Nhìn ra thế giới

Giáo trình lịch sử Nhật Bản (Phần hai: Mạc phủ Muromachi và Edo)[6]

 6 - Các lãnh chúa Sengoku (Sengoku daimyô) xuất hiện:

6.1 Sự khác nhau giữa shugo (thủ hộ) và daimyô (đại danh):

Cuộc đại loạn năm Ônin là bước ngoặt đưa đẩy nước Nhật bước vào một thời đại còn hỗn mang hơn nữa, đó là thời Sengoku (Chiến Quốc).Lúc bây giờ, trên toàn quốc, những nhà cai trị có thực lực và bám rễ sâu tại địa phương đã bắt đầu lộ diện.

Thời tiền bán thế kỷ 16, chủ yếu là vùng Kinki bao quanh kinh đô Kyôto, đã trở thành sân khấu nơi diễn ra không ngừng những cuộc xung đột trong nội bộ Mạc Phủ Muromachi, đặc biệt là họ Hosokawa (Tế Xuyên), để dành quyền chi phối chính trị. Trong cuộc đấu đá này, kết quả là quyền hành đã chuyển từ cánh gia đình chức Kanrei (Quản lãnh) có thực quyền là Hosokawa sang một gia thần của họ, Miyoshi Nagayoshi (Tam Hảo Trường Khánh), rồi sau đó nó lại vào tay một bộ hạ của Nagayoshi tên là Matsunaga Hisahide (Tùng Vĩnh Cửu Tú). Tuy nhiên, ở các địa phương khác, những gì xảy ra không còn dính líu tới mạc phủ nữa. Các thế lực địa phương đã đủ sức xây dựng nên những lãnh quốc (ryôkoku, còn gọi là bunkoku = phân quốc) rồi tự mình cai trị lấy.Những nhân vật có thế lực như thế được gọi là Sengoku daimyô (Chiến Quốc đại danh). Là lãnh chúa Chiến Quốc, họ tượng trưng cho một thứ quyền lực mới chưa hề có từ trước đến nay, không còn thuộc vào hệ thống thế lực của mạc phủ và dĩ nhiên không tuân theo mệnh lệnh của tổ chức này.

 Thực ra, trước khi có cuộc loạn Ônin, cảnh tượng tương tự đã từng thấy ở vùng Kantô. Cái địa vị kubô ở phủ chúa Kamakura đại biểu cho Mạc phủ Muromachi ở miền này  là mầm mống xung đột giữa hai ông tiểu kubô: Ashikaga Shigeuji (Túc Lợi Thành Thị), con trai Mochiuji (Trì Thị), khi đó gọi là Koga kubô (Cổ Hà công phương) và người anh em của Shôgun Yoshimasa (Nghĩa Chính) tên gọi Masatomo (Chính Tri), lúc đó giữ chức Horigoe kubô (Quật Việt công phương). Còn thêm một cuộc xung đột thứ hai trong nội bộ gia đình Uesugi, một thân tộc bên ngoại của mạc phủ, vốn giữ đặc quyền quản lãnh vùng Kantô (Kantô kanrei) để phụ tá cho chức kubô. Cánh Yamanouchi Uesugi tranh giành với cánh Ôgigayatsu Uesugi và điều này đã tiếp diễn trong một thời gian dài.

                     

                       Lãnh chúa Chiến Quốc Hôjô Sôun

Nhân tình trạng tranh chấp này mà vào cuối thế kỷ 15, Hôjô Sôun (Bắc Điều Tảo Vân, tục gọi là Ise Sôzui hay Y Thế Tông Thụy) từ Kyôto xuống đã nắm lấy cơ hội bình định được một vùng miền Đông từ Izu đến Kantô. Về gốc gác của nhân vật Sôun thì có nhiều thuyết, không có gì rõ ràng nhưng có lẽ ông ta thuộc hàng thân tộc của họ Ise, vốn lãnh chức chấp sự (shitsuji) trong cơ quan hành chánh trung ương gọi là Mandokoro (Chính sở) của Mạc phủ Muromachi. Cũng có thể ông ta là con trai Ise no Morisada (Y Thế Thịnh Định), người có lãnh địa là trang viên Ebara thuộc tiểu quốc Bicchuu (Bị Trung, nay là miền tây tỉnh Okayama). Điều đó giải thích việc bên cạnh tên Sôun của ông ta có đính kèm danh hiệu Ise Sôzui.

