Nhìn ra thế giới

Giáo trình lịch sử Nhật Bản (Phần hai: Mạc phủ Muromachi và Edo)[12]

 6-Từ mậu dịch bằng thuyền Shuin đến việc bế quan tỏa cảng.

 6.1 Ngoại giao hòa bình vào buổi đầu Mạc phủ Edo:

 Trong phần này, chúng ta đề cập đến chính sách ngoại giao của Mạc phủ Edo.Nếu muốn tóm tắt nó trong một câu thì có thể nói rằng kể từ khi quyền lực của Mạc phủ đã bám rễ và chế độ thống trị được thiết lập vững chãi, nhà nước đã cho thi hành chính sách bế quan tỏa cảng với lệnh “hải cấm” (kaikin) nghĩa là lập một quan hệ đối ngoại rất là hạn hẹp với các nước.

 Năm 1600 (Keichô 5), con tàu Hà Lan tên De Liefde đã trôi dạt đến vùng biển Bungo (nay thuộc tỉnh Oita ở Kyuushuu). Thuyền trưởng là Jan Joosten van Lodensteyn (1557?-1623) (tên Nhật là Da Dương Tử =Yayôsu) và viên hoa tiêu của ông, người Anh William Adams (sau có tên Nhật là Miura Anjin = Tam Phố Án Châm, 1564-1620) được cứu thoát. Sau đó, Ieyasu mời họ lên Tôkyô và hai người trở thành cố vấn cho mạc phủ về các vấn đề ngoại giao và mậu dịch.   

              

                                                 William Adams (Miura Anjin)

Đương thời, ở Âu châu thì Anh, nơi rất phát triển về ngành công nghiệp dệt len (woolen fabric), và Hà Lan từ thế kỷ thứ 16 giành được độc lập từ tay người Tây Ban Nha là hai nước đang tiến lên hàng đầu. Hai quốc gia Anh-Hà Lan này đã lập dưới quyền bảo hộ của mình Công Ty thương mại Đông Ấn Độ (The East India Company, 1600-1874), dùng nó như mũi nhọn để tiến về Châu Á. Nhân vì Ieyasu cũng muốn buôn bán với họ nên đã mở cửa biển Hirado (Bình Hộ, phiá bắc Nagasaki) cho phép hai nước mở thương quán để giao dịch. Hà Lan đã thực hiện việc đó vào năm 1609 (Keichô 14) và Anh vào năm 1613 (Keichô 18).

Từ đó người Anh và Hà Lan thường xuyên đi lại Nhật Bản. Để phân biệt với người Nam Man (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha) mà họ từng biết, người Nhật gọi những ông khách mới này là dân Hồng Mao. Khác với người Bồ và Tây theo đạo Ki-tô, người Anh và Hà Lan theo Tân giáo, có tên khác là Thệ Phản giáo (Protestant).

Một sự kiện khác đã xảy ra vào năm 1609 (Keichô 14) khi một người Tây Ban Nha là Don Rodrigo (tức Rodrigo de Vivero y Velasco, 1564-1636) trôi dạt tới vùng biển Kazusa (trung bộ Chiba). Nhân việc này, Ieyasu cũng cho phép người Tây Ban Nha được phép buôn bán. Để xúc tiến việc giao thương với Mexico ( thuở còn gọi là Nueva Espana), thuộc địa của Tây Ban Nha, Ieyasu đã gửi Tanaka Shôsuke (Điền Trung, Thắng Trợ) người Kyôto đi tìm hiểu và thương lượng.

Về quan hệ đối với Tây Ban Nha thì cũng nên nhắc đến việc lãnh chúa Date Masamune

(Y Đạt Chính Tông) vào năm 1613 (Keichô 18) đã gửi gia thần của mình là Hasekura Tsunenaga (Chi Thương Thường Trường) sang Tây Ban Nha để xin phép buôn bán trực tiếp với Mexico.Chuyến đi này có tên là Keichô ken.Ô shisetsu (Sứ bộ gửi sang Âu châu vào năm Khánh Trường). Tuy nhiên họ không đạt được mục đích trong việc xin  thông thương.

