Và có nhiều trường hợp khi chúng tôi tìm đến nơi thì sách đã bị thanh lý hoặc tác phẩm được giữ trong khu vực hạn chế, gây không ít khó khăn cho việc tiếp cận văn bản tác phẩm. Ví dụ như: Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện tỉnh Bình Định, Thư viện Hà Nội, Thư viện Khoa học Xã hội (Hà Nội).
Nhưng với những văn bản ít ỏi tìm được, chúng tôi cũng xin đính chính lại nhiều thông tin sai lệch về các tác phẩm của Đinh Hùng và nêu ra một số vấn đề còn khúc mắt để những người quan tâm, những người đi sau có thể giải quyết hoặc đơn giản là có thêm một hướng tiếp cận, một hướng nghiên cứu. Ví dụ:
_Quyển Bình thơ từ 100 bài thơ hay nhất thế kỉ XX (tập 1) do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành vào năm 2008 đã cho rằng hai tác phẩm Ngày đó có em…, Đốt lò hương cũ là hai tập thơ và không nhắc đến Tiếng ca bộ lạc [62, tr. 188].
_Thế Phong trong Lược sử văn nghệ Việt Nam cũng cho Ngày đó có em… là một tập thơ [78].
_Tập Mê hồn ca do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 1995 đã cho Ngày đó có em… và Đốt lò hương cũ là hai tập thơ [13].
Điều này cho thấy những thông tin về tác phẩm của Đinh Hùng hiện nay vẫn còn nhiều sai sót và đòi hỏi được sửa chữa, bổ sung cho chính xác.
Ngoài ra, cũng trong khi tìm văn bản các tác phẩm của Đinh Hùng, chúng tôi phát hiện được trường hợp của tác phẩm Đám ma tôi, tác phẩm mà đến hiện nay vẫn chưa thể xác định rõ ràng về thể loại.
Vũ Hoàng Chương [32] và tác giả của Việt Nam thi nhân tiền chiến Nguyễn Tấn Long cho đó là một “tập văn xuôi” [72, tr.738], Đặng Tiến thì cho đó là “một tập truyện”[105, tr. 379],... còn Mai Thảo thì bảo đó là “một tập thơ văn xuôi” trong bài Lá thư chữ đỏ [96].
Tác giả Mai Thảo đã viết: “Vẫn trong lá thư chữ đỏ kia, Đinh Hùng đã nói rất nhiều, rất trang nghiêm đến tập Đám ma tôi, đến bó đuốc dẫn đường thi ca tiền chiến đã chuyển tay từ lãng mạn tới tượng trưng, đến một tập thơ văn xuôi khác – tập Vàng sao của Chế Lan Viên – cùng với Đám ma tôi, và theo Đinh Hùng, là hai tập sách tiêu biểu chót vót và nguy nga nhất của thơ Việt Nam, từ Thế Lữ. Nhận định này, tôi thấy là đúng nếu không hoàn toàn thì cũng đúng một phần. Vàng sao của Chế Lan Viên, Đám ma tôi của Đinh Hùng, Xuân thu nhã tập của nhóm Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh, Kinh cầu tự của Huy Cận, kết hợp thành bản tuyên ngôn lớn tiếng cuối cùng của dòng thơ tiền chiến” [96]. Cần nói thêm là bức thư chữ đó ấy, theo Mai Thảo, là bức thư mà Đinh Hùng đã gửi cho Huyền Kiêu và Mai Thảo đã được cho xem. Như vậy, phải chăng Đinh Hùng đã “xem” Đám ma tôi là một tập thơ văn xuôi?
Ban đầu, chúng tôi cũng ngả về khả năng này vì những lí do sau:
Thứ nhất, trước năm 1941, Đinh Hùng đã là một nhà thơ có tiếng trên thi đàn. Do vậy, nếu tác phẩm đầu tay được xuất bản của ông là thơ thì sẽ vô cùng hợp lí.
Hơn nữa, hầu hết các nhận định đều cho rằng Đám ma tôi là một “tập văn xuôi” dựa theo lời của Vũ Hoàng Chương và điều này không mâu thuẫn với những gì Mai Thảo đã viết. Tuy nhiên, theo lời người nhà cố thi sĩ Đinh Hùng thì Vũ Hoàng Chương chưa được đọc tác phẩm này. Như thế, nhận định của nhà thơ say rất đáng để chúng ta hoài nghi.
