Thế thì những gì đã xảy ra ở Âu châu trong khi Nhật Bản đang ở vào giữa thời Chiến Quốc? Thực ra, lúc đó Âu Châu vừa chấm dứt thời Phục Hưng (Renaissance) và kết thúc cuộc Cải cách tôn giáo (Reformation) và bắt đầu bước vào giai đoạn xã hội cận đại. Đi tiên phong trên con đường này là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, hai quốc gia Ki-tô giáo.
Cả hai nước này cũng như Âu châu nói chung lúc đó đang hướng cái nhìn ra thế giới bên ngoài. Họ bắt đầu khai thác những con đường mới trên mặt biển cũng như khuếch trương mậu dịch ra hải ngoại. Cùng lúc, họ chủ trương đẩy mạnh việc truyền giáo và đi tìm thuộc địa. Năm 1492, nhà hàng hải người Ý Christopher Columbus được sự hổ trợ của Nữ hoàng Isabel nước Tây Ban Nha đã vượt Đại Tây Dương đến tận các đảo Tây Ấn (West Indies)[1]. Năm 1498 thì người Bồ Đào Nha Vasco de Gama đã đi vòng xuống phía dưới lục địa Phi châu và đặt chân lên bờ biển Calicut (châu Kerala) của Ấn Độ. Đó là chưa nói về việc Magellan đã đi vòng mũi cực nam Châu Mỹ ra được đến Thái Bình Dương, tận Phi Luật tân, rồi lại tiến về hướng Tây và đi hết một vòng trái đất.
Những thành tích của các nhà hàng hải ấy vốn không xa lạ gì với chúng ta. Đó là thời đại mà người ta gọi là thời kỳ hàng hải viễn dương hay đại hàng hải (Daikôkai jidai như người Nhật hay gọi). Nó đã ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội Nhật Bản thời Chiến Quốc.Thế nhưng chẳng bao lâu, thời Chiến Quốc cũng hạ màn. Hai võ tướng Oda Nobunaga (Chức Điền Tín Trường) và Toyotomi Hideyoshi (Phong Thần Tú Cát) đã xuất hiện để kẻ trước người sau cáng đáng việc thống nhất thiên hạ. Tiếp theo đó, một nhân vật lịch sử thứ ba nhẫn nại và giỏi tính toán hơn cả là Tokugawa Ieyasu (Đức Xuyên Gia Khang) đã hoàn thành ước vọng đó khi lập nên chính quyền quân nhân ở Edo (Tôkyô ngày nay) vào năm 1603.
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mà ta biết là hai quốc gia ảnh hưởng nhiều nhất đến vùng Đông Á, lúc ấy đã tiến về phía đó và lập ra nhiều cứ điểm quan trọng. Tây Ban Nha chiếm lấy thành phố Manilla ở Phi Luật Tân. Còn Bồ Đào Nha thì khống chế được Goa bên bờ biển miền Tây Ấn Độ và lập thêm căn cứ Macao ở Trung Quốc để xúc tiến việc mậu dịch.
Mặt khác, ở Trung Quốc, nhà Minh sau khi kiến quốc vào hậu bán thế kỷ 14 đã áp dụng chính sách cấm cản việc thông thương với các nước (Hải cấm lệnh). Hải cấm nghĩa là đặt tất cả mọi việc giao thiệp với bên ngoài dưới sự quản lý của nhà nước, không cho phép ai buôn bán riêng tây, đặc biệt kiểm soát chặt chẽ Nụy khấu.
Tuy nhiên việc cấm đoán của Minh triều dần dà cũng yếu đi. Họ khổ vì cái nạn gọi là Bắc Lỗ Nam Nụy (Oải). Bắc lỗ là tộc Nữ Chân, nam Nụy (Oải) là cướp biển Nhật - Đài Loan) đã làm cho chính sách Hải cấm chỉ còn là cái bóng mờ. Nguyên cả một vùng biển Đông gồm cà hải vực của Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, Việt Nam, Phi Luật Tân, mọi nơi đều bắt đầu phát triển mậu dịch tiếp vận (transit trade) nghĩa là làm bến đỗ để nối đường dây chuyển vận hàng hóa về những thị trường xa hơn. Những nhà buôn Âu châu nhờ thế đã thành công trong vai trò chủ đạo mậu dịch thế giới của họ.
