Cơ sở công việc cai trị của Toyotomi Hideyoshi là lợi dụng triệt để quyền uy của triều đình, một điều ông khác với Nobunaga (ông này chỉ đứng bên lề mà khống chế triều đình). Như đã trình bày bên trên, năm 1585, Hideyoshi đã tìm cách để được thiên hoàng bổ nhiệm vào vai trò Kanpaku rồi sau đó là Daijôdaijin, hai chức vụ quan trọng hàng đầu. Tên họ mới của ông ông cũng do triều đình ban cho. Lại nữa, vào năm 1588, khi khánh thành ngôi biệt điện Juurakutei (Tụ Lạc Đệ), ông đã cho mời Thiên hoàng Gô Yôzei (Hậu Dương Thành) đến khoản đãi và nhân lúc ấy, đòi hỏi các lãnh chúa địa phương tuyên thệ trung thành với cả mình lẫn Thiên hoàng.
Bằng cớ rõ nhất của sự độc tài là Hideyoshi đã ban bố lệnh Sôbuji, ngăn cấm những cuộc chiến tranh riêng lẻ, ra lệnh cho các lãnh chúa phải đình chiến và cưỡng chế họ điều đình với nhau dưới áp lực của mình.
Trung tâm tổ chức chính quyền của Hideyoshi là Gotairô (Ngũ đại lão) và Gobugyô (Ngũ phụng công). Và chỉ có thế thôi. Ông chia năm chức vụ thi hành (phụng công) cho năm bầy tôi thân tín nhất của mình, ngoài ra, ông dùng năm đồng minh chiến lược làm cố vấn (đại lão) để bàn luận về những chính sách trọng yếu. Tóm lại, với 10 nhân vật đó ông nghĩ rằng đã có thể xây dựng một chính quyền vững như bàn thạch! Ít nhất đó là điều ông đã cho thi hành vào lúc cuối đời.
Khi còn khỏe mạnh minh mẫn, ông có thể thực hiện chính sách độc tài ấy được nhưng đến lúc xế chiều, có vẻ ông bị ám ảnh nhiều hơn về việc làm sao duy trì chính quyền nhắm để lại cho Toyotomi Hideyori (Phong Thần Tú Lại, 1593-1615), cậu đích tử hãy còn ít tuổi. Sau đây là thành phần của “hội đồng chính phủ” 10 người do ông chỉ định:
Năm bugyô (phụng công, như tổng trưởng chính phủ): Asano Nagamasa, Mashita Nagamori, Ishida Mitsunari, Maeda Gen.i, Natsuka Masaie.
Năm tairô (đại lão, như thượng nghị sĩ hay thủ tướng): Tokugawa Ieyasu, Maeda Toshiie, Môri Terumoto, Kobayakawa Takakage (sau khi ông chết, Uesugi Kagekatsu thế chân), Ukita Hideie.
.jpg)
Ishida Mitsunari
Tuy vậy, nỗ lực của Hideyoshi không đem lại kết quả như ý sau khi ông mất. Chẳng bao lâu tổ chức 10 người này bị giải thể. Ngày 8 tháng 3 năm 1598 (Keichô 3), Hideyoshi trút hơi thở cuối cùng và chỉ 2 năm sau mà thôi, đã xảy ra cuộc sống mái một mất một còn trên cánh đồng Sekigahara (mà Mitsunari và Ieyasu, hai người có tên được in đậm, cầm đầu 2 đạo quân đông tây, đã đóng vai trò chủ chốt). Kết quả trận đánh đó như thế nào, chúng ta sẽ có dịp bàn rõ hơn.
3.2 Chính sách đối nội của chính quyền Toyotomi:
Sau khi thống nhất thiên hạ rồi, Hideyoshi đã đề ra những chính sách đối nội như thế nào? Trước tiên, để đặt cơ sở tài chính cho chính quyền mới, ông đã lập ra ở các địa phương những lãnh địa mà trung ương cai quản trực tiếp gọi là kura.iri.chi (tàng nhập địa) hay “lãnh địa nhà nước” để gây công quĩ mà khả năng thu nhập mỗi nơi lên đến 2 triệu thạch thóc. Ngoài ra còn có các mỏ vàng trên đảo Sado, mỏ bạc Iwami Ômori, mỏ bạc Tajima Ikuno, những cơ sở kinh tài mà chính phủ trông coi và thu huê lợi lấy. Ông cũng cho đúc hóa tệ mang tên là Tenshô ôban (Thiên Chính đại phán) tức “ thỏi tiền vàng cỡ lớn năm Thiên chính” để lưu hành. Ngoài ra ông còn đặt các nhà buôn giàu có của những khu vực đô thị phồn thịnh như Ôsaka, Sakai, Fushimi, Nagasaki dưới sự kiểm soát trực tiếp, dùng sức mạnh kinh tế của họ để phục vụ cho mục tiêu chính trị và quân sự của mình.
Tiếp đến, về những chính sách cụ thể, chắc cần đề cập đến Taikô kenchi (Thái cáp kiểm địa) trước đã. Taikô (Thái cáp)[1] là một lối xưng hô đặc biệt để chỉ Kanpaku hay Daijôdaijin, có thể hiểu là Tể Tướng đầu triều.
Sau khi đã dẹp được Akechi Mitsuhide trong trận Yamazaki (1582), ông bèn cho kiểm kê đất đai (kiểm địa = kenchi) vùng Yamazaki ấy. Thế rồi từ ấy ông tiếp tục cho kiểm kê những lãnh địa mới vừa thu lấy được. Việc kiểm kê đất đai của ông được gọi là Taikô kenchi (Việc kiểm kê đất đai của Tể tướng Hideyoshi). Về mặt cơ bản, nó khác với cách thức kiểm kê đất đai có trước đây của các lãnh chúa Chiến Quốc đối với gia thần và địa chủ. Kiểm kê là cách thức để ấn định mức độ tuế cống cho nên có khi một miếng đất cách vài năm lại bị kiểm kê một lần.
