Mạc phủ Muromachi và Edo)[5]

 5-Loạn Ônin. Thời Sengoku mở màn: 

 5.1 Chính trị chuyên chế nào đã đưa đến đại loạn?

 Cuộc nội loạn bắt đầu từ niên hiệu Ônin (Ứng Nhân, 1467-69) mang tên Loạn Ônin (Ônin no ran, 1467-77) là một biến động xã hội to tát hàng đầu của lịch sử Nhật Bản. Ảnh hưởng của nó nhiều lắm nhưng quan trọng nhất là việc nó đã khai sinh ra nền văn hóa Higashiyama (văn hoá Đông Sơn).

Học giả Naitô Kônan[1], một nhà nghiên cứu lịch sử sinh ra vào thời Meiji có lần phát biểu như sau: “Muốn hiểu xã hội Nhật Bản ngày nay, chỉ cần nghiên cứu cặn kẽ về  những gì xảy ra từ cuộc loạn Ônin là đủ.” Tuy không thể nhập tâm nguyên văn điều ông nói nhưng đúng như tinh thần lời phát biểu của Naitô Kônan, ta sẽ đồng ý với ông rằng cuộc loạn Ônin quả là bước ngoặt lớn trong lịch sử Nhật Bản. Không những ở vào thời điểm đó mà cả về sau cho đến thời cận đại và hiện đại, biến cố ấy vẫn còn liên quan mật thiết với cuộc sống trên quần đảo. Dạng thức văn hóa Higashiyama (Đông sơn) thành hình vào thời kỳ này đã không ngừng ghi dấu ấn trong sinh hoạt của con người Nhật Bản ngày nay. Do đó, ta có thể xem câu nói của Naitô Kônan là đích đáng vậy.

Trước khi mô tả tường tận văn hóa Higashiyama, hãy thử tìm hiểu về cuộc nội loạn, và trước đó, đâu là hình ảnh xã hội trước khi 10 năm chiến chinh đó xảy ra. Nói cách khác,  ta sẽ bàn về thể chế chính trị chuyên chế của Shôgun đời thứ 6 của Mạc phủ Muromachi là Yoshinori (Nghĩa Giáo, 1394-1441, tại chức 1429-1441) và cũng thử xem nó đã dẫn tới sự suy vong của chế độ bằng cách nào.

                                   

Tấm bia đánh dấu nơi cuộc đại loạn Ônin phát xuất

 Như từng nhắc đến bên trên, Yoshinori là vị Shôgun được chỉ định từ một cuộc xin xăm giũ quẻ (kujibiki) ở đền thần, nói cách khác, người lên ngôi nhờ bốc thăm. Ông là một vị Shôgun độc đoán và hung bạo nhất của triều đại Ashikaga. Ông nhắm củng cố địa vị của chức vụ Shôgun giữa lòng mạc phủ nên đã dùng sức mạnh để loại bỏ tất cả những thành phần nào không chịu phục tùng.Theo những gì chép lại về thời cuộc lúc đó trong tác phẩm Kanmongyôki (Khán văn ngự ký = Những điều nghe thấy), Yoshinori là người “cả thiên hạ đều khiếp vía” (bannin ga osoreru). Tăng sĩ Hokkeshuu (Pháp Hoa tông) là Nisshin (Nhật Thân, 1407-1488) dâng lên Yoshinori tác phẩm có tính điều trần là Risshôchikokuron (Lập chính trị quốc luận, 1439) để can gián khiến ông nổi giận.Yoshinori tra khảo Nisshin bằng cách bắt nhà sư phải đội một cái chảo nung thật nóng lên đầu. Do đó, tuy may mắn còn sống sót nhưng Nisshin phải mang lấy danh hiệu “nhà sư đội chảo” (nabekamuri shônin = oa quan thượng nhân) kể từ hình phạt khủng khiếp  này. 

Con người độc tài Yoshinori không chỉ tỏ ra ương ngạnh đối với mạc phủ Muromachi mà còn làm xấu đi những quan hệ của mình đối với phủ Kamakura ở miền Đông vốn đã căng thẳng từ trước. Kết quả là vào năm 1438 (Eikyô 10), ông đã ra lệnh cho quân đội tiến về vùng Tôgoku thảo phạt chính quyền Kamakura. Năm sau, chức Kubô (Công phương) của Kamakura là Ashikaga Mochiuji (Túc Lợi Trì Thị) bị ông diệt. Sử gọi đó là cuộc chiến loạn năm Eikyô (Eikyô no ran). Nguyên nhân gần của cuộc tranh phong này là chuyện trong nội bộ phủ Kamakura. Giữa chức kubô Mochiuji (Trì Thị) và chức Kantô kanrei quản lãnh vùng Quan Đông là Uesugi Norizane (Thượng Sam Hiến Thực) đã nẩy sinh một quan hệ đối lập. Biết rằng nếu biết lợi dụng tình thế ấy, mình có thể làm suy yếu thế lực Kamakura nên Yoshinori đã ra mặt ủng hộ họ Uesugi chống lại Mochiuji (thực ra Uesugi là họ ngoại còn Mochiuji là họ nội nhà ông ta mà thôi). Nói đến nhân vật Uesugi Norizane, ông còn được biết đến như người đã mở lại trường học Ashikaga (Ashikaga gakkô = Túc Lợi học hiệu) vào năm 1439 (Eikyô 11). Trường học Ashikaga là ngôi trường mà họ Ashikaga đã dựng lên để dạy dỗ cho con cháu nhà mình tự thời Kamakura. Thánh Francesco Xavier tức nhà truyền giáo đến Nhật Bản vào thời Sengoku, đã giới thiệu với người phương Tây sự hiện hữu của ngôi trường này qua cái tên Bandô no Daigaku (Bản (Phản) Đông đại học). Bandô ám chỉ các tỉnh miền đông Nhật Bản.

                        

Thánh Francesco Xavier

 Sau cuộc thảo phạt này của Yoshinori, vào năm 1440 (Eikyô 12), võ tướng và hào tộc Shimôsa no kuni (vùng bắc tỉnh Chiba ngày nay) Yuuki Ujitomo (Kết Thành, Thị Triều) đã phò hai con của Mochiuji là Haruômaru và Yasuômaru, dấy binh nổi dậy chống nhà chúa. Tuy nhiên ông ta sớm bị đè bẹp. Sau đó, con trai khác của Mochiuji là Shigeuji (Thành Thị) đã trở thành kubô của Kamakura nhưng chính Shigeuji cũng đối lập với họ Uesugi và gây ra cuộc loạn năm 1454 (Kyôtoku 3).

Tính cách độc đoán chuyên chính của Yoshinori càng ngày càng lộ liễu gây nên bất an trong chính trị. Năm 1441 (Kakitsu nguyên niên), chức shugo vùng Harima (nay là tây nam Kobe) tên Akamatsu Mitsusuke (Xích Tùng Mãn Hựu, 1337-1441 hay 1381-1441) đã mời Yoshinori đến nhà chơi rồi nhân đó mà giết đi.Sau vụ ám sát này, hai họ Yamana và Hosokawa đã đồng minh với nhau để thảo phạt họ Akamatsu (ta nhớ rằng họ Hosokawa là một trong tam quản lãnh và hai họ Akamatsu, còn Yamana thuộc tứ chức, đều là rường cột truyền đời của Mạc phủ Muromachi).Sử gọi biến cố này là Loạn năm Kakitsu (Kakitsu no ran). Thế rồi, từ ấy về sau, quyền hành của chức Shôgun càng ngày càng suy vi. Mặt khác, khi quân đội đã kéo xuống Harima để truy kích cánh Akamatsu thì ở Kyôto, các đại thần vẫn không sao đồng ý trong việc tuyển chọn một Shôgun mới. Thêm vào đó, sức mạnh của quân đội mạc phủ coi như là đã băng hoại nên không ngăn nổi một cuộc nổi dậy của dân chúng, một tsuchi-ikki với qui mô lớn chưa từng thấy. Đó là Kakitsu no tsuchi-ikki mà chúng ta có lần đề cập tới bên trên. Nó đã tạo nên cơ sở cho cuộc đại biến loạn năm Ônin.