Hồi loạn Ônin thì Sôun là gia thần của Yoshimi, em trai Shôgun Yoshimasa. Ông theo chủ xuống vùng Ise, rồi sau đó mới gả em gái cho shugo địa phương ấy là Imagawa Yoshitada (Kim Xuyên Nghĩa Trung). Nhân vật nữ nói trên là bà Kitagawadono (?-1529). Cuộc hôn nhân này cho phép ông trở thành người nhà của họ Imagawa.Về sau, Hôjô Sôun lật đổ được chức Horigoe-kubo khu vực Izu vào năm 1393 (Meitoku 4), lần lượt bình định các vùng Izu và Sagamo và trở thành một lãnh chúa Sengoku (Sengoku daimyô) trấn giữ đất Odawara.

Tại sao phải nhắc đến nhân vật Hôjô Sôun ở đây? Thật ra, lý do là sự kiện Sôun bình định được vùng Izu và Sagami để trở thành một daimyô được đánh giá như biến cố đánh dấu sự mở màn của một thời kỳ lịch sử. Sau đó sẽ có những hành động rập khuôn tiếp nối. Thời đại Sengoku xem như đã bắt đầu với nhân vật này. Với sự giải thể của Mạc phủ Muromachi, một thế lực mới xuất thân từ hàng đại diện shugo (shugodai) và các kokujin (người giữ nước hộ) sẽ thay thế tầng lớp cai trị cũ (shugo).

Vào khoảng giữa thế kỷ 16, ở vùng Kantô, người ta thấy hình ảnh loạn lạc của thời Sengoku đã thực sự bày ra trước mắt. Chức shugo vùng Kai (Giáp Phỉ hay Giáp châu, nay thuộc địa phận tỉnh Yamanashi) là Takeda Harunobu (Vũ Điền Tình Tín, 1521-1573), người về sau được biết đến với đạo hiệu là Shingen (Tín Huyền) đã trở thành một lãnh chúa Sengoku khác. Đó cũng là trường hợp địch thủ lợi hại của ông, Nagao Kagetora (Trường Vỹ Cảnh Hổ), sau đổi tên thành Uesugi Kenshin (Thượng Sam Khiêm Tín, 1530-1578). Hai võ tướng thiền gia này thường xuyên chạm trán và cuộc giao chiến lịch sử giữa hai người ở vùng Kawanakajima (Xuyên Trung Đảo) thuộc địa phương Kita Shinano nay đã trở thành truyền thuyết trong dân gian.            

Uesugi Kenshin                                  

Takeda Shingen

Phải nói giai thoại về hai ông thì có rất nhiều và người Nhật ai cũng còn nhớ chuyện “ gửi muối cho quân địch” (teki ni shio wo okuru). Lúc đó, hai chiến tướng Shingen và Kenshin đang lúc tranh phong rất gay cấn nhưng khi nghe tin dân của Shingen thiếu muối ăn vì lãnh địa nằm xa biển, thay vì siết vòng vây để phong tỏa bằng kinh tế, Kenshin mà lãnh địa vốn ở bên cạnh biển, đã cho gửi muối giúp địch thủ. Kenshin chỉ muốn giải quyết tranh chấp ở trên chiến trường chứ không bằng một thủ đoạn hèn mạt. Điều này chứng tỏ tinh thần mã thượng của samurai Nhật Bản. Từ đó cách nói đó đã trở thành ngạn ngữ hàm ý tính rộng lượng đến độ “giúp cả kẻ địch trong cơn khốn đốn”.

Mặt khác vào lúc đó, nhiều daimyô khác cũng cùng nhau dấy lên mưu việc tự lập. Địa phương Suruga (miền trung tỉnh Shizuoka) và Tôtoumi (miền tây Shizuoka) có họ Imagawa, Echizen (tỉnh Fukui bây giờ) có họ Asakura, Owari (phía tây tỉnh Aichi) có họ Oda (Chức Điền)...Vùng cực nam đảo Honshuu (thường được gọi là Chuugoku, tỉnh Yamaguchi), chức shugo có một thời cường thịnh họ Ôuchi (Đại Nội) đã bị viên cận thần nhiều tham vọng của mình là Sue Harukata (Đào Tình Hiền) đoạt lấy nước. Vùng Aki (phía tây Hiroshima) “người giữ nước hộ” là Môri Motonari (Mao Lợi Nguyên Tựu) nổi dậy, phá tan thế lực Sue Harukata rồi cùng với họ Amago (Ni Tử) tranh chiến qua lại nhiều lần để dành quyền kiểm soát khu vực San.in[1] rộng lớn.   