Các lãnh chúa Chiến Quốc dưới thời Nobunaga theo chế độ sashidashi kenchi nghĩa là họ “tự kiểm kê và trình báo lên trên” (jiko shinkokusei = tự kỷ thân cáo chế). Hideyoshi áp dụng lối khác. Ông gửi các viên chức kiểm kê (kenchi bugyô) về tận nơi và đo đạc tính toán rất nghiêm nhặt. Đại khái Hideyoshi đòi hỏi các viên chức phải làm những chuyện như sau:
1) Đo đạc đất đai, xác định sở hữu chủ (nguyên tắc icchi issakunin tức nhất địa nhất tác nhân, một khoảnh đất dành cho một người canh tác).
2) Định mức ruộng tốt ruộng xấu (thượng, trung, hạ, hạ hạ điền vv..theo chất đất và khả năng tưới tiêu) để xem sức sản xuất của một đơn vị (tan = đoạn, phản, tương đương 391,7 m2) được bao nhiêu thạch (hộc, 180 lít) thóc. Sức sản xuất của mỗi “tan” gọi là kokumori (thạch (hộc) thịnh).
3) Tính sức sản xuất trên diện tích chung của miếng đất ấy bằng cách nhân đơn vị diện tích với sức sản xuất của một đơn vị. Sức sản xuất ấy gọi là kokudaka (thạch (hộc) cao).
4) Phân chia kokudaka làm 3 phần: hai phần là của công, một phần dành cho dân. Hai phần ba tức là tuế cống.
5) Định chế độ tuế cống (Nhật gọi là nengu = niên cống nhưng cả hai từ đều có thể hiểu chung là thuế má) theo đơn vị làng xã (mura.ukesei =thôn thỉnh chế) chứ không theo sức nộp thuế của cá nhân.
Điều quan trọng nhất của lệnh kiểm kê đất đai gọi là Taikô kenchi này trước tiên là việc thống nhất các đơn vị đo lường: diện tích, dung tích và trọng lượng. Ba thứ gộp chung được gọi là dôryôkô (độ lượng hành). Những tiêu chuẩn được đặt ở cấp quốc gia ấy ngày trước chỉ giới hạn trong từng lãnh địa và không đồng nhất. Nếu Hideyoshi muốn kiểm kê đồng loạt đất đai khắp nước thì việc thống nhất tiêu chuẩn đo lường nói trên là điều tất yếu.
Ông đã thống nhất trước tiên đơn vị đo diện tích đất đai theo cấp bậc từ lớn xuống nhỏ: chô (đinh), tan (đoạn), se (mẫu), bu (bộ). Một bu (bộ) là diện tích của một khoảnh đất vuông vức mà mỗi bề là 6 shaku (xích) 3 sun (thốn) tương đương với 191cm và được gọi là ken (gian). Cứ 30 bộ thì thành một se (mẫu), 10 se thành 1 tan (đoạn), 10 tan thành 1 chô (đinh). (Chính ra mẫu còn được đọc là mo hay bô. Như ở đây, mẫu với cách gọi là se hay une thì chỉ có khoảng 0,992 sào tây (are)).
Đơn vị đo lường (dung lượng, thể tích) dành cho gạo thì trước đó, các lãnh địa tính theo masu (thăng, thưng) và không đồng đều. Chúng chỉ được áp dụng ở đâu theo đó. Hideyoshi dùng đơn vị masu của vùng Kyôto gọi là Kyômasu (Kinh thăng) làm đơn vị chung cho cả nước. Về dung tích thì ông lấy qui chuẩn là gô (hợp) tương đương với 180ml. Cứ 10 gô thì được một shô (tức masu tức thăng hay thưng), 10 shô thành 1 to (đấu), và 10 to thành một koku (thạch, hộc). Chữ thạch và hộc trên tự dạng chữ Hán vốn khác nhau. Tuy nhiên, người Nhật viết là thạch nhưng lại đọc là koku như hộc và cả hai đều có nghĩa là 10 đấu.
Sau khi đã thống nhất các đơn vị đo lường gọi là doryôkô (độ lượng hành)[2] trên toàn quốc, bấy giờ chính quyền Hideyoshi mới có thể tính toán được lượng sinh sản tiêu chuẩn cho mỗi “tan” đất, Trước thời Hideyoshi, nó là 360 bu (bộ) nhưng theo lệnh Taikô kenchi, một “tan” chỉ tương đương với 300 bu, cho nên xin hiểu rằng diện tích một “tan” là 991,7 m2.Từ cơ sở đó, ngay cả nương rẫy (hatake) lẫn đất xây dựng (yashikichi) đều qui được ra thóc gạo để tính kokumori hay sức sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên sức sản xuất đó sẽ được chia theo đẳng cấp tùy phẩm chất của miếng đất ấy (thượng điền, trung điền, hạ điền, hạ hạ điền). Ví dụ miếng ruộng tốt (thượng điền) thì mỗi “tan” có thể thu một thạch năm đấu thóc, ruộng tốt vừa (trung điền) 1 thạch 3 đấu, nương rẫy và đất xây dựng 1 thạch 2 đấu chẳng hạn. Như thế, tất cả sức sinh sản của đất đai đều lấy thóc gạo làm tiêu chuẩn. Cách tính sức sản xuất nông nghiệp theo kokumori để qui định kokudaka, cơ sở tuế cống của diện tích đất đai đã được báo cáo rõ ràng trong một văn thư gọi là Kenchi jômoku (Kiểm địa điều mục) của Toyotomi Hidetsugu (Phong Thần Tú Thứ, 1568-1595)[3] trong lần ông phụ trách việc kiểm kê năm 1591 (Tenshô 19). Theo đó thì ông đã cho nhân lên sức sản xuất của mỗi “tan” (kokumori) với số và loại “tan” làm nên tổng diện tích (tanbetsu) để tính được thu nhập của hoa màu (kokudaka).