5.2 Bối cảnh của cuộc loạn Ônin (Ứng Nhân):

Bối cảnh của cuộc Loạn năm Ônin có thể tóm tắt qua 4 tình huống chính:

1 Sự đối lập giữa mạc phủ và các shugo.

2 Các cuộc nổi dậy tsuki-ikki xảy ra không ngừng. 

3 Chính trị sai lầm của Shôgun Yoshimasa (Nghĩa Chính).

4 Những vụ hối lộ của phu nhân Hino Tomiko (vợ Yoshimasa).

Chừng ấy sự kiện đã làm cho chính trị của mạc phủ suy thoái và dẫn đến đại loạn.

Như đã trình bày, Shôgun Yoshinori đã bị hào tộc vùng Harima là Akamatsu Mitsusuke sát hại. Sau đó, con trai mới lên 9 của ông là Yoshikatsu (Nghĩa Thắng) nối nghiệp và trở thành vị Shôgun đời thứ 7 của chính quyền Muromachi. Thế nhưng Yoshikatsu từ khi mới sinh ra thể chất đã bạc nhược, chỉ một năm sau là chết. Shôgun đời thứ 8 là Yoshimasa (Nghĩa Chính), em trai nhỏ thua ông 2 tuổi.Cuộc loạn Ônin đã xảy ra dưới thời cai trị của Yoshimasa và kéo dài suốt 10 năm từ 1467 (Ônin nguyên niên). Địa điểm của cuộc tranh chấp là thành phố Kyôto. Cuộc nội loạn này thuộc vào hàng to lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản và chỉ chấm dứt vào năm 1477 (Bunmei 9).

Cuộc đại loạn ấy lồng khung 3 cuộc tranh chấp then chốt:

1 Shugo họ Hatakeyama tranh quyền gia trưởng (katoku) để chỉ huy dòng họ.

2 Họ Shiba cũng tranh nhau quyền katoku

3 Cuộc tranh giành nội bộ trong chính gia đình Shôgun.

 Đồ biểu gia hệ các Shôgun họ Ashikaga (tên các Shôgun in chữ đậm và có kèm số thứ tự):

 1 Takauji (Tôn Thị) à 2 Yoshiakira (Tôn Thuyên) à 3 Yoshimitsu (Nghĩa Mãn) à

4 Yoshimochi (Nghĩa Trì) à 5 Yoshikazu (Nghĩa Lượng).

 Yoshimitsu à 6 Yoshinori (Nghĩa Giáo) à 7 Yoshikatsu (Nghĩa Thắng).

 Yoshinori à 8 Yoshimasa (Nghĩa Chính) à 9 Yoshihisa (Nghĩa Thướng)

 Yoshinori à Yoshimi (Nghĩa Thị) à 10 Yoshitane(Nghĩa Thực)

Yoshinori à Masatomo (Chính Hòa) à Chachamaru, 11 Yoshizumi (Nghĩa Trừng)

Yoshizumi à 12 Yoshiharu (Nghĩa Tình) à 13 Yoshiteru (Nghĩa Huy), 15 Yoshiaki (Nghĩa Huy).

Yoshizumi à Yoshitsuna (Nghĩa Duy) à 14 Yoshihide (Nghĩa Vinh).

Cánh nhà Kubô vùng Kamakura: 

Takauji à 1 Motouji (Cơ Trì) à 2 Ujimitsu (Thị Mãn) à 3 Mitsukane (Mãn Kiêm) à 4 Mochiuji (Trì Thị) à Shigeuji (Thành Thị) à Masauji (Chính Thị)

Có hai tên hiệu Kubô khác là Horigoe Kubô để chỉ Masatomo và Koga Kubô để chỉ hai cha con Shigeuji và Masauji. Khu vực quản lý của họ (Horigoe và Koga) chỉ là một vùng đất nhỏ (Horigoe ở Shizuoka, Koga ở Ibaragi) không đáng kể.

Trước tiên, cuộc tranh giành quyền gia trưởng để điều khiển dòng họ (katoku = gia đốc) của nhà Hatakeyama (cũng là một danh gia vọng tộc có chân trong tam quản lãnh) đã xảy ra giữa Yoshihiro (Nghĩa Tựu) và Masanaga (Nghĩa Trường). Gia đình Shiba (Tư Ba, lại một trong tam quản lãnh) cũng có một cuộc tranh chấp tương tự giữa Yoshitoshi (Nghĩa Mẫn) và Yoshikado (Nghĩa Liêm). Riêng cảnh nhà Shôgun thì nhân vì Yoshimasa không có con trai nên đã bắt buộc người em trai đã đi tu là Yoshimi (Nghĩa Thị) phải hoàn tục, nhận làm con nuôi của mình và xem như kẻ thừa kế. Lúc đó nhà chúa cử Hosokawa Katsumoto (Tế Xuyên Thắng Nguyên) làm kẻ phò tá cho ông ta. Thế nhưng đến năm 1467 (Ônin nguyên niên) thì chính thất của Yoshimasa – phu nhân Hino Tomiko (Nhật Dã Phú Tử) - lại hạ sanh được trưởng nam là Yoshihisa (Nghĩa Thướng). Lúc ấy, Yoshimasa lại cậy một trọng thần khác là Yamana Mochitoyo (Sơn Danh Trì Phong) (có tên khác là Tôzen = Tông Toàn) phò tá cho con trai mới sinh. Như thế, chưa chi ông đã phá vỡ lời giao ước với em trai mà giật lại chức vụ cho con đẻ. Nguồn gốc sự lủng củng trong gia đình ông phát sinh từ sự trở mặt đó.

Tại sao cuộc tranh giành quyền chỉ đạo trong nhà lại xảy ra vào thời điểm này? Để trả lời cho câu hỏi, chỉ có thể dùng hai chữ quyền lợi mà thôi. Vào thời ấy, đường lối thừa kế ở các gia đình samurai, đã chuyển từ nguyên tắc “chia sẻ cho nhau” (bunkatsu sôzoku = phân cát tương tục) qua “giữ lấy một mình” (tandoku sôzoku = đơn độc tương tục). Người con gọi là chakushi (đích tử) sẽ thừa kế toàn bộ địa vị tài sản của người cha và có quyền tuyệt đối trên các shoshi (thứ tử), nghĩa là một ăn cả ngả về không. Cuộc tranh giành cái địa vị gia trưởng ấy càng ngày càng khốc liệt trong nội bộ nhà họ. Thêm vào đó, ở các gia đình shugo, việc quyết định ai giữ quyền katoku lại càng rắc rối thêm vì nhiều kẻ cho rằng không phải ý kiến riêng của người cha là quan trọng mà còn phải tham khảo ý kiến của shôgun và các gia thần nữa. Việc các thế lực này có ủng hộ đương sự hay không có tính cách quyết định trong việc cử ai đó làm đích tử. Do đó mà tình hình càng ngày càng phức tạp với sự biến đổi trong cán cân lực lượng.