Còn về các địa phương khác thì trên đảo Shikoku thì đã có họ Chôsokabe (Trường Tông Ngã Bộ), đảo Kyuushuu có các họ Ôtomo (Đại Hữu), Ryuuzôji (Long Tạo Tự), Shimazu (Đảo Tân), vùng đông bắc Honshuu là họ Date (Y Đạt). Rừng nào cọp nấy, họ nhắm nới rộng khu vực ảnh hưởng, tranh hùng với nhau như thời thập nhị sứ quân ở nước ta.   

Nhìn chung, các daimyô Sengoku tức lãnh chúa thời Chiến Quốc Nhật Bản hầu hết xuất thân từ những người “đại diện tại chỗ” như các đại diện shugo hay tầng lớp “quản gia” vốn có nhiệm vụ giữ nước hộ (kokujin) nhhung phải cái khi vắng chủ nhà gà đã sớm mọc đuôi tôm. Các dòng Shimadzu, Ôtomo, Imagawa, Takeda là những gia đình gốc shugo, đến thời Sengoku tình thế đưa đẩy thành ra daimyô nhưng ngoài họ ra, hầu hết tập thể daimyô kiểu mới này xuất thân thuộc cấp, xưa ở bên dưới giờ mới ngóc đầu lên. Nói cách khác, những người đến từ giai cấp thấp này đã tượng trưng cho cuộc vận động xã hội có tên gekokujô (hạ khắc thượng).

Quyền lực truyền tử lưu tôn ngày xưa không còn giá trị gì nữa giữa một thời đại mà chỉ có thực lực mới đáng kể. Vì thế những lãnh chúa mới ra đời này, khi muốn bảo vệ địa vị mình mới đoạt được, đã phải chiến đấu không ngưng tay. Để được bầy tôi và dân chúng trong lãnh địa tín nhiệm và trung thành với mình, các daimyô Sengoku cần tỏ ra xứng đáng nghĩa là bắt buộc có tài chỉ đạo quân sự và năng lực cai trị.

Thử hỏi các daimyô thời Chiến Quốc phải làm cách nào để gây dựng được lực lượng? Thực ra họ phải tìm cách kết hợp các kokujin (“quản gia” giữ nước hộ) mới theo về cũng như các jizamurai (võ sĩ xuất thân từ địa phương), hai loại người vốn đã có mặt tại chỗ. Quá trình nhằm biến những phần tử thuộc hai giới này thành gia thần, nói khác đi, quá trình tạo giữa daimyô và hai loại người này một quan hệ chủ tớ, có tên gọi là hikanka (bị quan hóa = biến thành nhân viên, quan chức, như thể nhập vào biên chế). Trước tiên daimyô phải thống nhất được những tiêu chuẩn tính toán lương bổng (gọi là kandaka = quán cao) cho những quan chức mới này và bảo đảm một đồng lương tương xứng với địa vị của họ. Bù lại, cùng với món thu nhập này, người “bị quan hóa” đó cũng phải lãnh một trách nhiệm quân sự (gọi là gun.yaku = quân dịch). Chế độ nói trên được lược xưng bằng danh từ kỹ thuật “quán cao chế” (kandakasei) nhưng có lẽ nên tạm hiểu là chế độ lương bổng (ân cấp) bởi vì “quán” có nghĩa là quan tiền. Hiểu được chế độ này là đã hiểu được nguyên lý cơ sở của việc xây dựng lực lượng quân sự bởi các daimyo thời Chiến Quốc.