1. Mậu dịch “Nam Man” và đạo Ki-tô:
Trên đây, chúng ta đã xét qua tình hình vùng Đông Á trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 15 bước qua thế kỷ 16. Điều đáng chú ý hơn cả là giai đoạn đó đã được mệnh danh “ thời đại đại hàng hải hải viễn dương”. Âu châu biết lợi dụng kỹ thuật hàng hải của mình để tiến ra các nước ngoài. Cùng lúc ấy, nhà Minh ở Trung Quốc cũng suy yếu khiến cho lệnh Hải cấm không còn hiệu lực nữa. Hai yếu tố này giúp cho phương Tây và phương Đông có cơ hội tiếp xúc với nhau. Sau đây, chúng ta hãy đi vào chi tiết cụ thể xem những sự kiện nào đã xảy ra lúc đó.
Năm 1543 (Tenbun 12) có một chiếc thuyền buồm chở một người Bồ Đào Nha trôi dạt đến đảo Tanegashima phía nam đảo Kyuushuu. Có lẽ đây là lần đầu tiên một người Âu châu đặt chân lên đất Nhật. Chính ra chiếc thuyền buồm đó thuộc về tay Nụy khấu gốc Trung Quốc tên là Vương Trực, thế nhưng câu chuyện đáng lưu ý ở đây là lãnh chúa trên đảo, Tanegashima Tokitaka, đã mua lại được từ người Bồ trôi dạt đó hai khẩu súng và ra lệnh cho gia thần học cách chế tạo cũng như sử dụng chúng. Về sự kiện này, có thiền tăng tên là Nanpo Bunshi (Nam Phố Văn Chi, 1555-1620) đã chép lại rất rõ trong cuốn Teppôki (Thiết pháo ký, ).
Các lãnh chúa Chiến Quốc thấy súng như bắt được vàng vì họ chưa từng biết một vũ khí có thể sát thương ở tầm xa nào mà lợi hại như thế. Và kể từ lúc đó, hình thức chiến trận trong nước Nhật đã hoàn toàn thay đổi. Súng kiểu Âu châu chẳng bao lâu đã phổ cập khắp toàn quốc và được chế tạo tại chỗ. Những thành phố như Kunitomo ở vùng Ômi, Sakai ở Izumi, Negoro ở Kii đều là những địa điểm có nghề đúc súng nổi tiếng.
Thế nhưng tại sao những địa điểm trên lại quen thuộc được với nghề đúc súng ? Chính vì những nơi đó đã từng quen với việc chế thép và nghề rèn trước đó rồi. Từ khi súng ống được biết tới ở Nhật, chỉ cần 7 năm sau, trong vùng Kinai, các võ tướng đã biết sử dụng nó trong chiến tranh và hơn 10 năm sau thì súng ống đã đầy dẫy khắp nước. Sự có mặt của nó đã làm cho phương thức chiến đấu và cách kiến trúc thành trì thay đổi theo.
Trước khi súng ống đến Nhật, khi đánh nhau, người ta chủ yếu là dùng kỵ binh và lấy một chọi một. Tiếng Nhật gọi là ikki-uchi (nhất kỵ đả). Thế nhưng bây giờ tình hình thay đổi hẳn. Lính khinh binh (ashigari) trang bị súng sẽ chiến đấu tập đoàn chứ không đơn lẻ như trước. Thành quách cũng vậy. Xưa là thành đắp hay sơn thành (yamajiro, thành núi) nhưng nay phải là thành mặt bằng (hirajiro) hay thành trên vùng đất cao (hirayamajiro). Thế rồi nhân có vụ người Bồ tình cờ trôi dạt tới Nhật như đã nói trên, từ đó mỗi năm, đồng bào của ông ta lại ghé qua các bến cảng ở Kyuushuu và buôn bán với dân bản xứ.