Quan hệ đối lập hai bên tranh chấp trong cuộc loạn Ônin

 

Nguyên nhân đối lập

 Tây quân (phía nhà Yamana)

 Đông quân (phía nhà Hosokawa)

Vấn đề thừa kế trong gia đình Shôgun

Yoshihisa (con trai giữa Yoshimasa và phu nhân Hino Tomiko)

Yoshimi (em và con nuôi Yoshimasa)

Vấn đề thừa kế trong gia đình các chức kanrei

  Nhà Hatakeyama:Yoshihiro

  Nhà Shiba: Yoshikado

Nhà Hatakeyama: Masanaga

Nhà Shiba : Yoshitoshi

Lực lượng các shugo tham gia hai bên

Các shugo họ Yamana (5 nhà) và đồng minh như Rokkaku, Isshiku, Toki, Kono, Ôuchi (tất cả là 20 tiểu quốc)

Các shugo họ Hosokawa (6 nhà) và đồng minh như Kyôgoku, Akamatsu, Takeda (tất cả 24 tiểu quốc)

5.3 Loạn lạc đã để lại những dấu vết nào?

Các shugo, kẻ thì theo Đông quân (phía nhà Hosokawa), kẻ thì theo Tây quân (phía nhà Yamana) trong cuộc tranh chấp. Nhà Yamana bày trận ở phía tây phủ đệ Muromachi của Shôgun nên một vùng doanh trại của họ mới gọi là Tây trận và đạo quân của họ có tên là Tây quân. Kyôto vẫn còn giữ cái tên Tây trận (Nishijin) cho một vùng đất trong thành phố. Trong khi đó, bản doanh của Đông quân nằm ở phía bắc ngự sở nhà chúa, gần chùa Shôkoku (Tướng Quốc tự) thuộc tông Lâm Tế.

 Theo sách Ôninki (Ứng Nhân Ký), một tập ký sự chiến tranh thì phía Hosokawa (Đông quân) có 24 tiểu quốc và 16 vạn binh lực, còn phe Yamana thì có 20 tiểu quốc và 11 vạn binh đi theo. Tuy nhiên, chưa có thể vội tin những con số quá vô lý ấy. Đương thời, Kyôto chỉ có một dân số khoảng 20 vạn thì làm theo có thể để cho 30 vạn lính đóng ở đó và đánh qua đánh lại từ năm này sang năm khác. Thứ nhất là thành phố khó lòng cung cấp nổi lương thực cho chừng ấy quân binh.

Trong khi binh đoàn của Hosokawa đóng gần ngay Kyôto và lợi dụng được sức sản xuất của thành phố thì đạo quân của Yamana nằm ở vị trí xa hơn nên bị bất lợi. Mặt khác, các shugo tuy là đồng minh với một chủ tướng nào đó nhưng vẫn chưa có sự gắn bó chủ tớ như các lãnh chúa của thời Sengoku về sau mà thường chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân khi quyết định tham dự hay không. Sự tích cực động viên binh lực của họ trong thời chiến hãy còn là một nghi vấn. Thành thử việc một shugo có thể duy trì đóng góp binh lực cho chủ tướng trong quảng thời gian dài thật không có gì làm chắc. Con số binh sĩ tham gia hai bên đối địch được các sử gia nêu lên có thể nặng tính cách khoa trương hơn là sự thực.

Dù vậy, thành phố Kyôto đã trở thành bãi chiến trường, bị ngọn lửa chiến tranh thiêu rụi làm cho hoang phế.Chẳng những Shôkokuji (Tướng Quốc Tự), ngôi chùa lớn nằm trong Ngũ Sơn, mà cả những ngôi chùa và đền thần vốn có lịch sử lâu đời như Kitano Jinja (Bắc Dã thần xã, đền thờ Sugawara no Michizane), Tenryuuji (Thiên Long Tự), Ninnaji (Nhân Hòa Tự), Tôji (Đông Tự) cũng như biết bao phủ đệ công khanh khác đều đã làm mồi cho ngọn lửa. Những bảo vật và thư tịch quí mất mát nhiều không biết bao nhiêu mà kể.

Bàn về binh lực, chắc phải nhắc đến vai trò của một lực lượng mới, đó là các ashigaru (túc khinh hay “chân nhẹ”, ý nói khinh binh) trang phục gọn ghẽ, với những hoạt động có thể gọi là “du kích chiến” (guerilla) của họ. Ngày trước, quân đội Nhật Bản còn thiên về kỵ binh với các samurai giáp trụ nặng nề, xưng tên tuổi quê quán trước đi xáp lại quyết đấu với nhau (ikkiuchi). Nhà nghiên cứu về khoa lễ nghi phong tục (yuusoku kojitsu = hữu chức cố thực) và các tác phẩm cổ điển tên là Ichijô Kaneyoshi ( còn đọc là Ichijô Kanera, Nhất Điều Kiêm Lương, 1402-1481) đã ghi chép về họ trong tác phẩm Shôdan Chiyô (Tiều đàm trị yếu)[2] mà ông dâng lên Shôgun đời thứ 9 Ashikaga Yoshihisa (Túc Lợi Nghĩa Thướng). Ông bảo: “Bọn ashigaru mới xuất hiện gần đây còn vượt bực bọn akutô (ác đảng)”[3] Trên thực tế thì ashigaru đã xuất hiện từ trước chứ không đợi đến lúc đó. Trong các tác phẩm chiến ký như Heike Monogatari (Truyện nhà Taira) và Taiheiki (Thái bình ký) đã thấy bóng dáng bọn họ rồi. Tuy Ichijô đã sai lầm khi bảo họ “mới xuất hiện” nhưng ông đã nói đúng về hành vi “vượt bực” của họ trong cuộc biến loạn. Ông đã kể ra là họ đã đốt phá biết bao nhiêu đền chùa, cướp đoạt vô số tài vật quí giá và chê trách hành vi đó. Tác phẩm tranh cuộn Shinnyodô enki emaki (Chân Như đường duyên khởi hội quyển, 1524, Ôei 4) đã vẽ lại rất rõ ràng cảnh cướp bóc của các nhóm ashigaru.

Khi chiến loạn kéo dằng dai nhiều năm, nhiều toán lính đã đào ngũ. Hơn nữa, khi các shugo đem hết lực lượng lên kinh đô tham chiến thì lãnh địa của họ không có ai canh phòng, để hoang như nhà trống. Họ bắt đầu lo sợ rằng nếu mình bỏ đi lâu, những người còn lại ở đó có sác xuất nổi lên làm loạn ikki. Do đó, họ muốn quay về. Năm 1473 (Bunmei 5) khi hai minh chủ là Yamana Mochitoyo (Sơn Danh Trì Phong, 1404-1473) và Hosokawa Katsumoto (Tế Xuyên, Thắng Nguyên, 1430-1473) lần lượt qua đời thì ý chí chiến đấu của hai đạo quân bắt đầu giảm sút, mà phạm vi chiến trường cũng thu hẹp lại. Đến năm 1477 (Bunmei 9), có lẽ quá mệt mõi và thấy không ai thắng được ai rõ ràng, họ ký hòa ước và cuộc loạn Ônin lúc đó mới chấm dứt.

5.4 Văn hoá Higashiyama (Đông Sơn) phát triển;

Sau khi Loạn Ônin chấm dứt, quyền hành của mạc phủ đã hoàn toàn băng hoại. Cho dù họ còn nắm được chút quyền gì thì nó cũng không vượt ra khỏi phạm vi vòng phụ cận thành phố Kyôto. Shôgun Yoshimasa (1436-1490, tại chức 1449-1473) sau đó đã rời bỏ chính trường và lui về trang trại của ông ở vùng Hiyashiyama (Đông Sơn) trong thành phố Kyôto. Ông lấy đạo hiệu Ami (A Di), cùng với bọn thị thần bầu bạn gọi là Dôbôshuu (Đồng bằng chúng) tổ chức những cuộc yến ẩm, trình diễn văn nghệ và tạp kỷ, thưởng thức cha no yu (trà đạo), ngâm thơ renga (liên ca) ... lấy đó làm trung tâm cuộc sinh hoạt của mình. Cũng như thế, trong tầng lớp công khanh và các thầy dạy thơ renga (rengashi = liên ca sư) đã thấy có nhiều ngưòi từ bỏ kinh đô mà đi về sinh hoạt ở các địa phương làm cho văn hóa chốn đế đô lan rộng ra đến cả các tầng lớp shugo và người bình dân ở cõi ngoài.