Mặt khác các phần tử kokujin và jizamurai đó cũng đoàn ngũ hóa. Họ được gửi gắm cho những gia thần có thế lực coi sóc. Với chế độ gọi là yorioya (ký thân), yoriko (ký tử) (cha nuôi, con nuôi), họ được các gia thần ấy tổ chức thành những toán quân nhà nghề, tinh nhuệ, biết sử dụng các loại vũ khí tạm gọi là tối tân vào thời đó như súng hỏa mai (teppô) và trường thương (nagayari). Đó cũng là một điểm giúp ta phân biệt vai trò giữa  shugo thời mạc phủ và daimyô thời Chiến Quốc.

6.2 Việc cai trị của các daimyô Chiến Quốc tại tiểu quốc của mình:

Daimyô thời Chiến Quốc khác với các shugo daimyô của giai đoạn Mạc phủ Muromachi. Những người gọi là daimyô (lãnh chúa) thời Sengoku chịu cơ cực và phải lo toan hơn nhiều. Cả năm, họ bắt buộc lúc thì giao chiến để bảo vệ tiểu quốc của mình trước sự xâm lấn của những lãnh chúa nhiều tham vọng, lúc thì đề phòng đồng minh trở mặt. Bằng không, họ sẽ khó lòng giữ được địa vị.

Do đó, vấn đề ưu tiên của lãnh chúa thời Chiến Quốc nằm trong bốn chữ “phú quốc cường binh” nghĩa là làm sao cho dân giàu lính mạnh. Thành công hay thất bại nằm ở cái tài tổ chức được một chính quyền vững chãi.Họ phải ngày đêm mưu tính với các gia thần tìm phương án tốt nhất, chính sách hữu hiệu nhất để thực hiện cho được mục đích tối thượng đó. Trong hoàn cảnh như vậy, các bunkokuhô ( phân quốc pháp) cũng như kahô (gia pháp) tức các luật nội bộ với nhiều điều khoản độc đáo của từng địa phương, từng dòng họ đã ra đời. 

Luật của tiểu quốc (phân quốc) có khi là những bộ luật kế thừa những điều luật của mạc phủ hay của các tay shugo thời trước, có khi hấp thụ những điều luật được các nhóm kokujin đã tạo ra trong thời gian họ làm ikki nghĩa là nổi dậy để giành lấy chính quyền. Có thể xem luật phân quốc là tập đại thành của luật lệ thời trung cổ Nhật Bản (thường được họ gọi là trung thế[2] để chỉ giai đoạn giữa thế kỷ 12 đến 16). Xin xem bảng tóm tắt dưới đây để hiểu về một số bộ luật của các tiểu quốc quan trọng thời đó.

 Luật các tiểu quốc và gia pháp

Lãnh chúa

Tiểu quốc

Tên bộ luật

Năm hoàn thành

Date

Mutsu (Aomori, Iwate)

Jinkaishuu (tập hợp 171 điều khoản, bộ luật tiểu quốc lớn nhất)

1536

Yuuki

Shimôsa (miền bắc Chiba)

Yuukishi shinhatto

1556

Hôjô

Izu

Sôunjidono nijuuichi kajô (gia pháp của Sôun)

đầu thế kỷ 16

Imagawa

Suruga (miền trung Shizuoka)

  • Imagawa kana mokuroku
  • Imagawa kana mokuroku zuika
  • 1526

 

  • 1553

Takeda

Kai (Yamanashi)

Kôshu hatto no shida (gia pháp của Shingen)

1547

Asakura

Echizen (đông Fukui)

Asakura Toshikage jôjô

(Asakura Toshikage juushichi kajô) 17 điều khoản

 

1471-81

Rokkaku

Ômi (Shiga)

Rokkakushi shikimoku (Yoshiharu shikimoku)

1567

Ôuchi

Suuô (Yamaguchi)

Ôuchike okitegaki

(Ôuchike kabegaki)

khoảng 1495

Miyoshi

Awa (Tokushima)

Shinkaseishiki

1562-1573

Chôsokabe

Tosa (Kôchi)

Chôsokabeshi okitegaki (Chôsokabe motochika hyakukajô) 100 điều khoản

1596

Sagara

Higo (Kumamoto)