Riêng đối với người Bồ đào nha mà Nhật Bản từng có mối liên hệ trong quá khứ thì câu chuyện có hơi khác. Số là thương nhân người Bồ thời ấy đóng căn cứ ở Macao, vẫn thường chở tơ sống (sinh ti = ki-ito hay shiraito) của Trung Quốc đến Nagasaki bán lại, nhờ đó thu nhập ức vạn. Để phá vỡ hệ thống độc chiếm của họ, vào năm 1604 (Keichô 9), mạc phủ đã bắt đầu đề ra chế độ Ito-wappu (Ti Cát Phù) mà wappu có nghĩa là thẻ (phù) chứng minh giấp phép của nhà đương cục làm bằng hai mảnh cắt ra (cát) (thường là gỗ, tre hay giấy) ghép lại (warifu). Chính phủ để cho một số các thương nhân giờ đặc biệt và những đồng nghiệp chuyên ngành tơ của 3 vùng Kyôto, Sakai, Nagasaki kết thành tổ hợp, mỗi mùa xuân họp nhau lại để ấn định giá tơ. Những đồng nghiệp trong tổ hợp (nakama)[1] chuyên ngành tơ sẽ thu mua một lượt tất cả tơ với giá đã ấn định chung rồi phân phối số hàng cho nhau. Làm như thế, Nhật mới loại được độc quyền của các con buôn người Bồ. Những thành viên tổ hợp của 3 thành phố nói trên sẽ có sự tham gia của các người thuộc hai thành phố khác là Edo và Ôsaka để trở thành Gokasho shônin (Ngũ cá sở thương nhân).

Thế nhưng tình trạng êm thắm này không kéo được lâu dài vì từ năm 1612 (Keichô 17) trở đi, cùng với lệnh cấm đạo Ki-tô, mạc phủ đã thay đổi thái độ và siết chặt kiểm soát sự thông thương.

Lại nữa, ta biết rằng việc người Nhật tiến ra hải ngoại vốn đã tiếp tục duy trì suốt thời Tể tướng Hideyoshi: thuyền Nhật đi Luxon (đảo Lữ Tống, Phi luật tân), Tonkin (Đàng Ngoài của Việt Nam), Cam-phu-chia, Xiêm La (Thái Lan bây giờ) rất nhiều. Mạc phủ Edo hồi đầu cũng cho phép họ tiếp tục làm như vậy bằng cách cấp các giấy phép có triện son, gọi là shuinjô (châu ấn trạng). Những lãnh chúa điều động thuyền triện son (shuinsen = châu ấn thuyền) để thông thương là Shimazu Iehisa (1576-1638, phiên Satsuma và Ryuukyuu, vùng Kagoshima bây giờ), Matsuura Shigenobu (còn đọc là Matsura, 1549-1614, phiên Hirado ở vùng Nagasaki bây giờ), Arima Harunobu (1567?-1612, vùng Bizen, thuộc Saga bây giờ). Còn về những nhà buôn danh tiếng thì phải nhắc đến Suetsugu Heizô ( ? -1630?) ở Nagasaki, Sueyoshi Magozaemon (1570-1617) ở Settsu cũng như Suminokura Ryôi 1554-1614 và Chaya Shirôjirô (tên thật là Nakajima, không rõ năm sinh năm mất) ở Kyôto. Đó là những nhân vật được gọi là gôshô (hào thương), không những giàu có của cải mà thôi nhưng còn có thế lực bởi lẽ đã gián tiếp làm kinh tài cho các nhân vật trong chính quyền.

Việc cấm đạo và chính sách đối ngoại của Mạc phủ Edo

(niên đại với gạch dưới là những năm có ban bố các lệnh tỏa quốc)

 

Niên đại

Sự kiện

Mốc quan hệ đối ngoại

1600

Tàu Hà Lan De Liefde ngộ nạn, dạt vào biển Bungo

Nhận thức về Hà Lan

1604

Lập chế độ Itowappu kiểm soát việc bán tơ sống của người Bồ

Canh chừng độc quyền thương mãi của Bò Đào Nha. Các đoàn thuyền triện son (Shuinsen) hoạt động trở lại.