Ngoài ra, họ Kikuchi ở Higo (nay thuộc Kumamoto) và họ Shimazu ở Satsuma (nay thuộc Kagoshima) đã mời nhà nho và tăng sĩ tăng Lâm Tế là Keian Genju (Quế Am Huyền Thụ, 1427-1508)[4] đến giảng về đạo Nho cho người trong vùng. Sau đó, Keian Genju đã viết Daigaku Shôku (Đại Học chương cú) để giải thích Chu Tử Học ở phiên Satsuma và được xem như là thủy tổ của trường phái Nho học miền Nam đảo Kyuushuu có tên là Satsunan gakuha (Sát Nam học phái).

                       

Truyền thống Cha no yu vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay

Về nghệ thuật thưởng thức trà, sau thời Nanbokuchô (Nam Bắc Triều), ở Nhật đã có phong trào chayoriai (trà ký hợp) tức tụ tập lại để cùng uống trà với nhau hay tôcha (đấu trà) nghĩa là trò chơi xem ai biết phân biệt rành các loại hương vị trà. Có trà sư tên Murata Jukô (Thôn Điền Châu Quang, 1423-1502)[5] đã đem tinh thần thiền môn vào phong cách uống trà và phát triển wabicha nghĩa là cách thưởng thức trà trong một khung cảnh đơn sơ tịch mịch. Wabi có nghĩa là phong vị nhàn tĩnh cũng như sabi hay u tịch, đạm bạc đều là những phạm trù cơ bản của văn hoá Nhật Bản. Về sau khái niệm wabi này còn được ứng dụng cả vào thi ca như haikai nữa.Murata Jukô truyền xuống Takeno Jôô (Vũ Dã Thiệu Âu, 1502-1555), Jôô lại truyền xuống Sen no Rikyuu (Thiên, Lợi Hưu, 1522-1591), họ là những người kẻ trước người sau đã hoàn thành nền tảng cho wabicha.

                   Phân loại bốn kiểu uống trà[6]

 

  1. Uống trà kiểu tọa Thiền

(Zen.in chanoyu)

Lối uống trà của tông Rinzai (Lâm Tế) kèm theo tọa thiền và suy nghĩ về những công án tức bài tập của thiền gia, trầm tư đi tìm giác ngộ.

  1. Uống trà kiểu giao du.

(Cha yoriai)

Đánh cuộc, thi đấu về trà (phân biệt trà / phi trà)[7] trong một khung cảnh trang trí xa hoa. Bàn, ghế, tranh treo, trà khí đều sử dụng đồ ngoại (karamono). Có thể kèm với ca nhạc, tiệc rượu.

  1. Uống trà kiểu tiếp khách

(Denchuu chanoyu)

Hội họp trong phòng khách gia đình (shôin = thư viện). Các bạn trà chuyên về nhiều ngành nghệ thuật (đồng bằng chúng = dôhôshuu) có thể vừa uống trà vừa thưởng thức hội họa, hương, hoa...

  1. Uổng trà kiểu thảo am

(Sôan chanoyu)

Còn gọi là Wabicha. Uống trà với tinh thần thanh cao ở những trà phòng cất lên ở nơi thâm u vắng vẻ. Đồ dùng (trà khí, trà cụ) đơn sơ, thuần Nhật.

 Trong lãnh vực thi ca, renga đã được thu thập vào một tập thơ soạn theo sắc chiếu tên gọi Tsukuba shuu (Thố Cửu Ba tập). Tác phẩm do đại thần (chức nhiếp chính quan bạch thái chính đại thần thời Nam Bắc Triều) Nijô Yoshimoto (Nhị Điều Lương Cơ, 1320-1388) soạn. Ông cũng từng viết Ôan Shinshiki (Ứng An tân thức) để trình bày về qui tắc làm thơ renga.Nhờ đó mà thơ renga từ địa vị một dòng thơ dân dã đã leo lên địa vị cao cả, tương đương với thơ Waka (Hòa ca) vốn là sản phẩm văn học đã được quí tộc hóa. Nói chung, văn hóa thời này được mệnh danh là văn hóa Higashiyama (Đông Sơn) mà đặc tính là sự thô sơ đạm bạc bắt nguồn từ tinh thần Thiền tông kết hợp với những khái niệm yuugen (u huyền) và wabi (u nhàn tịch mịch) sẳn có trong văn hóa truyền thống Nhật Bản.

Cụ thể thì văn hóa Higashiyama đã được thể hiện như sau đây:

Tượng trưng cho nó là ngôi điện mang tên Kannonden thờ Quan Âm trong khu biệt trang của Shôgun ở vùng Higashiyama. Điện này còn có tên là Ginkaku (Ngân các). Sau khi Shôgun Yoshimasa qua đời, để an ủi vong linh ông, người ta bèn biến nó thành một ngôi chùa với cái tên Jishôji (Từ Chiếu Tự) dùng làm nơi thờ phượng. Khi làm tầng thứ nhất của ngôi chùa ấy và trai phòng Tôkyuudô Jinsai (Đông Cầu Đường Nhân Trai) thì người ta có đưa một chút kiến trúc gọi là shoindzukuri nghĩa là “lối thư viện” vào. (Shoin hay thư viện theo cách hiểu thời ấy là gian phòng nhỏ gắn liền với gian chính trong nhà và dùng làm chỗ tiếp khách).Cách kiến trúc này vừa giản dị vừa u huyền là lối kiến trúc tiêu biểu cho văn hóa Higashiyama. Nó đã trở nên mẫu mực cho kiến trúc nhà cửa lối Nhật gọi là Wafuu (Hòa phong) bây giờ,

                                           

Ginkakuji (Ngân Các Tự)

Việc xây cất nhà cửa theo “lối thư viện” và việc tạo dựng chùa chiền theo lối Thiền tông  cũng đi song song với việc kiến tạo viên đình theo phong cách nhà Thiền. Viên đình đó là loại vườn tược gọi là kare sansui (khô sơn thủy) vì nó chỉ làm trên cạn, bằng cát và đá đơn sơ như khung cảnh thiên nhiên thấy trong một bức tranh thủy mặc. Nổi tiếng nhất và đại diện được cho phong cách vườn kare sansui là những ngôi vườn ở chùa Ryuuanji (Long An Tự), Daitokuji Daisenin (Đại tiên viện của Đại Đức Tự) và Saihôji (Tây Phương Tự). Những người có kỹ thuật thực hiện loại vườn này có tên là Sansui kawaramono (niwamono). Kawaramono ám chỉ những kẻ trôi sông lạc chợ (Kawara là cái bãi sông ở Kyôto nơi những kẻ vô gia cư tụ họp). Tuy bị xem thường như tiện dân nhưng họ là những nhân công có kỹ thuật đáng nễ. Người ta cho rằng kẻ được giao trách nhiệm tạo ra ngôi vườn của Ginkaku là một người tên Zen.ami (Thiện A Di).

 

 

Sơn thủy trên cạn (karesansui) ở Ryuuanji, một nét đẹp của văn hoá Đông sơn (Higashiyama)

Cách trang trí bày biện nội thất nơi cư trú thời bấy giờ cũng có nhiều cái mới mẻ. Chẳng hạn tranh treo lửng (kakejiku, hanging scroll) hoặc tranh vẽ trên vách ngăn bằng giấy bồi (fusumae, fusuma paintings), cách chưng hoa tươi (ikebana, flower arrangements) và đồ mỹ nghệ trong một hốc vuông trên sàn, nơi được xem như chỗ trang trọng nhất trong nhà (tokonoma, alcove) là những lãnh vực có nhiều tìm tòi. Sesshuu (Tuyết Chu, 1420 - khoảng 1506) với tranh thủy mặc của mình đã giúp tranh thiền (Zenga = Thiền họa) thoát ra khỏi khuôn khổ cố hữu. Ông là người đã tập đại thành “tranh thủy mặc kiểu Nhật” (Nihonteki na suibokuga). Trong số những tác phẩm của nhà danh họa, đáng để ý nhất là Shiki sansui zukan (Tứ quí sơn thủy đồ quyển), một bức tranh dài trên 15m vẽ sự biến đổi của dòng thời gian qua phong cảnh bốn mùa.Nó được xem như đỉnh cao của nghệ thuật Sesshuu.