Nói thêm về chuyện súng ống[2]
Súng thép (teppô) mà lãnh chúa Tanegashima Tokitaka mua lại của 2 người Bồ trôi giạt năm 1543 chỉ là “loại súng tay cần giây dẫn hỏa” (hinawajuu). Tuy nhiên cũng cớ giả thuyết cho rằng những kẻ đem súng đầu tiên vào đất Nhật là các hải khấu Wakô ở vùng Đông Nam Á. Súng có giây dẫn hỏa được phục chế tại chỗ trong nước nhờ kỹ thuật luyện thép cao của người Nhật. Tuy nhiên loại súng này không khỏi có sự bất tiện là thời gian chuẩn bị lâu, gặp mưa thì tịt ngòi, nguyên liệu như hỏa dược phải nhập khẩu mới có. Muốn sử dụng thứ võ khí này một cách phổ biến phải có thật nhiều vốn liếng.
Người sử dụng súng thép thành công nhất không ai khác hơn là Oda Nobunaga. Năm 1575, trong trận Nagashino, ông đã vô hiệu hóa lực lượng kỵ binh ưu tú của Takeda Katsuyori (Vũ Điền, Thắng Lại, 1546-1582), con trai Shingen, lãnh chúa đất Kai (Kôfu bây giờ), đưa đến cái chết (tự sát) của ông này.
Cho đến cuối đời mạc phủ khi súng kiểu mới hình thức Tây phương được nhập vào thì súng cần giây dẫn hỏa vẫn là vũ khi cơ bản trong quân đội Nhật Bản.
Vào năm 1584 (Tenshô 12), người Tây Ban Nha lại đến cửa biển Hirado vùng Bizen và bắt đầu giao thương. Người Nhật gọi lối trao đổi buôn bán đó là Nanban bôeki hay Nam Man mậu dịch. Đương thời, người Bồ và người Tây vốn đến từ con đường biển phía Nam (Phi Luật Tân, Trung Quốc) và hình dáng không giống người Nhật nên mới bị họ kỳ thị như thế.Dầu muốn dầu không, nhờ có Nam Man mậu dịch mà những món hàng sau đây đã được buôn qua bán lại:
Hàng xuất khẩu: Bạc, đao kiếm, hải sản, đồ sơn.
Hàng nhập khẩu: tơ sống (do Trung Quốc chế tạo), lụa là, súng ống, thuốc súng.
Như ta thấy, người “Nam Man” đã đem súng ống, thuốc súng và tơ sống Trung Quốc đến. Ngược lại, về phía Nhật Bản thì họ đem bạc ra đổi. Bạc là một kim loại vốn được sản xuất rất nhiều ở Nhật vào giữa thế kỷ 16.
Nguyên nhân là chính vào thời điểm đó, có thương nhân người Nhật ở Hakata tên là Kamiya Juutei (Thần Cốc Thọ Trinh) đã học được từ người Triều Tiên phương pháp chế tạo ra bạc có tên là haifukihô (hôi xuy pháp, hay phép thổi tro) cho nên Nhật Bản trở thành một nước ít có trên thế giới có khả năng xuất khẩu thứ quý kim này. Cách chế bạc, nếu tóm tắt một cách đơn giản là gia nhiệt lên quặng bạc hãy còn chất không tinh khiết cùng một lượt với chì và sau đó loại bỏ những thứ không tinh khiết ấy để có một hợp kim chỉ có bạc và chì. Tiếp đến, đặt chúng lên mặt tro và nung nóng lên thì chì sẽ hóa lỏng trước tiên, bị than hút đi để chỉ còn lại bạc nguyên chất. Có thể nói nhờ chế được bạc mà người Nhật ngày đó đã tạo cho mình cơ hội tiếp xúc với thế giới vậy.
Đối với những nhà buôn Tây phương trong cuộc mậu dịch Nam Man này thì họ đều ý thức rằng hoạt động thương mại của họ gắn liền với công cuộc truyền giáo của các thừa sai. Đặc biệt tình hình xã hội Âu châu lúc bấy giờ cho thấy giáo hội Ki-tô giáo truyền thống (Cựu giáo) đang chịu áp lực của giáo hội cải cách (Tân giáo). Trong khi Tân giáo mở rộng tại Âu châu, Cựu giáo phải dốc toàn lực đi tìm một lối thoát ở vùng Đông Á.