Công cuộc kiểm kê đất đai của Tể tướng Hideyoshi (Taikô kenchi) còn có cái tên khác là Tenshô no kokunaoshi (Việc tính lại số thạch thóc vào năm Thiên Chính) để đánh dấu thời điểm khi chế độ này được tiến hành lần đầu tiên. Công cuộc kiểm kê này thực ra có ý nghĩa rất lớn:
Một là nó gạt bỏ được sự hủ bại của các trang viên. Ngày xưa, một trang viên có khi thuộc quyền sở hữu “chồng chất” (trùng phức) của nhiều người và sinh ra biết bao nhiêu phức tạp từ việc tranh chấp quyền lợi. Nay thì chỉ có một sở hữu chủ.
Hai là nó ghi nhận trên pháp lý quyền sở hữu đất canh tác và đất cư trú của người nông dân, những kẻ thực sự đứng ra canh tác ruộng đất, vì tên tuổi và các cách tính toán kokumori và kokudaka phần họ đều được đăng ký trong sổ sách của nhà nước gọi là kenchichô (kiểm địa trương).
Ba là nó buộc người nông dân phải thi hành nghĩa vụ nộp tuế cống phù hợp với số lượng đã định rõ bằng con toán của nhà chức trách trên phần đất thuộc về họ. Điều này vừa khuyến khích những tiểu nông tự lập vừa nắm được trực tiếp việc thu thập tuế cống cho nhà nước.
Việc kiểm kê đất đai của tể tướng cũng dẫn đến chế độ chia cắt và ban phát các chigyôkoku (tri hành quốc) tức “phần đất đặc biệt phong tặng cho những người ra làm việc nước”, được trao từ tay Hideyoshi đến các lãnh chúa. Chế độ này mang tên daimyô chigyôsei (đại danh tri hành chế). Các lãnh chúa (daimyô = đại danh) tùy theo diện tích và sức sản xuất của địa phương mình, đã phải phụng sự việc binh (gunyaku = quân dịch) cho chính quyền trung ương. Để trả lễ cái công gọi là chigyô (tri hành = chấp hành chức vụ), trung ương mới ban thưởng cho họ như thế.
Tiếp đến, xin được trình bày về chính sách thu hồi vũ khí của Hideyoshi. Cụ thể nó đã được thực hiện bằng cái lệnh katana.gari (đao thú = săn lùng đao kiếm) ban hành vào năm 1588 (Tenshô 16). Nó không đến nổi phức tạp như lệnh kiểm kê đất đai. Mục đích chính không gì khác hơn là phòng ngừa những cuộc nổi loạn tsuchi-ikki dưới thời Chiến Quốc mà ta đã bao lần nhắc tới. Hồi đó, nông dân đều vũ trang nên mỗi khi uất ức hay bất mãn về việc phải thu nạp tuế cống là họ có thể hội họp làm ikki, nhất tề nổi dậy, dùng vũ lực chống lại chủ nhân lãnh địa một cách dễ dàng. Nói cách khác, gặp lúc hữu sự thì nông dân sẽ có thể tức khắc trở thành một lực lượng vũ trang. Thành thử giữa anh nông dân tầm thường và người vũ sĩ thuộc giai cấp cao hơn không còn có khoảng cách gì nữa. Nó chẳng khác tình trạng của thời trung cổ lúc mà “binh nông là một”. Như vậy, ta hiểu chính sách thu hồi lại vũ khí của nông dân có mục đích ngăn chia hai giai cấp này ra (binh nông phân ly), sau nữa là không cho nông dân (và cả ngư dân) có phương tiện đối kháng lại quyền uy các lãnh chúa.
Dù vậy, không cứ hể là mệnh lệnh của Hideyoshi thì phải được thi hành. Nông dân cả nước đang nắm khi giới dễ gì nộp lại ngay cho nhà nước! Do đó, Hideyoshi mới đề ra chuyện “đại nghĩa danh phận” nghĩa là đưa chiêu bài hoa mỹ để thuyết phục (hay dụ dỗ) nông dân.
Văn từ của katana.gari hay lệnh săn lùng đao kiếm đã được ghi lại trong một sử liệu gọi là Kobayakawake bunsho tập hợp giấy tờ, tư liệu của gia đình Kobayakawa, một lãnh chúa thời Chiến Quốc, nay hãy còn được truyền lại. Điều khi 2 có chép đại ý “Những võ khí cần tịch thu đó quyết không phải là vật vô dụng. Sắp đến đây, khi đúc tượng Đại Phật chùa Hôkôji (Phương Quảng Tự), nhà nước sẽ dùng nó làm nguyên liệu cho nên tất cả phải nghĩ đến lợi ích tương lai chung mà hiệp lực thì mới được”.Thêm vào đó, trong điều thứ 3, còn thấy viết: “Nếu nhà nông chỉ sử dụng nông cụ để chuyên tâm lo cày cấy nông tang thì không có điều gì đáng vui hơn (cho nhà nước)”. Như vậy, nhà nước đã khéo léo đưa những chiêu bài để kéo dân chúng làm theo ý mình. Vì không có thống kê chính thức nên không hiểu nhà nước đã thu hồi được bao nhiêu đao kiếm nhưng theo tư liệu ở một số địa phương thì số đao kiếm thu vào rất đáng kể. Những địa phương còn giữ lại vài sử liệu liên quan đến việc thu hồi đao kiếm là Yamashiro, Yamato, Kaga, Noto, Wakasa, Izumo, Shinano, Bizen, Chikugo, Satsuma, Dewa.