                             

Nhà danh họa Sesshuu

 

Bên cạnh đó, trong loại tranh dân tộc (Yamatoe = Đại Hòa hội) thì, cùng với Tosa Mitsunobu (Thổ Tá Quang Tín, ? - 1522?) - người đặt nền tảng cho trường phái Tosa – chúng ta còn phải kể đến những họa sư quan trọng khác như Kanô Masanobu (Thú Dã Chính Tín, 1434-1530) và con trai ông là Motonobu (Nguyên Tín, 1476-1559). Hai người đã gây dựng nên trường phái Kanô nổi tiếng với một thủ pháp độc đáo vì họ biết đem yếu tố thủy mặc hòa quyện vào tranh truyền thống Nhật Bản.

 Mặt khác, nhờ có sự phát triển của tuồng Nô, nghệ thuật điêu khắc Nhật Bản cũng bước vào một lãnh vực mới, đó là việc chạm khắc mặt nạ dùng trong tuồng. Về mỹ nghệ thì có sự xuất hiện của một đại sư trong ngành kim hoàn: Gotô Yujô (Hậu Đằng Hựu Thừa, 1440-1512). Song song với hoạt động của ông, ta cũng thấy sự tiến bộ trong kỹ thuật của giới làm tranh sơn, mài và cẩn (makie = thì hội = lacquer work)[8] .Về cách chưng hoa tươi (ikebana) thì người ta phải nhắc đến nghệ nhân tatebana (lập hoa =cắm hoa) lỗi lạc Ikenobô Senkei (Trì Phường Chuyên Khánh, không rõ năm sanh năm mất). Chỉ biết ông nguyên là một nhà sư tu ở Ikenobô, một bộ phận của chùa Chôhôji (Đỉnh Pháp Tự,  Rokkakudô = Lục Giác Đường) và hoạt động trong khoảng năm 1457-1466. Đến thời giữa thế kỷ thứ 16, trong hệ thống Ikenobô có Ikenobô Senô (Chuyên Ứng), còn thời cuối thế kỷ thì có Ikenobô Senkô (Chuyên Hảo), cả hai đã góp công hoàn thiện nghệ thuật cắm hoa.

                                           

 Nghệ thuật cắm hoa và hiện đại

Thế rồi, giới công khanh khi đã đánh mất sức mạnh trong lãnh vực kinh tế và chính trị bèn quay ra đảm nhận vai trò bảo vệ văn hóa truyền thống (và nhờ đó mà kéo dài sự có mặt của mình như một giai cấp cần thiết cho xã hội). Họ chú tâm nghiên cứu học vấn, tác phẩm cổ điển và phong tục lễ nghi truyền thống (thường biết đến với cái tên yuusoku kojitsu (hữu chức cố thực) và từ đó giới công khanh đã đẻ ra nhiều học giả có tầm cỡ.Nhân vật đại biểu được cho giới này có lẽ là Ichijô Kaneyoshi (Nhất Điều Kiêm Lương). Kaneyoshi (tức Kanera) là người đã viết nhiều tác phẩm nghiên cứu và chú thích. Trong giới tu sĩ Thần đạo, Yoshida Kanetomo (Cát Điền Kiêm Câu, 1435-1511) của đền Yoshida (tại Kyôto) đã bỏ công nghiên cứu quyển cổ sử Nihon shoki (Nhật Bản thư kỷ, 720) để đi đến việc hoàn thành một thứ Thần đạo duy nhất (yuuitsu Shintô) kết quả một quá trình lý luận gọi là Han Honjisuijakusetsu (Phản bản địa thùy tích thuyết)[9] nhằm mục đích hợp nhất cả Nho giáo lẫn Phật giáo dưới sự chi phối của Thần đạo.

Từ lâu, Kokin wakashuu (Cổ kim Hòa ca tập) đã được xem như là kinh điển trong thi ca. Tuy người Nhật coi trọng tác phẩm ấy và xem nó như khuôn vàng thước ngọc nhưng cách giải thích về nó để học hỏi chỉ được truyền thì thầy sang trò trong vòng bí mật (hijikuden = bí sự khẩu truyền). Phải là những nhân vật chọn lọc đặc biệt mới có vinh hạnh thu nhận cái tinh hoa Kokin denju (Cổ kim truyền thụ) này. Thế nhưng sau đó đã có Tô Tsuneyori (Đông Thường Duyện, 1401-84) đứng ra chỉnh lý lại hình thức truyền thụ thơ Kokin.Ông họ này vốn là người miền Đông (goku), xuất thân từ gia đình samurai, gặp loạn Ônin nên sa sút, phải lên kinh đô Kyôto để dạy nghề thơ. Người học trò tiếp nối công việc giáo dục của Tô là Sôgi (Tông Kỳ, 1421-1502). Ông đề xướng shôfuu renga (chính phong liên ca) tức một loại renga mang phong cách chính thống. Sôgi soạn Shin Tsukubashuu (Tân Thố Cửu Ba tập)[10]. Một sự kiện đáng ghi nhớ là ông đã cùng các đệ tử làm bài thơ liên ngâm nổi tiếng Minase sangin hyakuin (Thủy Vô Lại tam ngâm bách vận = Bài thơ trăm câu do ba người cùng ngâm ở đền Minase nơi thờ phượng vong linh Thiên hoàng Go Toba, 1488).Thủy Vô Lại chỉ là một địa danh có nghĩa Cái Lạch Cạn. Rời truyền thống, người đi sau ông là Yamazaki Sôkan (Sơn Kỳ Tông Giám, ? -1540) đã sáng tạo hình thức haikai renga (bài hài liên ca) tự do phóng túng hơn. Ông là tổ của haikai và như thế là viễn tổ của thơ haiku vậy.Trong Inu Tsukuba shuu (Khuyển Trúc Ba tập) do ông biên tập, ông đã cho ta thấy cái phong vị hài hước của người bình dân. Dĩ nhiên, inu (khuyển = con chó), ) cũng chỉ là một cách nói hài hước để tỏ lòng khiêm tốn, cho rằng tác phẩm mình chỉ kể chuyện con cà con kê.

Về phía quần chúng bình dân thì họ cũng sáng tạo nhiều hình thức văn nghệ mà đặc tính là sự linh hoạt, nhẹ nhàng. Kịch có lối hài kyôgen (cuồng ngôn), vũ có kôwakamai (hạnh nhược vũ)[11], trình diễn có sân khấu búp bê (múa rối cổ điển gọi là ko jôruri (cổ tĩnh lưu ly) và các ca khúc ngắn gọi là kouta (tiểu ca, tiểu bái).Kyôgen được diễn xen kẻ giữa hai lớp tuồng Nô là một hình thức sân khấu của lớp bình dân, qua đó, họ bày tỏ cái nhìn riễu cợt, phúng thích của mình đối với giai cấp quí tộc, võ sĩ và tăng lữ. Còn như ko.uta là những bài hát ngắn, được giữ lại trong những ca tập như Kanginshô (Nhàn ngâm tập, 1518, tác giả vô danh, 311 bài) chẳng hạn, nói theo tiếng hiện đại thì đó là những “pop song” đương thời. Nhờ chúng mà ta có một hình ảnh hết sức sống động về cuộc sống của giới bình dân lúc đó.