Một lí do khác là vào lúc bấy giờ đã có sự xuất hiện của thể loại thơ văn xuôi (prose poem). Và theo khảo sát của chúng tôi, hầu hết những thi sĩ chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đều đã từng làm thơ văn xuôi. Vậy thì Đinh Hùng có là ngoại lệ trong việc kiếm tìm một thể loại có thể giải phóng tối đa tính nhạc và tăng sức ám gợi cho câu thơ như thơ văn xuôi (prose poem) không? Hãy cùng chúng tôi điểm qua một vài tác giả và tác phẩm đương thời. Trước hết là Hàn Mặc Tử với Chơi giữa mùa trăng:
Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kì ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả…Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động. Nghĩa là trăng rằm trung thu: một đêm siêu hình, vô lượng, tượng trưng của một mùa ao ước xây bằng châu lệ, làm bằng chia ly, và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái lạc chê chán…Phải không chàng Ngâu và ả Chức?
Đây là Đất thơm của Nguyễn Xuân Sanh:
Mỗi ngày, chưa sáng, thợ gặt đẩy nhau đi, trên vai giấc mộng thơm vàng chảy tuôn như suối nắng. Con chim cũng còn trông đến ngày mùa, người ta nhắc nhau đi tìm ngọc. Đi tìm niềm vui trên đất.
Đây là Vàng sao nằm trong tập thơ cùng tên của Chế Lan Viên:
Một niềm quí trọng, đúng như mắt thấy, ta xem trên kia là một cõi trời vàng. Những khối kim chất tinh ròng, mang những đời sống hiểm nghèo, quay lộn trong muôn vàn khinh thanh ác độc. Của những đất Cao Miên, của những trời Ấn Độ, của những đêm khuya trên nước cũ Chiêm Thành, chúng có tính chất làm khô hồn ráo máu như vôi và run rẩy thịt da ta như bịnh sốt rét. Vàng! Vàng tất cả, thu khép nên đá sắt cứng cỏi hung tàn vì không chịu cảm thông. Cái đầu tròn, cặp kính tròn, quen ở quả đất tròn, chỉ những nhà thông thái mới tin rằng muôn sao tròn và bằng…đất! Tài năng tầm thường cằn cỗi ngay đi một khi lạc vào xa lạ, chỉ những nhà thơ không không gian vì gãy cánh mới tin rằng trên kia có quần chúng, có…người! Lầm! Muôn sao đẹp một cái đẹp…giết người. Cái đẹp bao giờ cũng phải giết…người. Không lễ sống, không Hy Sinh, sao thông cảm với thần minh? Giết chóc đi, hy sinh đi rồi thần minh sẽ đến. Đá trần gian trong một cái đá nhào, giăng linh hồn bão táp bay lên, ta đêm nay chịu đựng cho muôn sao tàn ác.
Hay như Yến Lan với Trinh bạch…
Và quan trọng hơn cả chính là những câu thơ của Đinh Hùng. Ta hãy cùng đến với đoạn thơ được chúng tôi trích ra từ bài Cảm thu nằm trong Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài) [67] do hai tác giả Nguyễn Văn Hoa và Nguyễn Ngọc Thiện biên soạn:
…Từ hôm rời chân ở bến sông vắng, từ biệt con thuyền phiêu bạt, tôi đã hết nhớ những dãy núi xanh phơn phớt đằng xa và bâng khuâng trở lại con đường quê thân mật.
Đi trên đất đỏ, giữa hai ruộng ngô thơm ngào ngạt... Hương này có phải hương xưa? Ồ! những giây đậu vẫn còn non mà luống khoai lang đã xanh tươi rồi nhỉ?
Đi trên đất đỏ, bên những đồng rau cải cúc và dẫm lên cỏ may vàng. Đây là những con bướm cũ, những cánh hoa xưa. Và này đây tất cả ngày xưa: từng cơn gió nhỏ, từng sợi mây buồn…
Thôi! thôi! Tôi không còn trẻ thơ nữa để say sưa đuổi bắt bướm đồng, và chẳng ngắm gió, sầu mây, chỉ biết hoa lòng nở cũng nhiều bông trắng!
Bài thơ được viết vào năm 1940, tức là trước khi Đám ma tôi được xuất bản. Chính điều này đã cũng cố thêm cho niềm tin của chúng tôi. Tuy nhiên mọi chuyện chỉ sáng tỏ nếu chúng ta có thể tiếp cận được tác phẩm.