Qua đó, người ta được biết chẳng hạn viên thủ thành họ Mizoguchi ở khu vực Daishôji thuộc tiểu quốc Kaga chỉ trong vòng một tháng đã thu được từ hai quận Enuma và Mino (lãnh địa 4 vạn 4 nghìn thạch thóc do ông cai quản) tổng cộng 3.973 dụng cụ chiến đấu, và gửi tất cả về trung ương. Trong số vật thu hồi thì 96% thuộc loại gươm giáo, còn 4% còn lại thuộc về cung tên hay súng ống. Như thế mà chức quan trông coi việc săn lùng đao kiếm, Natsuka Masaie, vẫn không bằng lòng vì cho là số nộp sao mà quá ít. Vùng Izumo, lãnh địa của họ Môri thì trong 12 xóm làng (gô) đã thu được vụ khí trang bị được cho 99 người, tổng cộng 195 món. Có thể tính ra là mỗi một người trang bị một kiếm dài và một kiếm ngắn vậy.
Vào năm 1590 (Tenshô 18) tức thời điểm mà vùng Mutsu ở Đông Bắc đã được bình định và cuộc thống nhất đi đến giai đoạn cuối cùng, ở quận Senboku, quan chức sở tại đã thu hồi được tổng cộng 4.472 dụng cụ chiến đấu như kiếm kích đao thương, áo giáp, trong đó có cả 26 khẩu súng.Vì đây là cuộc giải giới ở một vùng đất địch, phân nữa số binh khí đã bị phá hỏng rồi. Dầu vậy con số còn lại đó đã phản ảnh trung thực tình trạng tàng trữ binh khí ở địa phương. Chỉ cần nhân ví dụ vừa kể lên với số địa phương bị kiểm soát thì ta sẽ hình dung ra được con số và các loại đao kiếm đối tượng của cuộc săn lùng trên toàn quốc.
Riêng về pháp lệnh liên quan đến việc ấn định giai cấp xã hội thì được biết năm 1591 (Tenshô 199, Hideyoshi đã ban hành thêm một lệnh mới gọi là Hitobarai.rei (Nhân tảo lệnh = Lệnh dọn dẹp người). Nội dung của nó nhằm cấm những người theo việc binh (buke hôkônin) dưới trướng các võ sĩ trở thành dân kẻ chợ (thương) hoặc làm ruộng (nông). Lệnh cũng không cho phép người làm nông (hakushô) trở thành nhà buôn (thương). Như thế, Hideyoshi muốn ai ở địa vị nào vẫn phải ở đấy nghĩa là kiểm soát chặt chẽ hơn trong sự ngăn cách các giai cấp xã hội.
Vào năm sau, chức kanpaku Hidetsugu (và là cháu, dưỡng tử của Hideyoshi) nhân vì muốn có đủ con số phu phen và lính để cử binh sang đánh Triều Tiên, đã dựa theo sắc lệnh Hitobarai này để mở cuộc điều ta dân số (hộ khẩu = koguchi) trên toàn quốc, sắp hạng dân chúng theo tiêu chuẩn hôkônin (binh), chônin (thương) và hakushô (nông). Lệnh mới này có tên Mibun tôseirei (Thân phận thống chế lệnh = Lệnh quản lý các giai cấp). Tóm lại, trước sau chính quyền Hideyoshi đã sử dụng 3 pháp lệnh là lệnh kiểm địa, lệnh lùng đao kiếm và lệnh ngăn cấm việc chuyển đổi giai cấp để củng cố việc phân chia thứ bậc xã hội giữa binh – thương – nông và hoàn thành một chính sách “binh nông phân ly”.
3.3 Chính sách đối ngoại của chính quyền Toyotomi
Sau đây xin trình bày chính sách đối ngoại của Hideyoshi cũng như cuộc cử binh xâm lăng Triều Tiên của ông. Trước tiên hãy đề cập đến cách xử lý của ông đối với đạo Ki-tô.
Lúc đầu, cũng giống như Nobunaga, Hideyoshi cho phép đạo Ki-tô được truyền giáo. Dần dà, ông thay đổi ý kiến khi nhận thấy ảnh hưởng của đạo Ki-tô có thể phương hại đến việc củng cố một thể chế quốc gia như ông mong muốn. Chuyện đó đã bộc lộ cụ thể vào năm 1587 (Tenshô 15). Số là sau khi Hideyoshi bình định xong đảo Kyuushuu thì một lãnh chúa đi đạo là Ômura Sumitada (Đại Thôn Thuần Trung, 1553-1587) ở Nagasaki đã đem đất đai tiến cúng cho Hội Jesuit. Ngoài ra còn có tin đến tai Hideyoshi là tín đồ đạo Ki-tô đã phá hoại chùa chiền và đền thần. Lúc đó ông mới đặt ra nguyên tắc là các lãnh chúa nếu ai muốn vào đạo phải được phép của ông cái đã (nhập tín hứa khả chế). Do đó, một lãnh chúa là Takayama Ukon (Cao Sơn Hữu Cận, 1552-1615), chủ nhân thành Akashi ở Harima (tây nam Hyôgo bây giờ) vì không chịu bỏ đạo nên lãnh địa bị tịch biên. Ngược lại, đối với thường dân thì Hideyoshi cho phép tùy tâm tùy hỷ nghĩa là không đặc biệt ngăn cấm.
.jpg)
Tượng lãnh chúa đi đạo Dom Bartholomieu Ômura Sumitada
Thế nhưng chẳng bao lâu Hideyoshi lại đổi phương châm. Trong điều lệ đầu tiên của lệnh phóng trục (đuổi) các bateren (từ tiếng Bồ padre có nghĩa là “các cha cố”), ông cho rằng “Nhật Bản là đất nước của chư thần, nay nếu đi theo tà giáo của các nước Ki-tô thì kỳ cục quá thể”. Như thế, các giáo sĩ ngoại quốc bị ông bắt buộc đi ra khỏi nước và việc truyền giáo triệt để cấm chỉ.Nhưng ngược lại, ông vẫn bảo vệ và khuyến khích mậu dịch Nam Man thành thử thái độ của ông hãy còn có điểm mơ hồ. Ông vẫn bảo vệ các phú thương vùng Kyôto, Sakai, Nagasaki, Hakata ...khi họ chở hàng đi buôn bán trong vùng Đông Á và giao thương với người ngoại quốc trong phạm vi Nam Man mậu dịch. Vì vậy mà dù có lệnh cấm, đạo Ki-tô sau đó vẫn được truyền bá rộng rãi. Cho đến thời Mạc Phủ Tôkyô, chính sách đối ngoại nhập nhằng này vẫn tiếp diễn và tạo nên vấn đề.