1607

Đoàn sứ thần Triều Tiên đến Nhật

Nối lại liên hệ với Triều Tiên

1609

Người Hà Lan được phép mở thương quán ở Hirado

Bắt đầu mậu dịch chính thức với Hà Lan

1610

Ieyasu gửi Tanaka Shôsuke sang Mexicô (Nueva Espana)

Nới rộng mậu dịch với Tây Ban Nha qua thuộc địa của họ.

1611

Cho phép thuyền Trung Quốc đến buôn bán ở Nagasaki

Nối lại liên hệ với Trung Quốc của nhà Minh

1612

Ieyasu cấm đạo (Kinkyôrei = Cấm giáo lệnh) ở các lãnh địa mạc phủ cai quản (sẽ nới rộng ra toàn quốc vào năm 1613)

Bắt đầu việc cấm đạo

1613

Gửi sứ tiết sang Âu châu vào năm Keichô. Người Anh cũng mở thương quán ở Hirado

Bắt đầu mậu dịch chính thức với Anh

1614

Trục xuất lãnh chúa đi đạo là Takayama Ukon và 148 người khác ra nước ngoài.

Việc cấm đạo gay gắt hơn

1616

Giới hạn thuyền buôn Âu châu chỉ được ghé 2 cảng Hirado và Nagasaki

Bắt đầu gây khó khăn cho thương nhân Âu châu.

Nhà Thanh lên nắm chính quyền ở Trung Quốc.

1622

Cuộc xử hình giáo đồ Ki-tô đại qui mô năm Gen.na

 

1623

Anh đóng cửa thương quán Hirado và triệt thoái khỏi Nhật

Chấm dứt giao thiệp với Anh

1624

Mặc phủ cấm thuyền Tây Ban Nha ghé Nhật

Chắm dứt giao thiệp với Tây Ban Nha

1629

Bắt đầu bắt giẫm chân lên ảnh Chuá và thập giá (ebumi - fumie) ở Nagasaki

 

1630

Cấm thư lệnh không cho nhập sách vở liên quan đến đạo Ki-tô

 

1631

Bắt đầu chế độ Hôshobune (Phụng thư thuyền) đòi các thuyền buôn phải có cả giấy phép của chức Rôjuu.

Chế độ Hôshobune bắt đầu. Shuinsen chấm dứt

1633

Cấm tất cả các thuyền ra hải ngoại trừ các Hôshobune

 

1634

Hạn chế việc người Nhật thông thương và vãng lai với nước ngoài

 

1635

Hoàn toàn cấm người Nhật ra nước ngoài và từ đó trở về nếu đang sống ở đó

 

1636

Chuyển thương quán người Bồ về Dejima. Đuổi con cháu, kể cả con lai người Bồ khỏi nước.

 

1637

Loạn ở Shimabara (kéo đến 1638)

 

1639

Cấm thuyền Bồ Đào Nha cập bến

Chấm dứt việc giao thiệp với Bồ Đào Nha

1640

Thiết lập chế độ đổi đạo (Shuumon kai.yaku). Bắt buộc ghi danh vào các chùa (chế độ Terauke)

 

1641

Chuyển thương quán người Hà Lan về Dejima

Hà Lan là nước duy nhất thuộc Âu châu còn giữ quan hệ mậu dịch với Nhật Bản

 Mậu dịch do thuyền châu ấn (shuinsen) đã mang về cho Nhật Bản những món hàng nhập khẩu như tơ sống, lụa là, đường, da hươu nai và da cá mập vv…vốn là sản phẩm của Á châu.Còn như sản phẩm đến từ Âu châu thì ít hơn nhưng có thể kể đến vài mặt hàng ví dụ la sa (raxa), một loại thảm nhung dệt từ lông dê hay cừu (thick close-woven wool cloth). Nhờ thuyền buôn đó, Nhật Bản cũng đã có thể xuất khẩu các kim loại như bạc, đồng, và sắt. Nên nhớ là lúc đó, số bạc mà Nhật Bản xuất khẩu chiếm đến 1/3 tổng số của quí kim ấy trên thế giới. Đó là một sự thực đáng làm cho chúng ta kinh ngạc.