Rồi cuối cùng thì trong lúc sắp hoàn thành luận văn này, người viết đã may mắn tìm được tác phẩm đầu tay của Hoài Điệp. Và đến bây giờ, chúng tôi đã có thể khẳng định Đám ma tôi đích thực là một tác phẩm thơ văn xuôi.
Ta hãy đọc những dòng chữ sau của chính tác giả:
Tôi nói bằng thơ, bằng những lời thơ cánh bướm toàn những ý say chan chứa một ngàn mến thương, định gởi sang lòng em tôi bé nhỏ, lòng người con gái yêu quí muôn vàn…nhưng lại đem đọc cho lòng mình nghe. Trước khi chết đi, cái lời hấp hối của tôi, tôi chỉ muốn là một tiếng: Em ơi, hay là một tiếng nói nhỏ của lòng không cho ai rõ.
Còn đây là những dòng tâm sự của ông ở phần cuối quyển sách:
Kể câu chuyện “đám ma tôi” tôi không làm người sống để nói đến cái chết, mà chỉ muốn làm người chết để nói đến từng những đời sống rải rác ở đây, ở đó, từng những cuộc đời chiêm bao! Tôi làm nên một bài thơ chia ly để thấy lòng mình đơn chiếc. Tôi vẽ phác bóng một rừng người qua mắt để trông, nhìn vài cảnh tượng hay hay… Tôi sống trước để mà cảm trước, tôi chết từ khi đang sống để hiểu thêm ý nghĩa đời nầy.
Dầu vậy, yếu tố quyết định đến thể loại của tác phẩm hẳn nhiên vẫn là chính những câu thơ của Đinh Hùng.
Theo chúng tôi, sự khác nhau giữa thơ và văn xuôi là ở nhịp điệu: nếu tác phẩm có nhịp tuyến tính thì nó là văn xuôi; còn nếu tác phẩm có nhịp luân vũ thì là thơ. Song, việc phân biệt này chỉ là tương đối bởi vì trong nhiều trường hợp rất khó phân biệt tác phẩm nào là thơ văn xuôi (prose poem) và tác phẩm nào là văn xuôi thơ (poetic prose). Ở Việt Nam, ta có thể thấy “văn xuôi thơ” (văn xuôi đầy chất thơ) ở Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng…
Từ điển thuật ngữ văn học viết rằng: thơ văn xuôi là “một hình thức cơ bản của thơ được viết bằng văn xuôi. Thơ văn xuôi khác thơ tự do ở chỗ không phân dòng, không dùng hình thức dòng thơ (cũng gọi là câu thơ) làm nhịp điệu, không có vần. Chất thơ của văn xuôi được tạo nên bởi cấu tứ và suy tưởng giàu chất khêu gợi, bất ngờ, chất triết lí thâm thuý, mơ mộng” [64,tr.319]. Còn tác giả Hữu Đạt, trong cuốn Ngôn ngữ thơ Việt Nam, từ góc độ ngôn ngữ học, đã nhận định: “Đứng trên phương diện ngôn ngữ thì thơ văn xuôi là đỉnh cao nhất của thơ tự do. Về hình thức câu nó có dáng dấp gần gũi với một câu văn xuôi, nhưng lại khác văn xuôi ở chỗ mang nhiều hình ảnh, nhiều chất thơ và được hình thành do cảm xúc trực tiếp của nhà thơ. Còn câu văn xuôi thường nặng về cách đánh giá, cách nhận định có lí trí. So với các thể thơ trước nó, thơ văn xuôi có nhiều ưu điểm là diễn tả được cùng một lúc những cảm xúc trùng điệp, những hình ảnh, những ý thơ liên tiếp. Do đó trong một câu thơ văn xuôi, người ta thường thấy bề bộn những sự kiện, những hình ảnh, những cảm xúc có khi lồng vào nhau hoặc đan chéo vào nhau” [68, tr.132].