Năm 1549 (Tenbun 18), có nhà truyền giáo giáo hội Gia Tô (Yasokai) là Francesco Xavier (1506-1552) đặt chân đến vùng Kagoshima (trên đảo Kyuushuu). Các lãnh chúa Chiến Quốc vùng đó như Ôuchi Yoshitaka (Đại Nội Nghĩa Long) và Ôtomo Yoshishige (Đại Hữu Nghĩa Trấn) (còn gọi là Sôrin = Tông Lân) đã che chở ông và cho phép giảng đạo.
Tiếp theo đó, các nhà truyền giáo lần lượt đến Nhật. Nhiều nơi đã dựng Nanbanji (Nam Man Tự) – tên để gọi các nhà thờ Ki-tô giáo – và những trường học đào tạo các nhà truyền đạo (nơi đây gọi là collegio) cũng như viện thần học (seminario). Sau thời của Xavier thì có Gaspar Vilela (1525-1572) và Luis Frois (1532-1597) là hai tu sĩ nổi tiếng khác đã đến vùng Kinki và Kyuushuu truyền giáo. Tiếp theo đó là Alexandro Valignano (1539-1606), người đem kỹ thuật ấn loát bằng con chữ đến cho dân Nhật. Chính ông đã rửa tội cho các lãnh chúa như Ôtomo Yoshishige, Arima Harunobu, Ômura Sumitada và khuyến khích họ gửi bốn thiếu niên là Itô Manjô, Chijiwa Miguel, Nakaura Julian và Hara Martino sang Âu châu. Đó là đoàn sứ thần đã đi viếng Giáo hoàng Gregorius XIII vào năm Thiên Chính thứ 10 (1582) (Tenshô Ken.Ô shisetsu) và chỉ trở về nước 8 năm sau.

Sứ tiết gửi đi Âu châu năm Tenshô
Những nhà truyền giáo đầu tiên[3]
Những nhà truyền giáo đầu tiên[1]
Năm
|
Nhân vật (Quốc tịch)
|
Hoạt động
|
1549
|
Francisco Xavier (Tây)
|
Nhân gặp người Nhật Yajirô ở Malacca, tìm đến Kagoshima. Truyền đạo ở Kagoshima, Yamaguchi, Bungo Funai từ 1551.
|
1556
|
Gaspar Vilela (Bồ)
|
Thuyết phục Mạc phủ Muromachi cho phép giảng đạo. Có trứ tác “Gia Tô Hội Sĩ Nhật Bản Thông Tín”.
|
1563
|
Luis Frois (Bồ)
|
Giao du thân thiết với Nobunaga và Hideyoshi. Từng thắng tăng Asayama Nichijô (Triêu Sơn Nhật Thừa) trong một cuộc tranh luận về giáo lý. Tác giả của “Nhật Bản Sử”, một quyển sách quí để biết về thời đó.
|
1570
|
Organtino (Ý)
|
Giúp Frois truyền đạo ở vùng Kinai. Được Nobunaga cho phép lập Nam Man Tự tức nhà thờ Ki-tô giáo ở Kyôto và Seminario (thần học viện) ở Azuchi.
|
1579
|
Alessandro Valignano (Ý)
|
Biết truyền đạo một cách nhu nhuyễn theo nội tình Nhật Bản. Đã giúp vào việc gửi phái đoàn thiếu niên sang thăm Âu Châu vào năm Tenshô (Thiên Chính).
|
1593
|
Pedro Bautista (Tây)
|
Thương lượng ngoại giao với Hideyoshi. Tử đạo ở Nagasaki (nh ân vật chính trong 26 thánh tử đạo).
|
1594
|
Jeronimo de Jesus (Tây)
|
Tiếp cận với Ieyasu.Thiết lập giáo hội ở vùng Kantô.
|
1603
|
Luis Sotelo (Tây)
|
Được Ieyasu và Hidetada tin cậy. Quen cả Date Masamune. Năm 1613, đã cùng Hasekura Tsunenaga (Chi Thương Thường Trường) đi sứ sang Âu châu (1613-20).
|
.jpg)
Tem Bồ Đào Nha kỷ niệm giáo sĩ Luis Frois
[1] Chùm đảo nằm trên Đại Tây Dương gần quần đào Caribbean, bao gồm cả các đảo Antilles và Bahamas.
[2] Nguồn: Utagawa Takehisa trong Teppô denrai (Chuô kôron) và Okumura Shôji trong Hinawaju u kara kurobune made (Iwanami shinsho).
[3] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 136)