Tượng Nụy khấu
Thứ đến, từ năm 1588 (Tenshô 16), Hideyoshi đã phát lệnh Kaizoku torishimari-rei (Lệnh xử lý hải tặc) cấm đoán các hành vi cướp bóc của Wakô (Nụy khấu) nhằm kiểm soát hải phận triệt để. Đó một phần cũng bởi vì từ hậu bán thế kỷ 16, tình hình giao thông đã xấu đi, các thế lực truyền thống vùng Đông Á bắt đầu là nhà Minh bên Trung Quốc không còn đủ mạnh để giữ gìn trật tự trên mặt biển nữa.
Khi đã thống nhất toàn quốc, Hideyoshi thừa cơ nhà Minh suy yếu, mưu đồ lập một trật tự mới ở vùng biển Đông mà Nhật Bản sẽ đóng vai trò chủ chốt. Nếu dùng chữ văn vẻ bóng bẩy một chút thì nó là “trật tự hoa di kiểu Nhật”. Lúc đó, Nhật Bản đóng vai “hoa” thay cho Trung Quốc và các nước chung quanh (“di”) sẽ phải phục tùng nó. Nói cách khác, Nhật Bản sẽ trở thành “trung” tâm thay cho Trung Quốc của nhà Minh. Cụ thể là Nhật Bản đòi chính quyền các vùng như Goa của Bồ Đào Nha, Manilla của Tây Ban Nha, Cao Sơn Quốc của Đài Loan phục tùng và triều cống mình. Bởi vì tư thế mà Nhật Bản của Hideyoshi mong đợi là mình sẽ thay mặt hoàng đế Trung Quốc bắt mọi người phải vào chầu.
Tinh thần dân tộc quá khích đó rốt cục dẫn đến những hậu quả bi đát. Để thực hiện giấc mộng bá quyền, Nhật Bản đã hai lần xuất quân xâm lấn đất nước Triều Tiên. Sử Nhật gọi đó là Chiến dịch năm Bunroku (Bunroku no eki, 1592, năm Văn Lộc nguyên niên) và Chiến dịch năm Keichô (Keichô no eki, 1597, Khánh Trường thứ 2).
Năm Bunroku, trong đợt tiến quân lần thứ nhất, Hideyoshi đặt mục tiêu tấn công nhà Minh. Vào năm 1587 (Tenshô 15), sau khi Triều Tiên từ chối đóng vai trò “tiên phong” đi đánh nhà Minh, sự cố đã bộc phát. Trước tiên, Hideyoshi qua trung gian của họ Sô (Tông) cai trị đảo Tsushima (Đối Mã, nằm trên đường đi) bắn tin nhờ Triều Tiên nhưng bị Triều Tiên từ khước. Lúc ấy, Hideyoshi bắt đầu chuẩn bị chiến tranh bằng cách mở hành doanh tại thị trấn Nagoya (Danh Hộ Ốc) trong vùng Hizen (Phì Tiền, tên cũ của Saga-Nagasaki) trên đảo Kyuushuu.Xin đừng nhầm với thị trấn Nagoya (Danh Cổ Ốc) ở vùng Aichi trên đảo Honshuu. Thế rồi bước qua năm 1592 (Văn Lộc, Bunroku nguyên niên), đạo quân trên 15 vạn của Hideyoshi đã vượt biển sang đánh Triều Tiên. Sau khi đổ bộ lên Pusan (hay Busan, Phủ Sơn) ở cực nam, đại quân của Hideyoshi đã sử dụng súng hỏa mai là vũ khí tối tân thời ấy để chiếm thượng phong và chẳng bao lâu đã hạ được Seoul (lúc đó mang tên Hanseong, Hán Thành) rồi đến lượt Pyongyang (Bình Nhưỡng).
.jpg)
Mô hình Qui giáp thuyền (Geobukseon)
Thế nhưng thủy quân Triều Tiên dưới sự chỉ đạo của danh tướng I Sun-Sin (Lý Thuấn Thần) đã chiến đấu dũng cảm[4]. Người ta vẫn còn nhắc đến chiến thuật của ông sử dụng các geobukseon hay “qui giáp thuyền” là các thuyền hình mu rùa có vỏ bọc kim loại rất chắc chắn để chống các đợt xung kích cận chiến và hỏa pháo của quân Nhật. Nghĩa binh của Triều Tiên cũng tham chiến với sự chi viện của quân Minh do tướng Lý Như Tùng thống suất. Quân Nhật vì đường vận lương bị gián đoạn nên dần dần bị du vào thế bất lợi. Rốt cuôc, Nhật phải tính chuyện giảng hòa với nhà Minh. Lúc thương lượng thì người trách nhiệm phía Nhật là tướng Konishi Yukinaga (Tiểu Tây Hành Trường, ? -1600) và phía Triều Tiên là Thẩm Duy Kính. Thế nhưng điều kiện giảng hòa giữa Hideyoshi và phía nhà Minh quá khác xa cho nên hiệp ước không đươc ký kết. Lý do là Hideyoshi đòi 1) quân Minh phải hàng phục, 2) phải nhượng phần đất phía nam Triều Tiên cho Nhật. Thế nhưng hai bên ăn nói qua lại mù mờ làm sao mà sinh ra sự hiểu lầm, khiến cho vào năm 1596 (Khánh Trường, Keichô nguyên niên), khi nhà Minh gửi sứ sang Nhật thì chỉ đề cập với Hideyoshi “Nay phong ngươi làm Nhật Bản quốc vương” với ngụ ý cho phép Nhật được... triều cống.