Ta hãy cùng đọc những câu thơ sau:
Trừ những “người bạn thân nhất đời” kia lại còn nhiều bạn khác cũng thân nhất đời chẳng kém. Họ đi sau cùng, làm những bậc hiền triết ít nói ít cười, nhưng nghĩ ngợi bao la…
Có người nghĩ đến bữa cơm trưa sắp đợi ở nhà với những món gi ngon ngon…
Có người nghĩ đến đoạn đường xa xôi ra tận nghĩa địa và hơi lấy làm lo ngại cho gót giầy của mình…
Có người nghĩ đến cái nầy, cái nọ, nhưng chắc không tư tưởng nào xây dựng ở trên cái chết của tôi…
Hay:
Tiết mùa đông năm nay giá lạnh dần dần, ở trong nghĩa địa đã có con chim nào về kêu gọi những tiếng tha hương? Cây thông liễu ngày ngày thương cảm nhiều hơn mấy ngọn cỏ xanh đã thấy ngậm sầu một nửa.
Trên nấm mồ tôi, hoa trắng bắt đầu ủ dột…
Ngày đi…
Ngày đi…
Bây giờ chiều đông lạnh ngắt những làn sương bạc.
Thêm nữa:
Chao ôi! Linh hồn của tôi bây giờ đi ở phương nào? Vui làm chi nhiều non nước lạ! Linh hồn của tôi! Linh hồn của tôi! Sao không một ngày trở lại thăm tôi đi! Khóc tôi đi! Cỏ xanh đã mọc lên trên mộ tôi rồi đấy!
Chao ôi! Linh hồn của tôi còn nỡ bỏ tôi, còn dám trách gì những ai phai nhạt!
Đến đây, thiết nghĩ trước khi có thể khẳng định Đám ma tôi là một tác phẩm được viết theo thể thơ văn xuôi, chúng tôi cần xoá tan đi sự hoài nghi: nó là một bài trường ca chứ không phải là một bài thơ văn xuôi vì độ dài lên đến hơn bảy mươi trang sách.
Như chúng ta đã biết, trường ca là một “thuật ngữ chỉ tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình” [64,tr. 376]. Tuy nhiên, sang thế kỉ XX, trường ca lại “phát triển theo hướng trữ tình, tâm lý, triết lý; yếu tố cốt truyện giảm xuống; các xúc cảm riêng tư thường được đặt trong liên hệ với những chấn động lịch sử lớn”[65, tr.1867]. Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn “từ những quan sát của chính mình” đã nhận định thế này trong bài viết Thanh Thảo với trường ca: “…Tôi thấy khi thơ trữ tình muốn trình bày suy cảm về những vận động lớn lao, thậm chí kì vĩ của đời sống bằng một hình thức lớn, khi ấy trường ca xuất hiện. Nói gọn hơn, khi thơ trữ tình muốn chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kì vĩ thì trường ca bắt đầu lên tiếng. Các trường ca hiện đại của ta manh nha từ thời Thơ Mới, lác đác trong cuộc kháng chiến chống Pháp, rộ lên suốt thời chống Mỹ và bội thu sau chống Mỹ, chẳng phải là một bằng chứng sinh động hay sao” [84].
Quay trở lại với tác phẩm đầu tay của Hoài Điệp, ta dễ dàng nhận ra đó là những cảm nhận, những suy tư mang tính cá nhân nhân “cái đám tang của chính mình” để “hiểu thêm ý nghĩa của cuộc đời”; là những lời lẽ chân thành của một tâm hồn cô đơn, của một con người rụt rè vẫn “chờ mong người ta đến kết bạn trước”. Từ đó, ta có thể thấy tác phẩm này không có tham vọng “chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kì vĩ”, cũng không có “các xúc cảm cá nhân gắn với các chấn động lịch sử lớn lao” [64, tr.376]. Như thế, không còn nghi ngờ gì nữa, Đám ma tôi đích thực là một bài thơ văn xuôi, một bài thơ có độ dài lớn đến mức khiến nó trở thành một trường hợp hy hữu trong nền văn học nước nhà.
Qua trên, người viết đã cố gắng chứng minh, đính chính lại một số thông tin sai lệch về các tác phẩm của Đinh Hùng; góp phần khẳng định sự tìm tòi sáng tạo của cố thi sĩ. Và có thể nói rằng, vấn đề văn bản tác phẩm Đinh Hùng là một mảnh đất đầy tiềm năng cần được khai phá, nhất hiện nay vẫn còn nhiều tác phẩm của ông đã được đăng báo nhưng vẫn chưa được xuất bản đang rất cần những ai có khả năng và điều kiện tập hợp lại đầy đủ.
Hy vọng chúng tôi đã góp phần mở đường, mở ra một hướng tiếp cận mới cho những người quan tâm, những người đi sau có thể tìm hiểu, nghiên cứu.