Sagarashi hatto

1493-1555

Các bộ luật này lúc mang tên hatto (pháp độ), lúc mang tên mokuroku (mục lục). shikimoku (thức mục), kabegaki (bích thư = chép trên tường) vv... nhưng nói chung đều là các điều khoản (jô) từ vài mươi (trường hợp gia pháp nhà Asakura, Hôjô) đến cả trên trăm (bộ luật nhà Date, Chôsokabe). Trong các bộ luật của dòng họ hay tiểu quốc lắm lúc có cả những qui định như là kenka ryôseibai để giải quyết việc tranh tụng đấu đá. Luật này qui định rằng hễ cãi nhau thì hai bên dù phải hay trái đều có tội và bị xử phạt (kenka là gây tranh cãi, gây ồn ào, còn ryôseibai = lưỡng thành bại, xử cả hai) [3]. Người ta lại thấy một đặc điểm khác là chế độ renza (liên tọa chế). Renzasei qui định rằng khi một cá nhân phạm tội thì làng nước, hương lý nghĩa là những người sống trong vùng cũng phải chịu tội lây. Chúng ta thấy các daimyô của thời Chiến Quốc, những nhà cai trị mới, đã tỏ ra có một lập trường cứng rắn đối với kẻ bị trị. Họ còn cấm các gia thần của mình không được kết hợp lại thành nhóm riêng để mưu đồ những việc tư túi củng như không có quyền mua bán lãnh địa qua lại mà cũng không được chia của thừa tự cho các con theo lối bunkatsu sôzoku (phân cát tương tục). Chế độ chỉ khuyến khích để của lại cho một mình trưởng nam (chôshi tandoku sôzoku = trưởng tử đơn độc tương tục) mà thôi. Ngoài ra trong các bộ luật tiểu quốc này, cũng thấy có những điều khoản nghiêm trị việc không nộp tuế cống và ngăn cấm nông dân bỏ xứ đào vong.

Đối với những lãnh chúa đời Chiến Quốc, việc kiểm soát sức mạnh kinh tế trong lãnh địa là điều họ xem là thiết thân hơn cả.Họ tìm sách bắt rễ sâu hơn ở địa phương, tăng gia diện tích đất chiếm lĩnh bằng cách thu đoạt những vùng đất mới qua các cuộc chinh phục.Sau đó họ mở cuộc điều tra đất đai (kenchi = kiểm địa) để xem sức sản xuất lúa gạo nơi đó được bao nhiêu. Sự kiểm soát của họ dựa trên một chế độ tự khai báo (jiko shinkokusei = tự kỷ thân cáo chế), qua đó, các địa chủ, gia thần của họ phải báo cáo lên lãnh chúa một số chi tiết như diện tích và sức sinh sản, mức đóng góp hàng năm (nengu = niên cống) của đất đai mình có. Phương pháp kiểm soát này còn có tên là sashidashi kenchi (kiểm soát đất đai qua tờ trình).

Cũng cần nói đến một điều các lãnh chúa lưu tâm đặc biệt: việc cung cấp và vận chuyển hàng hóa. Do đó họ tổ chức thành hệ thống những con buôn và những nhà sản xuất công nghệ vốn sống rải rác trong lãnh quốc. Làm như thế họ có thể kiểm soát một cách hữu hiệu những nhà buôn và nhà sản xuất lớn. Các lãnh chúa đã cho xây dựng những xóm buôn bán bên chân thành gọi là jôkamachi (thành hạ đinh) để tụ họp nhà buôn nhằm kiểm soát sự giao dịch cũng như sản xuất công nghệ trơng phần đất mình quản lãnh. Những xóm gọi là jôkamachi trở thành trung tâm kinh tế trong vùng. Rồi với hệ thống nhà trạm (shukueki = túc dịch) và ngựa trạm (denba = truyền mã) trên tuyến đường chuyển vận cũng việc thiết lập chợ búa cùng việc phế bỏ những cửa ải ngăn chận sự lưu thông tài hóa, kinh tế thương nghiệp đã được vận hành một cách trơn tru.

                

Di tích một khu nhà trạm (shukueki) cho khách nghỉ

 6.3 Phố phường và dân chúng thời Chiến Quốc:

Đến đây, chúng ta thử điểm qua một số phố phường buôn bán sầm uất của thời Chiến Quốc. Những jôka machi hay xóm dưới chân thành nổi tiếng thì có Odawara của họ Hôjô, Fuchuu (thành phố Shizuoka) của họ Imagawa, Kasugayama (thành phố Jôetsu) của họ Uesugi, Yamaguchi của họ Ôuchi, Funai (thành phố Oita) của họ Otomo, Kagoshima của họ Shimazu.