Đặc sắc của Nô và Kyôgen, hai hình thức văn nghệ thời Muromachi[12]

 

            Nô

        Kyôgen

  1. Gồm 3 yếu tố ca, nhạc và vũ.

Phúng thích lãnh chúa, sư sải, thầy pháp

  1. Thể điệu kỹ xảo, viết theo câu 5 và 7 chữ

Sử dụng nhiều đối thoại - văn nói

  1. Dùng mặt nạ

Ít khi dùng đến mặt nạ trừ ngoại lệ

  1. Đề tài đến từ tác phẩm cổ điển, truyền thuyết

Diễn tả truyện đời thường, tùy hứng.

  1. Tính bi kịch, quí tộc

Tính hí kịch, bình dân

  1. Biểu hiện bằng tượng trưng

Nhiều trò bắt chước. Tính tả thực.

  1. Tính cách u huyền, cao xa.

Cái cười sảng khoái

               

                         

Sân khấu Nô

Otogisoshi (Ngự già thảo tử) là tên gọi những đoản thiên tiểu thuyết đã được lưu hành trong quần chúng. Ngự già (otogi) có nghĩa là “làm bạn”, ý nói “để mua vui hay giải buồn”. Nội dung của chúng chia thành thể loại gọi là mono (vật), khi thì kể chuyện nhà các công khanh, tăng lữ, võ sĩ, khi thì nói về lớp thứ dân và người ngoại quốc. Hình thức của chúng là những bức tranh, bên cạnh có chỗ trống để người viết gia bút thêm mấy lời bàn. Ưu điểm của loại truyện này là người ta thể tưởng thức một lượt tranh vẽ và hình ảnh, lại có thể đem đi kể cho nhau nghe. Những truyện tiêu biểu có Ipponbôshi (Nhất thốn pháp sư, Chàng dũng sĩ tí hon) như truyện Petit Poucet của Pháp, truyện chàng Urashima Tarô (Ngư phủ Urashima Tarô du Long Cung) chẳng khác nào truyện Từ Thức gặp tiên ở nước ta, đều quen thuộc với người Nhật từ khi họ còn ở trong lứa tuổi nhi đồng. 

Bảng tóm lược về đặc sắc của văn hóa Higashiyama (Đông Sơn)[13]

                 (từ thế kỷ 15 đến tiền bán thế kỷ 16)

 

Đặc điểm

 

-Đã ra đời dưới thời Shôgun thứ 8 Ashikaga Yoshimasa.

-Mang nét giản dị thô phác của Thiền tông.

-Xem hai yếu tố yuugen (u huyền) và wabi (tiêu sơ) là cơ bản.

-Nghệ thuật đi được vào sinh hoạt thường nhật và trở thành cơ sở cho văn hoá Nhật Bản hiện đại.

Kiến trúc

Kiến trúc (kiểu thư viện hay Shôindzukuri)

-Sơn trang Higashiyama (ở Jishôji =Từ Chiếu Tự, 1489)

-Ginkaku (Ngân Các trong Jishôji)

-Trai phòng Dôjin (Dojinsai) của Tôgudô (Đông Cầu Đường) trong cùng khuôn viên Jishôji.

 

Viên đình

-Các cảnh sơn thủy trên cạn (khô sơn thủy = karesansui) hay thạch đình ở Ryôanji (Long An Tự), Daitokuji (Đại Đức Tự) và Jishôji (Từ Chiếu Tự, tương truyền do Zen.ami).

Hội họa

Thủy mặc

-Hai bức Shikisansuizukan (Tứ quí sơn thủy đồ quyển) và Shuutôsansuizu (Thu đông sơn thủy đồ)  của Sesshuu (Tuyết Chu)

 

Yamato-e (Tranh Đại Hòa)

-Tranh của Tosa Mitsunobu (Thổ Tá Quang Tín) phái Tosa.

 

Phái Kano (Thú Dã)

-Shumoshuku airenzu (Chu Mậu Thục ái liên đồ) [14]

của Kano Masanobu (Thú Dã Chính Tín).

-Daisenin kachôzu (Đại tiên viện hoa điểu đồ) tương truyền của Kano Motonobu (Thú Dã Nguyên Tín)

Thủ công

Mặt nạ Nô

Nhờ sự phát triển của sân khấu Nô đương thời.

 

Kim hoàn

Thợ giỏi Gotô Ryuujô (Hậu Đằng Hựu Thừa)

Học vấn

Văn học

Thơ Waka

Kokindenju (Cổ kim truyền thụ) với Tô Tsuneyori (Đông Thường Duyện) truyền bí quyết thơ Waka.

 

Nghi thức lễ lạc

Sách Kuji Kongen (Công sự căn nguyên) của Ichijô Kaneyoshi (Nhất Điều Kiêm Lương) ghi chép nguồn gốc và những thay đổi trong lễ nghi tập tục áp dụng hàng năm.

 

Chính trị

Shôdan Chiyô (Tiều đàm Trị Yếu, 1480) của Ichijô Kaneyoshi, trước tác trả lời những câu hỏi về chính trị của Shôgun thứ 9 Ashikaga Yoshihisa.

 

Nghiên cứu cổ điển

Kachô Yojô (Hoa điểu dư tình) của Iuchijô Kaneyoshi chú thích và đính chính những điều hiểu lầm về Truyện Genji của người đi trước.

 

Lịch sử

Zenrinkokuhôki (Thiện lân quốc bảo ký) của Zuikei Shuuhô (Thụy Khê Chu Phượng)

 

Triết học Nho giáo

(Chu tử học)

Hai danh nho Keian Genju (Quế Am Huyền Thụ) và Minamimura Baiken (Nam Thôn Mai Hiên)

Nghệ thuật

Trà đạo

Phong cách thư viện trà (shôincha) trong điện, trong phủ) đã tiến hoá để trở thành thảo am trà (sôancha, wabicha) từ Murata Jukô (Thôn Điền Chu Quang) qua Takeno Jôô (Vũ Dã Thiệu Âu).

 

Hoa đạo

Hoa cúng (Sonahara = cung hoa) tiến hóa để trở thành hoa cắm (tatehana = lập hoa) với Ikenobô Senkei (Trì Phường Chuyên Khánh)

Tôn giáo

Thần đạo

Tư tưởng thần đạo duy nhất (Yuiitsu Shinto) với Yoshida Kanetomo (Cát Điền Kiêm Câu)

Bi kịch của Zeami[15]

Mãi đến đời Edo tên chính thức của Nô và Kyôgen vẫn là Sarugaku (Viên nhạc). Hình thức nghệ thuật này có gốc gác là Sangaku (Tán nhạc) gồm có trò khéo tay khéo chân và ảo thuật, đến từ nhà Đường vào thời Nara. Đến đời Heian, nó được gọi là Sarugaku hay Sarugô mà tác giả Fujiwara no Akihira (Đằng Nguyên Minh Hành) trong Shin Sarugakuki (Tân viên nhạc ký) xem như một nghệ thuật có tính hài hước. Thế rồi, Sarugaku đã biến thái thành một loại kịch ngắn mang màu sắc phúng thích. Sang đến thời Kamakura thì nhiều nơi đã có những Za chuyên môn diễn Sarugaku. Đến khi nó chịu ảnh hưởng của Dengaku, một thứ sân khấu trình diễn trong các lễ tiết theo nông lịch, cộng thêm nghệ thuật sarugaku có tính bùa chú diễn ở các đền chùa (jushi sarugaku) và những điệu vũ gọi là “diên niên vũ” (ennen no mai) thì chúng ta đã hội đủ những thành phần cơ bản cấu thành kịch Nô. Chẳng bao lâu, phần hài kịch có đối thoại thường đi song đôi với nó (tức sarugaku no kyôgen) đã phân hoá ra và trở thành một loại tuồng độc lập với Nô. Nhân vì dân chúng tán thưởng việc hai loại tuồng ấy được diễn xen kẻ nên chúng vẫn tiếp tục tồn tại bên nhau cho đến ngày nay.