Kết quả là cuộc thương thuyết Minh - Nhật hoàn toàn đổ vỡ.Năm 1597 (Keichô 2), Hideyoshi một lần nữa lại gửi hơn 14 vạn quân sang đánh Triều Tiên. Đó là Chiến dịch năm Keichô (Keichô no eki). Tuy nhiên lần này vừa mới tiến binh, quân Nhật đã bị Triều Tiên đón đánh và cầm chân. Sang năm sau, khi có tin Hideyoshi chết thì toàn thể binh đoàn bắt buộc phải triệt thoái.
Hai cuộc xuất quân xảy ra trong vòng 7 năm. Nhật Bản đã kéo nước Triều Tiên vào vòng khói lửa và gây nhiều tang tóc.Trong khi đó, tại quốc nội, hai cuộc xâm lấn nước người đã gây nên cảnh khổ cho cả thường dân Nhật Bản vì họ phải chịu một gánh nặng khủng khiếp về tài lực và nhân lực. Dĩ nhiên đó cũng là nguyên nhân xa sự suy vong của chính quyền Hideyoshi.
Giấc mộng cuồng chinh của Hideyoshi, người khổng lồ có bàn chân đất sét.[5]
Hideyoshi cũng như Nobunaga, là một người anh hùng do thời thế tạo nên. Cha của ông tên Kinoshita Yaemon, một nông dân tầm thường ở Owari (Aichi, nay là vùng Nagoya). Tên cúng cơm của ông là Hiyoshimaru và còn mang thêm hỗn danh là Saru (Con khỉ) có lẽ vì tướng nguời loắt choắt. Năm 16 tuổi, bỏ nhà ra đi, buôn bán dạo lăng nhăng trước khi vác súng tùng quân trong pháo đội của Oda Nobunaga. Nhờ thông minh, can đảm và có nhiều sáng kiến về chiến lược chiến thuật, ông được chủ vốn không tỵ hiềm giai cấp, yêu mến đến độ cất nhắc lên hàng đại tướng. Sau khi Nobunaga chết, ông nắm lấy thời cơ, loại hết địch thủ, lãnh đạo tập đoàn chiến đấu của chủ rồi vào triều đình lãnh chức công khanh, danh dự mà trước đó chỉ có các quí tộc Nguyên Bình Đằng Quất (Minamoto, Taira, Fujiwara, Tachibana) mới đạt được. Có thể ông sẽ hoàn thành được giấc mộng thống nhất đất nước của chủ quân (Nobunaga) nếu không phạm lỗi lầm tai hại là 2 lần xuất quân tiến đánh Triều Tiên. Thất bại ở hải ngoại đã làm tiêu hao lực lượng quân sự và làm băng hoại tổ chức chính trị ông dày công gầy dựng, mở đường đi đến vinh quang cho con người khôn ngoan, biết dưỡng sức đợi thời là Tokugawa Ieyasu.
Lúc đó, trong tâm trí Hideyoshi, bán đảo Triều Tiên chỉ là cái bàn đạp để ông tiến đánh và chinh phục Kara (Đường tức Trung Quốc) và Tenjiku (Thiên Trúc tức Ấn Độ). Ông đã mơ đến việc dựng quốc đô Bắc Kinh và đặt Thiên hoàng ở đấy, còn ông sẽ mở phủ ở đô thị hải cảng Ninh Ba và từ nơi đó, hiệu lệnh cả đại lục. Trong hai lần xâm lược, quân Nhật đã có những hành động tàn ác như cắt mũi xẽo tai địch quân bỏ vào thạp để muối (shiodzuke) đổi lấy tấm giấy báo công (con số giấy lên đến 10 vạn tấm) khiến cho người Triều Tiên đến nay vẫn còn mang mối hận lòng sâu sắc. Để chuộc lỗi, về sau người Nhật đã cho thu thập tất cả những gì còn lại và đắp một cái gò gọi là Mimidzuka (Nhĩ trũng) gần chùa Hôkôji (Phương Quảng Tự) ở khu Higashiyama ( Kyôto) để cúng tế vong linh các nạn nhân. Trong Bunmeiron no gairyaku (Văn minh luận chi khái lược, 1875), nhà tư tưởng thời Duy Tân, Fukuzawa Yuukichi (1834-1901) đã phê bình rằng, Hideyoshi (trong sách gọi là Fujikichi, một cái tên khác của ông ta) tuy làm quan đến chức Tể Tướng đầu triều nhưng rốt cuộc vẫn mang bản chất của một anh nông dân hãnh tiến xứ Owari, mà địa vị cao sang không sao thay đổi được tính tình.
Từ khi có hai cuộc tấn công của Hideyoshi, “Chinh Hàn luận” trở thành một chủ đề bàn cãi sôi nổi trong giới chính trị Nhật Bản suốt thời Meiji. Kết quả là phái chủ chiến đã thắng và họ thành công trong việc thôn tính đất nước Triều Tiên vào năm 1910.
Cuối cùng, để quên bớt đi chuyện chiến tranh và khổ não, chương này xin khép lại bằng một nét đặc sắc của văn hóa Momoyama (Đào sơn), ám chỉ thời kỳ Hideyoshi cai trị nước Nhật. Một cận thần của Hideyoshi (sau này sẽ chết dưới bàn tay hiếu sát của ông) là trà sư và nhà văn hóa Sen no Rikyuu (Thiên Lợi Hưu). Rikyuu đã tập đại thành văn hóa thưởng thức trà (Cha no yu = Trà thang), quảng bá nó trong dân chúng để ngày nay được cả thế giới biết đến. Về việc chế tạo những đồ dùng trong nghi lễ trà đạo (chadô, sadô) này, phải kể đến những vật dụng gọi là chaki (trà khí), đôi khi là những thứ gốm sứ đã được các nghệ nhân thủ công (tôkô = đào công) Triều Tiên bị Hideyoshi bắt làm tù binh mang về thực hiện được. Ngày nay đồ sứ vùng Satsuma (Satsumayaki) nổi tiếng ở Kyuushuu đã phát xuất từ đó. Cũng phải kể đến kỹ thuật in ấn phát triển rất sớm trên bán đảo đã theo con đường triệt thoái để đến Nhật. Không ai muốn làm chuyện quấy là đi biện hộ cho chiến tranh nhưng trong cái xấu có khi nảy ra đôi điều tốt đẹp. Phải chăng đó là sự oái oăm của lịch sử?