1.4. Vị trí của Đinh Hùng trong dòng chảy thi ca Việt Nam
Có thể khẳng định, Đinh Hùng không chỉ có một vị trí nhất định mà còn nổi bật trên văn đàn lúc bấy giờ.
Thơ ông được nhiều người đọc, nhiều người thuộc. Thơ ông được nhiều diễn viên mang vào vở diễn trên sân khấu. Những bài hát phổ thơ ông như Mộng dưới hoa của Phạm Đình Chương hay do ông viết lời như Chiều tím của nhạc sĩ Đan Thọ… đến tận ngày nay vẫn được đông đảo công chúng yêu thích. Ngay cả sau khi vào Sài Gòn, Đinh Hùng vẫn là một cái tên được nhắc đến nhiều, có sức ảnh hưởng lớn khi ông làm Trưởng Ban Tao Đàn và có nhiều đóng góp cho thi ca nói chung và cho việc trình diễn thơ ca nói riêng.
Và quan trọng hơn cả, có lẽ là những ý kiến đánh giá, nhận xét của đồng nghiệp Đinh Hùng, của những người nghiên cứu – phê bình văn học mà chúng tôi đã nhắc đến ở các phần trên của luận văn.
Nhưng dù được đánh giá cao như thế nhưng Đinh Hùng vẫn không thể vào được mắt xanh của Hoài Thanh – Hoài Chân. Điều này cho đến tận bây giờ vẫn khiến nhiều người cảm thấy khó hiểu và cũng chưa có ai lí giải thấu đáo.
Vì sao Đinh Hùng không có mặt trong Thi nhân Việt Nam?
Câu hỏi này tinh tế đến nỗi dường như câu trả lời nào cũng chưa đủ. Về chủ quan, người viết cho rằng: mĩ cảm của Hoài Thanh là nguyên nhân quan trọng nhất, dù có thể không phải là nguyên nhân duy nhất.
Như chúng ta đã biết, cuốn Thi nhân Việt Nam được xuất bản lần đầu vào năm 1942 trong khi tác phẩm sớm nhất của Đinh Hùng thì được xuất bản vào năm 1943 dù nhiều bài thơ của ông đã được phổ biến trước đó. Câu hỏi đặt ra: Lúc ấy, Hoài Thanh đã biết đến Đinh Hùng chưa?
Chắc chắn là Hoài Thanh đã biết đến Đinh Hùng. Bởi ông đã viết ở Một thời đại trong thi ca:
“Chung quanh đôi bạn Xuân Diệu – Huy Cận có vô số thi sĩ bàn nhì bàn ba: Tế Hanh, Huyền Kiêu, Đinh Hùng, Phan Khắc Khoan, Thu Hồng, Nguyễn Đình Thư, Xuân Tâm, Huy Tân, Huy Chức, Phan Thanh Phước, Nguyễn Đức Chính, Tường Đông…” [94, tr.31].
Trong những thi sĩ “bàn nhì bàn ba” đó không phải ai cũng bị bỏ qua như Đinh Hùng. Bằng chứng là Tế Hanh, Phan Khắc Khoan, Nguyễn Đình Thư vẫn được góp mặt.
Quan tâm đến sự vắng mặt của Đinh Hùng trong Thi nhân Việt Nam, trong cuốn Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy được xuất bản gần đây, Đỗ Lai Thuý đã viết:
“Hạn chế chủ yếu của cái tôi Hoài Thanh, tôi nghĩ, là ở quan niệm thẩm mỹ. (…) Hoài Thanh tuy phóng mắt bao quát cả Một thời đại trong thi ca, nhưng cái lòng riêng, riêng những mến yêu ấy thì vẫn dành cho các nhà lãng mạn. Điều này đã để lại dấu vết ở Thi nhân Việt Nam.”[34, tr.304].
Và thêm nữa, tác giả đã nhận định rằng:
“(…)Lại cũng do thị hiếu thẩm mỹ chỉ dừng lại ở lãng mạn nên Hoài Thanh đã bỏ qua Đinh Hùng, một thi tài lớn. Đinh Hùng lúc ấy, tuy chỉ mới trích in vài bài, nhưng tập thơ tượng trưng Mê hồn ca của ông đã được nhiều người truyền chép. Hơn nữa, chỉ một Bài ca man rợ, Đinh Hùng đã làm nhiều nhà thơ đàn anh như Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương phải bái phục. Còn Bích Khê, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử tuy có được tuyển, nhưng không hợp tạng, nên thái độ của Hoài Thanh vẫn rất nhiều xa cách và e ngại…”[101, tr.305].