Trong đám soạn giả kiêm diễn viên tuồng Nô lúc bấy giờ có cha con Kan.ami và Zeami là những nhân vật  ưu tú hơn cả. Khoảng năm 1374 hay 1375, trong một buổi trình diễn, hai cha con đã được vị Shôgun trẻ (mới 17 tuổi) Ashikaga Yoshimitsu để mắt đến tài năng của họ và từ khi ấy, hết lòng bảo trợ.Lúc đó Kan.ami 42 và Zeami 12 tuổi. Được hoàn cảnh thuận lợi, Zeami đã phát triển nghệ thuật của mình đến đỉnh cao và nhân đó, sáng tác tập lý luận để đời về Nô nhan đề Fuushikaden (Phong tư hoa truyền). Tuy nhiên, về sau, Yoshimitsu lại đổi ý. Ông sủng ái Inuô (Dôami) một nhân vật tuy cùng thế hệ với Kan.ami nhưng thuộc trường phái khác và ban cho ông ta nhiều ân huệ.Việc này kích động Zeami, ông thấy cần phải chuyển hướng. Lúc đó bố đã mất, ông từ bỏ lối diễn xuất Nô chủ yếu dựa trên trò nhại (monomane) ở rạp Kanze của cha con mình mà thu thập ưu điểm của địch thủ nghĩa là từ đó hướng về loại Nô dựa trên cái đẹp của ca vũ như Dôami để sáng tạo một dạng thức Nô mới là Nô mộng huyễn (Mugen Nô), có tính chất triết lý và huyền ảo.

Năm 1408, Yoshimitsu chết đột ngột. Shôgun đời thứ tư Yoshimochi (Nghĩa Trì) không thích Sarugaku mà chỉ mê Dengaku.nô, trọng vọng Zôami, người nổi tiếng về thể loại này. Tuy không đến nổi bị Yoshimochi bỏ bê hoàn toàn nhưng để phục hồi lại chỗ đứng, Zeami hợp tác với hai con (Motomasa, Motoyoshi) và cháu nội (Saburô Motoshige) chuyên chú tập luyện và viết thêm sách vở lý luận như Kakyô (Hoa kính), Shikadô (Chí hoa đạo), Sandô (Tam đạo) và không những thế, tỏ ra rất sung sức khi cho ra đời nhiều bản tuồng mới.

Năm 1428, Yoshimochi lại mất. Khi người em trai là Yoshinori (Nghĩa Giáo) lên kế vị cũng là lúc tấn bi kịch của Zeami mở màn.Yoshinori nâng người cháu nội của ông là Saburô Motoshige tức Onnami lên địa vị cao, hất hủi cha con ông, ngay cả đình chỉ những buổi diễn của họ.Gặp nghịch cảnh như vậy mà ông còn đủ nghị lực để soạn thêm Shuugyokutokuka (Thập ngọc đắc hoa), Shudôsho (Tập đạo thư) là những trước tác lý luận khác. Năm 1432, người con tài hoa mà ông yêu quí rất mực, đích tử Motomasa, mất ở Ise giữa tuổi thanh niên, riêng ông thì bị tội đày ra đảo Sado (1434). Chi tiết cho biết ông ở lại Sado đến năm 1436 (74 tuổi) có chép trong Kindôshuu (Kim đảo tập) nhưng việc sau đó ông có được tha để hồi kinh hay không thì chẳng thấy ghi chú ở đâu cả.    .

5.5 Chuyển tiếp từ Muromachi về phía thời Sengoku (Chiến Quốc Nhật Bản):

Chúng ta tạm đóng ngoặc câu chuyện về văn hóa Higashiyama ở đây.

Về phần những tiểu quốc lãnh địa của các shugo, như chúng ta có dịp thấy cho đến nay, sau khi kinh qua một thời chiến loạn, từ những nvùng đất đó đã phát tích một sô võ tướng có thực lực. Nhóm người này sẽ đóng vai trò quan trọng khi lịch sử chuyển dòng sang trang, đưa Nhật Bản bước vào một giai đoạn lịch sử đấu tranh khốc liệt, tục gọi là thời Sengoku (Chiến quốc, The Warring States).

Trên thực tế, trong đám “người giữ nước hộ” (kokujin) - cận thần trông coi nhà cửa cho shugo đang đi vắng - có những phần tử thừa cơ hội cuộc loạn Ônin để tạo ra các vụ nổi dậy gọi là ikki để bảo lệ quyền lợi của bè phái mình.Chẳng hạn như vào năm 1485 (Bunmei 17) ở vùng phía nam khu vực Yamashiro đã có vụ nổi dậy gọi là Yamashiro no kuni ikki (Sơn Thành quốc nhất quỹ). “Người giữ nước hộ” (kokujin) đã đuổi gia đình shugo Hatakeyama ra khỏi lãnh thổ vì những người này đang chia làm hai bè phái tranh chấp lẫn nhau. Kết quả là “người giữ nước hộ” suốt 8 năm trời đã thành công trong việc biến vùng Yamashiro thành một lãnh quốc tự trị. Sử liệu có tên là Daijôin jisha zôjiki (Đại thừa viện tự xã tạp sự ký) đã tường thuật lại cuộc nổi loạn này, đại ý chép như sau:   

“Hôm nay bọn “người giữ nước hộ” (kokujin) ở vùng Yamashiro đã họp nhau. Dân chúng trong vùng cũng tụ tập lại nữa. Tất cả dường như đang muốn bàn tán xem phải có thái độ thế nào với hai phe của nhà Hatakeyama đang lục đục. Đó là một điều dĩ nhiên mà thôi. (lược bỏ một đoạn). Họ quyết định là hai cánh quân của nhà Hatakeyama không được trở về trong nước.Những trang viên thuộc quyền quản lý của honjo (bản sở, honke tức gia đình chủ nhân) thì vẫn để y nguyên. Còn việc lập trạm kiểm soát thông hành (sekijô) thì sẽ không cần có thêm trạm mới. Thật là một điều đáng mừng”

Người viết những dòng chữ nói trên là Jinson (Tầm Tôn) ở Daijôin (Đại Thừa Viện) chùa Kôfukuji (Hưng Phúc Tự). Tại sao trong câu cuối, nhà tu này lại tỏ ra vui mừng như vậy? Nếu “trang viên vẫn thuộc về chủ nhân như xưa” thì Jinson (vốn ở trong giới chủ nhân vì trang viên thuộc về nhà chùa) nhất định phải bằng lòng khi thấy quyết định trên của các “người giữ nước” (kokujin) phù hợp với quyền lợi của phe cánh mình.

Cũng phải nhắc lại là vào thời kỳ này, thế lực tôn giáo là một sự uy hiếp rất lớn lao đối với mạc phủ. Chẳng hạn như trường hợp tông Nichiren (Nhật Liên), một đoàn thể tôn giáo vốn có cơ sở vững chắc ở miền Đông (Tôgoku). Vào năm 1532 (Tenbun nguyên niên) vì muốn bảo vể kinh đô Kyôto trước ngọn lửa binh đao, họ đã phát động một cuộc nổi dậy gọi là Hokke Ikki (Pháp Hoa nhất quỹ), tổ chức cả việc tự trị hành chánh cho các khu phố trong thành. Lại nữa, vào năm 1536 (Tenbun 5), khi đối lập với phe cánh chùa Enryakuji (Diên Lịch Tự), họ đã gây nên cuộc nổi dậy khác gọi là Tenbun Hokke (Thiên văn Pháp Hoa, loạn Pháp hoa vào niên hiệu Thiên văn) bởi vì bản sơn của họ trong thành phố Kyôto bị các giáo đồ Enryakuji và binh đoàn của tướng Rokkaku (vùng Ômi, gần Enryakuji) đến phóng hỏa.