Những nét đặc trưng của văn hóa Momoyama (Đào Sơn)[6]
(hậu bán thế kỷ 16, dưới thời Nobunaga và Hideyoshi)
Tổng quát
|
-Màu sắc Phật giáo nhòa nhạt dần, thay vào đó là sự tươi tắn, tráng lệ, nguy nga.
-Được bồi đắp bởi sự góp mặt của các lãnh chúa mới nổi lên và những phú thương giàu có.
-Tiếp thu ảnh hưởng của Văn hóa Nam Man (Tây-Bồ)
|
Kiến trúc
|
-Trà thất ở Myôkian (Diệu Hỷ Am) do Sen no Rikyuu cất theo lệnh Hideyoshi.
-Cánh cửa Karamon (Đường môn) ở chùa Daitokuji (Đại Đức Tự).
-Hiunkaku (Phi vân các) ở Nishi Honganji (Tây Bản Nguyện Tự).
-Bản điện đền thần Tsukubusama (trong quần thể di tích thành Fushimi).
-Kô no ma, căn phòng thuộc di tích thư viện của chùa Nishi Honganji.
-Viên đình và thư viện Sabbôin (Tam Bảo Viện) chùa Daigoji (Đề Hồ Tự).
-Thành Himeji, thành Inuyama,sơn thành Bicchuu Matsuyama, vọng lâu thành Matsumoto, điện Marugoden thành Nijô.Các sơn thành (yamashiro) mang đậm màu sắc quân sự sẽ nhường chỗ cho các thành mặt bằng (hirayamajirô, hirajirô) có tính cách chính trị và kinh tế.
|
Hội họa
|
-Bức tranh bình phong Rakuchuu rakugaizu (Kanô Eitoku vẽ) miêu tả phong cảnh Kyôto.
-Shôyôzu hay Tùng ưng đồ (Tranh tùng và chim ưng) (Kanô Sanraku vẽ)
-Bình phong Hinokizu (Cây bách Nhật Bản9 (Kanô Eitoku vẽ).
-Tranh hoa anh đào và tranh rừng tùng (Hasegawa Kyuuzô vẽ).
-Tranh rừng phong ở Takao (Kanô Hideyori vẽ)
-Tranh sư tử Trung Quốc (Karajishi) (Kanô Eitoku vẽ)
-Tranh hoa mẫu đơn (Kanô Sanraku vẽ)
-Tranh bình phong sơn thủy (Kaihô Yuushô vẽ)
-Tranh chơi đùa dưới bóng tùng (Kanô Naganobu vẽ)
-Bình phong Nam Man vẽ cảnh tiếp đón các nhà truyền giáo và nhà buôn ngoại quốc (các họa sư phái Kanô vẽ theo thủ pháp sơn dầu và đồng bản họa được du nhập vào Nhật).
|
Thủ công
|
-Tranh sơn (makie) ở Kôdaiji (Cao Đài Tự). Kita Mandokoro (Chính thất của Hideyoshi rất yêu chuộng).
|
Trà đạo
|
-Trà sư Sen no Rikyuu hoàn thành trà đạo theo lối Wabicha.
|
Sân khấu
|
-Kabuki bắt đầu với các trò nhảy nhót Okuni Kabuki đến từ vùng Izumo..
-Sân khấu múa rối búp bê Jôruri và đàn ba giây Samisen..
-Lối hát Ryuutats-bushi (Long Đạt tiết) do Takasabu Ryuutatsu chủ xướng.
|
Phong tục
|
-Kiểu áo mát ống tay nhỏ kosode (tiểu tụ) trở thành thông dụng.
-Tập quán ăn 1, 2 bữa của thường dân trở thành 3 bữa một ngày.
|
Cái chết của một trà sư[7]
Sen no Rikyuu (Thiên, Lợi Hưu) sinh năm 1522 trong một gia đình buôn cá bán sỉ có của ở thị trấn Sakai, tên hồi nhỏ là Yôshirô sau đổi thành Sôeki (Tông Dịch). Giữa thời Sengoku chiến loạn, riêng thành phố Sakai vẫn hưởng hòa bình, phồn thịnh nhờ thương nghiệp và có một nền văn hoá cao. Dạo đó, trong giới phú thương, người ta rất yêu chuộng nghệ thuật uống trà. Ở vào một hoàn cảnh như thế, trước tiên, Rikyuu đã nhập môn trà sư danh tiếng đương thời là Kutamuki Dôchin (Bắc Hướng Đạo Trần). Nơi vị thày này, ông học lối uống trà kiểu Shôin daisu (Thư viện đài tử) tức uống trà trong một không gian tiếp khách (shôin) có cái giá (daisu) để đặt các loại trà cụ thường là đồ ngoại nghĩa là đến từ Trung Quốc. Uống trà kiểu thư viện là đã thanh cao hơn một bực so với loại trò chơi như đấu trà trước đó. Thế nhưng, Rikyuu tìm cách tiến xa hơn khi học Wabicha với Murata Shuukô (Điền Thôn, Chu Quang) và Takeno Jôô (Vũ Dã Thiệu Âu). Wabicha sử dụng một không gian gọn ghẽ, nhỏ bé với không khí giản dị, đạm bạc của Thiền tông, sử dụng các trà cụ đơn sơ sản xuất trong nước.