Phải chăng “Hoài Thanh là một nhà thơ lãng mạn bị đóng đinh trên cây thánh giá phê bình” [101,.tr.106]?
Hãy xem xét trường hợp một nhà thơ tượng trưng khác là Bích Khê, ta dễ dàng nhận ra những Tỳ bà, những Mộng cầm ca, những Đôi mắt, Hoàng hoa, Nghê thường…quả thật là không mới, nặng tính truyền thống. Nếu đem so với những Bài ca man rợ, Những hướng sao rơi, Người gái thiên nhiên, Kì nữ, Hương trinh bạch, Màu sương linh giác…thì chất tượng trưng được thể hiện trong tác phẩm của ai rõ ràng hơn thì chúng ta hẳn đã có câu trả lời. Thơ Bích Khê đã có cái giọng của chủ nghĩa tượng trưng nhưng vẫn chưa tạo được một thế giới để những nhân vật của mình trú ngụ như thơ của Đinh Hùng.
Và bây giờ, ta hãy xem xét trường hợp của Xuân Diệu, “người mang đến cho thơ mới nhiều cái mới nhất” (Vũ Ngọc Phan).
Như ta đã biết, Xuân Diệu là nhà thơ có chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, của thi sĩ tượng trưng Pháp, như ông đã thừa nhận trong bài Tình trai.
Biểu hiện nổi bật nhất của sự ảnh hưởng này trong thơ ông là vết dấu của cái tư duy tương hợp. Cũng cần nói thêm rằng, tư duy tương hợp là quan trọng nhất bởi vì nó chính là cái cốt lõi, cái bản chất của thơ tượng trưng. Và nó là một cách thức làm hé lộ ra một thế giới vô hình ẩn sau bề mặt sự vật. Ta hãy cùng đọc lại một vài câu thơ của thi sĩ họ Ngô này:
- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. (Vội vàng)
- Đã nghe rét mướt luồn trong gió (Đây mùa thu tới)
- Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
…………………………………….
- Hãy tự buông cho khúc nhạc hường… (Huyền diệu)
- Long lanh tiếng sỏi vang vang hận (Nguyệt Cầm)
- Hương hiu hiu nên gió cũng ngọt ngào (Hoa đêm)
Bấy nhiêu cũng đủ thấy dấu ấn của tư duy tương hợp, vết dấu của chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Xuân Diệu đã rõ. Và với ông, cái “tư duy tương hợp” này, cái sự hoà hợp các giác quan này chỉ như một phương cách giúp ông có thể tận hưởng cuộc sống, giao cảm với cuộc đời:
_Giơ tay muốn ôm cả trái đất (Bài thơ tuổi nhỏ)
_Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi (Vội vàng)
_Ta uống mê vào hơi thở của ngươi:
Ta bấu vào da thịt của đời
Ngoàm sự sống để làm êm đói khát
Muôn nỗi ấm với ngàn muôn nỗi khát
Ta đều ăn, nhắm nhía rất ngon lành… (Thanh niên)
Có thể nói, Xuân Diệu đã chạm được tay vào nắm cửa của chủ nghĩa tượng trưng nhưng không mở ra mà quay lại để nhìn thế giới- thế giới thực tại, mà quay lại để tận hưởng cuộc sống- cuộc sống thực tại. Xuân Diệu đã đứng ở cái lằn ranh nhập nhằng giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa tượng trưng, đứng ở cái điểm xa nhất của chủ nghĩa lãng mạn để phóng xuất hết mọi khả năng của mình, thức nhọn toàn bộ các giác quan của mình để hoà nhập, để giao cảm, để nuốt chửng mọi tinh lực của cuộc sống thực tại. Còn Đinh Hùng thì không. Đinh Hùng đã mở toang cánh cửa ấy, bước qua nó và đã thực hiện được nhiệm vụ, mục tiêu của chủ nghĩa tượng trưng là khám phá và biểu hiện được thế giới vô hình. Và đó cũng chính là thế giới của chủ nghĩa tượng trưng. Điều này có nghĩa là ông đã bước ra khỏi mĩ cảm của Hoài Thanh.
Như vậy, Đinh Hùng là trường hợp đáng tiếc nhất mà tác giả Thi nhân Việt Nam đã bỏ sót.