Không nên quên chuyện tông Ikkô (Nhất Hướng) với những giáo đồ của họ có mặt  trong một hình thức tổ chức có tên là kô (giảng). Họ lợi dụng sức mạnh của tổ chức để nới rộng phạm vi vùng ảnh hưởng đến khắp vùng nông thôn. Năm 1488 (Chôkyô 2), đã có cuộc nổi dậy gọi là Kaga no Ikkô ikki (Nhất Hướng nhất quỹ ở tiểu quốc Kaga). Khi ấy, giáo đồ tông Ikkô ở Kaga đã hiệp lực với bọn “người giữ nước hộ” (kokujin) để lật đổ chức shugo Tôgashi Masachika (Phú Kiên Chính Thân). Điều đó sở dĩ xảy ra được là vì giáo đồ đã biết lợi dụng hoạt động truyền giáo của tăng Rennyo (Liên Như) chùa Honganji (Bản Nguyện Tự) đang lan ra tận các vùng Kinki, Tôkai và Hokuriku nhằm bành trướng thế lực của phái Tịnh Độ Chân Tông chùa Honganji đến những nơi ấy. Về mặt thực tế thì rõ ràng rằng sau đó, lãnh địa chùa Honganji đã được đặt dưới sự quản lý của nhóm nổi dậy suốt trong một thế kỷ.

                     

                        

Tăng Rennyo (Liên Như)

 Con trai của Rennyo là Jitsugo (Thực Ngộ) đã kể lại cho chúng ta trong Jitsugoki Shuui (Thực Ngộ ký thập di) như sau: “Gần đây đã có những lãnh quốc do dân chúng (nông dân, hyakushô) đứng lên giữ lấy” . Ý ông ta muốn nói là thường dân đã thành công trong việc tự vận hành lãnh quốc ấy. Điều đó cho thấy sức mạnh ở bên dưới (hạ = ge) đã lấn lướt sức mạnh bên trên (thượng = jô). Hiện tượng ấy xảy ra khá thường xuyên trong giai đoạn này. Cũng chính vì thế, người ta đã mệnh danh những phong trào có tính chất như vậy là gekokujô (hạ khắc thượng = dưới lấn lên trên). Cò lẽ đây là cụm từ đại biểu được tính chất của xã hội thời Sengoku.



[1] Naitô Konan (Nội Đằng Hồ Nam, 1866-1934) học giả ngành Đông phương học, sinh ở Akita vùng Đông Bắc, tên thật là Torajirô (Hổ thứ lang), Xuất thân ký giả báo Asahi ở Ôsaka, sau trở thành giáo sư đại học Kyôto. Đặc biệt nghiên cứu về lịch sử, mỹ thuật sử và văn hóa học Trung Quốc, Nhật Bản. Rất uyên bác.

[2] Shôdanchiyô (Tiều đàm trị yếu, 1480), 1 quyển, sách do Ichijô Kaneyoshi dâng cho Shôgun Yoshihisa (Nghĩa Thướng) bàn về thuật trị nước. Tiều đàm là lời bàn của người tiều phu, ý khiêm tốn  chứ thực ra Kaneyoshi là người bác học, thông hiểu Nho Phật, dòng dõi thế gia, viết nhiều tác phẩm được truyền tụng và làm quan đầu triều đến chức Kanpaku Dajôdaijin.

[3] Akutô (ác đảng) không chỉ có nghĩa là “bọn người có hành vi xấu xa độc ác” mà thôi. Nó có ý nghĩa lịch sử vì vào thời Kamakura, tiếng gọi này dùng để chỉ những người không phải samurai nhưng trang bị vũ khí và bạo động chống chính quyền.Họ không đến từ tầng lớp nông dân như samurai nhưng xuất thân và gắn bó với các giới công và thương nghiệp.

[4] Keian Genju ( Quế Am Huyền Thụ, 1427-1508), người vùng Suô (nay thuộc tỉnh Yamaguchi) nhưng không rõ gia thế. Tăng tông Lâm Tế, đã sang nhà Minh du học vào năm 1467. Ông giỏi cả về Phật lẫn Nho. Từng là pháp tự (học trò kế nghiệp) của Keiho Genkin (Cảnh Bồ Huyền Hân) chùa Nanzenji (Nam Thiền Tự). Đã có công truyền bá đạo Nho ở các phiên trấn miền Nam Kyuushuu..

[5] Murata Shukô (Thôn Điền Châu Quang, 1423-1502) là một trà sư thời Muromachi. Ông thuở nhỏ vào tu ở chùa Nara Shômyôji (Nại Lương xứng danh tự) và học Thiền từ Ikkyuu Sôjun (Nhất Hưu Tông Thuần). Ông từng giảng về trà đạo cho Shôgun Yoshimasa. Ông đã đưa khái niệm wabi vào trà, chủ trương phải uống trà trong một nơi đơn sơ u tịch, ly khai với phong cách shôincha (thư viện trà) tức uống trà trong phòng tiếp khách vốn nặng phong cách nước ngoài. Triết lý của ông được các trà nhân về sau như Sen Rikyuu (Thiên Lợi Hưu)vô cùng tán thưởng.

[6] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 130)

[7] Chỉ có trà do tăng Eisai (Vinh Tây) đem từ Trung Quốc về và cho trồng ở địa phương Tonano-o mới được xem là trà chính hiệu (honcha = bản trà). Trà lấy từ những nơi khác đều bị xem là phi trà (hicha)

[8] Tuy tiếng Anh chỉ dịch là lacquer work nhưng makie (thì hội) dùng đến ba thủ pháp cơ bản là sơn, mài, cẩn và nhiều kỹ thuật thứ yếu. Thì (động từ maku)có nghĩa là gieo rắc như gieo mầm, giao mạ.

[9] Trưóc kia ở Nhật đã có tham vọng hợp nhất Thần Phật với lý luận Honji suijaku (Bản địa thùy tích) xem chư Phật và bồ tát từ đại lục đến Nhật đã mượn hình ảnh các thần để hiện ra cứu giúp chúng sinh. Do đó Thần Phật là một nhưng Phật quan trọng hơn Thần. Thuyết này có tự thời Heian. Tuy nhiên, với lý thuyết mới Phản bản địa thùy tích này thì đúng như cái tên của nó, Yoshida Kanetomo của thời Muromachi muốn đối nghịch với thuyết trước. Tuy chấp nhận Thần Phật là một nhưng ông đã lật ngược quan hệ trên dưới giữa Thần bản địa và Phật vốn đến từ nước ngoài. Ông xem các Thần sở tại có địa vị cao hơn Phật.

[10] Tsukuba dù viết dưới nhiều tự dạng đều chỉ tên ngọn núi Tsukuba gần Tôkyô ngày nay.

Ngọn núi ấy không cao nhưng quan trọng không kém núi Fuji.Xưa kia nó là nơi thanh niên nam nữ tụ họp hát đối đáp và giao lưu trai gái. Như thế, Tsukuba là một danh từ tượng trưng cho “truyền thống văn nghệ dân gian” chứ không có gì hiểm hóc.

[11] Kôwaka là tên một vũ khúc (mai) bắt nguồn từ tên người sáng chế. Tương truyền ông tố của vũ khúc này là Momonoi Naoaki, một võ tướng đời Muromachi hồi nhỏ có biệt hiệu là Kôwakamaru.

[12] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 130)

[13] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 129)

[14] Chu Mậu Thục là văn nhân đời Tống, đặc biệt yêu hoa sen.

[15] Nguồn: Hayashiya Shinsaburô trong Kabuki Izen (Iwanami Shinsho) và Kitagawa Tadahiko trong Zeami (Chuô Shinsho) (trang 147-148).

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114560853

Hôm nay

2237

Hôm qua

2289

Tuần này

22171

Tháng này

228396

Tháng qua

122920

Tất cả

114560853