Cũng phải kể đến những xóm buôn bán (sau sẽ phát triển trở thành đô thị) đã thành hình trước cổng chùa và đền thần. Đó là những monzen machi (môn tiền đinh). Trước cổng đền Ise Jingu thì có xóm Uji và Yamada, trước chùa Zenkôji (Thiện Quang Tự) vùng Shinano thì có Nagano. Mặt khác, ở những nơi mà giáo phái Tịnh Độ Chân Tông hưng thịnh, nhiều xóm buôn và khu phố đã được dựng lên bên trong khuôn viên các chùa chiền và đạo trường (dôjô, trong văn mạch này có nghĩa là nơi tín đồ Phật giáo đến tu dưỡng). Do đó những chốn này mới mang tên jinaichô (tự nội đinh hay “xóm chùa”). Các tín đồ nhân đó có nơi để tụ họp buôn bán và sản xuất những mặt hàng công nghệ. Xóm chùa của Ishiyama Honganji (Thạch Sơn Bản Nguyện Tự, thuộc thành phố Ôsaka) trong xứ Settsu, các xóm Kanazawa ở Kaga, Tondabayashi ở Kawachi, Imai ở Yamato là những địa danh tiếng tăm còn được lưu truyền. Những “xóm chùa” như thế có đặc quyền là được miễn thuế và không chịu sự can thiệp của nhà chức trách từ bên ngoài đến. Việc buôn bán cũng được xảy ra một cách bình đẳng chứ không bị đặt điều kiện là có chân trong Za (đó là hình thức muza = vô tọa, vô tòa). Do đó, chế độ áp dụng ở đây có tên gọi là rakuza rakushi (lạc tọa lạc thị,” mà “lạc” được dùng trong cái nghĩa là thong thả, dễ dãi). Thế nhưng chẳng bao lâu các lãnh chúa Chiến Quốc muốn vơ những nhà buôn đó để đặt dưới quyền kiểm soát của mình. Những người ấy bị tước đoạt hết đặc quyền và sau đó, họ đã nhập làm một cùng với những nhà buôn của “xóm dưới chân thành”. Nhưng chẳng bao lâu, các xóm dưới chân thành của các lãnh chúa Chiến Quốc theo đà phát triển của nền kinh tế lại bắt đầu có khuynh hưởng phế bỏ những Za vì bản chất của Za là duy trì sự độc quyền trong kinh doanh. Cuối cùng, lệnh rakushi rakuza (Lạc thị lạc tọa lệnh) đã được ban hành khắp nơi.

Một khi kinh tế jôka-machi tức “xóm dưới chân thành” đã phồn vinh như thế, nó cũng kéo theo sự phát triển của các nhà buôn tuy ở xa nhưng có làm ăn với Kyôto ở trung ương. Điều đó dẫn đến sự hưng thịnh của các “xóm bến cảng” (minato machi), “xóm nhà nghỉ đường bộ” (shukuba machi). Những bến cảng sầm uất vào thời ấy thì có Sakai ở ven biển nội địa và Hakata phía bắc đảo Kyuushuu. Ngoài ra, còn phải kể đến Hô no tsu, Onomichi, Hyôgo, Obama, Tsuruga, Ôtsu, Kuwana, Ôminato vv...

 Trong các đô thị mới phát triển này, những nhà công thương nghiệp làm ăn có của đã họp nhau lại thành tổ chức tự trị để vận hành công việc trong các xóm buôn và xây dựng một cách êm thắm những thành phố tự do. Sakai, Hakata, Hirano ở Settsu, Kuwana và Ôminato ở Ise no kuni đều là những thành phố tiêu biểu. Sakai đã lập được một hội đồng quản trị gồm 36 thành viên có tên là Egôshuu (Hội họp chúng, còn đọc là Kaigôshuu). Hakata có một cơ quan mang tên Nengyôji (Niên hành ty) gồm 12 con buôn lớn hay cự phú (gọi là gôshô =hào thương) để tiến hành công việc hàng năm của thành phố như một đô thị tự trị với một chính sách quản lý đặc thù. Một nhà truyền giáo thuộc giáo hội Ki-tô tên là Gaspar Virella, sau khi đặt chân đến Nhật, đã gửi thư về cho các bạn đồng sự của ông ở Ấn Độ và Âu châu một bức thư (chép lại trong Gia Tô Hội Sĩ Nhật Bản Thông Tín) với nội dung như sau:

“Thành phố Sakai rất lớn, con buôn giàu có tụ tập đông đảo. Ở đây có một hội đồng quản trị gọi là Egôshuu, hình thức cũng giống như Hội đồng hàng tỉnh (Chấp chính quan) ở Venice.Bắt đầu chỉ có 10 người, sau lên đến 36. Họ đứng ra tự vận hành mọi công việc”

“Trên khắp nước Nhật, không có chỗ nào an toàn hơn đây. Ba mặt nam, bắc và đông của thành phố có đào hào để chuẩn bị chống lại việc kẻ địch tấn công từ bên ngoài. Người ta mướn cà lính đánh thuê để bảo vệ thành phố.”

Qua hai đoạn thư trên, chúng ta có thể tưởng tượng ra được phần nào đời sống ở thành phố Sakai vào thời ấy. Chẳng những thế, ở bảo tàng viện thành phố Sakai ngày nay, người ta còn giữ được một bức tranh vẽ phong cảnh ở đó trong ngày hội đền Sumiyoshi.Trong tranh, ta thấy thành phố có hào sâu che chở, lại thêm thuyền bè và những kho hàng tường trắng cao đến 3 tầng. Lại có quang cảnh một đám rước hệt như ngày hội giả trang (Carnival).

Giống như Sakai, ở Kyôto có tổ chức gọi là Hội đồng khu phố (Chôshuu= Đinh chúng). Họ là những con buôn giàu có, đã tập hợp lại để xây dựng nên các Chô (Đinh) tức là khu vực dân chúng tự trị. Trong các Chô như vậy, mỗi Chô đều có luật lệ riêng gọi là Chôhô (Đinh pháp), dân chúng trong vùng cứ dựa theo đó mà sinh hoạt hay kinh doanh. Không nên quên rằng các Chô lại có thêm tổ chức là Chôgumi (Đinh tổ) (tổ như tổ hợp) bao gồm nhiều Chô. Những Chô và Chôgumi như vậy được vận hành một cách tự trị bởi những nhân vật có chức vụ gọi là Tsukigyôji (Nguyệt hành sự) tuyển ra từ đám Chôshuu. Những người này luân phiên mỗi tháng điều khiển công việc trong khu vực. Nhờ có bàn tay của các Chôshuu mà thành phố Kyôto điêu tàn từ sau cuộc đại loạn năm Ônin đã được phục hưng. Cuộc lễ hội Gion (Kỳ Viên) vẫn được tồn tại cho đến ngày nay ở Kyôto tượng trưng cho công lao bảo tồn văn hóa của những người ấy.


[1] San.in (Sơn Âm) có nghĩa là phía bắc rặng núi. Ở đây ám chỉ phía tây đảo Honshuu , bao gồm  Tottori, Shimane, bắc Yamaguchi ..là những tỉnh “khuất mặt trời” và nhìn ra biển Nhật Bản.Trong khi đó San.yô (SơnDương) nhằm chỉ các tỉnh phía nam rặng núi, “gần mặt trời” hơn và nhìn ra biển nội địa Seto như Okayama,Hiroshima, Hyôgo (Kobe) và phần phía nam tỉnh Yamaguchi.

[2] Trong tiếng Anh, trung thế và trung cổ, trung đại đều có thể được dịch là Middle Ages (danh từ) hay medieval (tính từ).. Tuy nhiên, người Nhật còn dùng từ trung cổ để chỉ vật dụng đã dùng một lần, không còn mới nữa (second hand).

[3] Định chế hóa vào thời Chiến Quốc, luật này đã bị bãi bỏ dưới thời Edo nhưng lối suy nghĩ này vẫn còn được duy trì trong lối sống của người Nhật và trở thành một phương châm dẫn dắt họ trong cách xử thế.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114571845

Hôm nay

2333

Hôm qua

2358

Tuần này

21594

Tháng này

230369

Tháng qua

129483

Tất cả

114571845