Học giả Nitobe Inazo (1862-1933) [8] đã viết như sau: “Một ẩn sĩ thiền tông (Sen no Rikyuu) đã nghiên cứu và tạo ra cách thức cho nghệ thuật uống trà trong thời mà chiến tranh và những lời đồn đại về chiến tranh xảy ra không ngớt.Sự thật ấy đủ để chứng tỏ rằng nghệ thuật trà không phải chỉ để tiêu khiển.Trước khi bước vào không gian yên tĩnh quanh phòng uống trà, những người sẽ ngồi sắp hàng trong tiệc trà phải tháo bỏ qua bên những thanh kiếm họ mang theo, cùng với việc đó, họ cũng sẽ dứt bỏ tính hung bạo trên chiến trường, trò hèn mọn trong chính trị, để tìm tình bằng hữu và sự hòa bình ở nơi uống trà này”.
.jpg)
Trà sư Sen no Rikyuu
Rikyuu cùng hai người đàn anh ở Sakai là Tsuda Sôkyuu (Tân Điền Tông Cập) và Imai Sôkyuu (Kim Tỉnh Tông Cửu) cùng phục vụ dưới trướng Nobunaga. Sau khi Nobunaga mất, ông được sự tri ngộ của Hideyoshi và được xem như người tâm phúc nên chẳng bao lâu địa vị ông vượt trội hai bậc đàn anh. Ông đã có vinh dự tham dự những chakai (trà hội) do Hideyoshi tổ chức trong cung để hiến trà cho Thiên hoàng Ôgimachi, nhân đó lại được ban tặng danh hiệu Rikyuu koji (Lợi Hưu cư sĩ). Với lòng ưu ái của chủ quân và tài năng của ông, phong trào Cha no yu (Trà thang) phát triển mạnh đến mức độ chưa từng có. Ông trở thành bậc thầy trên đời về trà (Tenka no chashô). Độ tin cậy của Hideyoshi với ông rất lớn, ông luôn luôn được ở hầu bên cạnh chủ chẳng khác chi người em của Tể tướng là Hidenaga (Tú Trường).
Thế nhưng đùng một cái, năm 1571, chẳng hiểu vì duyên cớ gì rõ rệt, Hideyoshi ra lệnh cho Sen no Rikyuu phải mổ bụng tự tử tại nhà ở Kyôto. Ông hưởng thọ 70 tuổi. Bên ngoài thì người ta cho rằng sở dĩ ông bị quở trách là vì đã có những hành vi thiếu khiêm tốn khi cho tạc tượng của mình và chưng nó ở chùa Daitokuji cũng như đem các món trà cụ bán với giá cao. Thế nhưng bên trong có thuyết cho rằng lý do là vì Sen no Rikyuu đã tỏ ra khinh bĩ cái thú uống trà quá rởm, thiếu trí thức của chủ quân Hideyoshi với cách kiến tạo một trà đình thếp vàng và dùng trà khí bằng vàng (ôgon no chashitsu = hoàng kim trà thất). Hoặc giả vì ông đã dại dột từ khước vinh dự khi con gái mình được nạp vào hậu cung của Tể tướng. Lại có người nói là trong khi Hideyoshi dành ưu tiên Hakata (cứ điểm xuất quân đánh Triều Tiên) thì ông vẫn đứng về phía Sakai trong cuộc xung đột giữa hai thành phố buôn bán này. Ông cũng có thể đã bị Ishida Mitsunari, một bầy tôi có thế lực của Hideyoshi, sàm báng vì tranh giành quyền hành, trong lúc người hiểu ông nhiều hơn cả, Hidenaga,em trai Hideyoshi, đột nhiên mất sớm.
Dù sao, hiện nay, trong dự luận Nhật Bản, người ta vẫn có khuynh hướng đánh giá Sen no Rikyuu như một nhà trí thức bất khuất, dám hy sinh tính mệnh để bảo vệ nhân cách của mình trong cuộc đối đầu với quyền lực mà tượng trưng là Hideyoshi. Cái chết của trà sư cũng đánh dấu sự chung cuộc của phong trào “hạ khắc thượng” khi một người xuất thân từ tầng lớp thương nhân đã phải ngã gục trước quyền lực chính trị.
[1] Trong tiếng Hán, cáp còn có thể đọc là hạp với nghĩa là cánh cửa nhưng cũng đồng nghĩa với chữ các là gác. Nói chung nó ám chỉ nơi cư ngụ của một nhân vật đóng vai trò quan trọng.
[2] “Độ lượng” đọc theo âm Hán Việt là “đo lường”, còn “hành” cũng là đo nhưng đo sức nặng.
[3] Toyotomi Hidetsugu là cháu gọi Hideyoshi bằng cậu ruột. Trước được cậu sủng ái, giao cho nhiều trách vụ quan trọng như Kanpaku (Quan bạch) và dự định chọn làm kẻ nối nghiệp. Khi Hideyori là con ruột ra đời, Hideyoshi lại đổi ý . Từ đó, có ý nghi ngờ và ghét bỏ.Chẳng bao lâu, Hidetsugu bị cậu mình kết tội mưu phản, bắt tự sát trên núi Kôyasan. Toàn gia hơn 30 người đều bị tru diệt.
[4] Tướng I Sun Sin đã tử trận trong trận hải chiến quyết định cuối cùng mà quân Triều Tiên dành được thắng lợi.
[5] Nguồn: Suzuki Ryôichi trong Toyotomi Hideyoshi (Iwanami Shinsho) Wakita Ôsamu trong Ôsakajô jidai to Hideyoshi (Shôgakukan).
[6] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 141 đến 144)
[7] Nguồn: Kuwata Tadachika trong Sen no Rikyu u (Chuô Kôron) và Kumakura Hisao trong Cha no Yu (Kyôikusha Rekishi Shinsho)
[8] Nitobe Inazo, Bushidô (Võ Sĩ Đạo, linh hồn củaq Nhật Bản), Lê Ngọc Thảo dịch, Quảng Văn, 2011.