 Khi thuyền châu ấn đi nhiều ra nước ngoài rồi thì đến một lúc, khi con số thương nhân xuất ngoại tăng lên nhiều, đã đưa đến việc thành lập các Nihon-machi (phố người Nhật) ở các quốc gia họ trú ngụ. Ở Ayutaya (thủ đô vương triều Ayutaya, Xiêm La) chẳng hạn, cũng có Nihon-machi. Một người xuất thân từ thành Sunpu (Tuấn phủ), lưu lạc qua Xiêm La và đứng đầu cư dân ở Nihon-machi – Yamada Nagamasa (Sơn Điền Trường Chính, 1590-1630) – đã được triều đình Ayutaya trọng dụng. Ông làm đến chức Thái thú ở địa phương Rigol (Lục Côn).

Mậu dịch thuyền châu ấn trong vùng Đông Nam Á[2]

Thuyền châu ấn (triện son) kể từ thời Hideyoshi cho đến buổi đầu thời Tokugawa đã được triễn khai khắp vùng Đông Nam Á. Người ta cho rằng lúc ấy trong khu phố Nhật Dirao San Miguel ngoại ô Manila thuộc Phi Luật Tân, dân số lên đến 3.000 người và Ayutaya thuộc đất Xiêm La (Thái) cũng đã có khoảng 1.500 người Nhật trú ngụ. Mạng lưới hàng hải của thuyền châu ấn còn kéo ra đến tận Malacca (Mã Lai), Brunei (Borneo) và Batavia (Java) thuộc Indonesia bây giờ

Người Nhật lúc ấy xuất khẩu quí kim như bạc, đồng, đồ thủ công, nhập vào tơ sống (kiito), đồ lụa đồ dệt, các loại da và dược liệu.Da hươu dùng để bọc cán kiếm và may áo xống, có năm được mua về đến 30 vạn tấm. Đương thời, Nhật có tiếng sản xuất nhiều bạc.

Nói thêm về Nagamasa thì ông là người xuất thân ở Suruga, Shizuoka, là nơi có thành Sunpu của Ôgosho, nơi Ieyasu gián tiếp coi việc nước sau khi đã nhượng vị.Có lẽ cậu bé Nagamasa đã chứng kiến các người nước ngoài vào ra yết kiến Ieyasu nên động lòng viễn phương, muốn tìm đến những chân trời xa lạ. Như thế, vào năm 1610, qua ngõ Taiwan, Nagamasa đã đi xuống vùng Đông Nam Á và chọn đất Xiêm La làm nơi lập nghiệp. Hành trạng và bước thăng trầm của ông thế nào thì ta đã nói đến bên trên. Tương truyền năm 1626, ông có gửi về tiến cúng ở đền thần Sengen ở thành Sunpu cố hương một tấm phù hiệu chiến thuyền của mình (gunkan no ema). Cùng với sự suy vi của phố người Nhật 9 năm trước khi phát lệnh “toả quốc”, Nagamasa cũng sa cơ. Ông bị quốc gia lân cận đánh thuốc độc chết năm 1630.

                                      

                          Di ảnh Yamada Nagamasa

Thời chiến tranh Thái Bình Dương, nhà nước quân phiệt Nhật Bản muốn làm sống lại hình ảnh của ông như một anh hùng và như biểu tượng thành công trong giao lưu quốc tế nhưng họ đã gặp phải phản ứng tiêu cực với tâm tình phức tạp của người dân địa phương.

Về phiá Việt Nam thì chúng ta đều biết mối liên lạc giữa Nhật Bản và Việt Nam qua các cuộc trao đổi quốc thư và quà tặng giữa Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) và Tokugawa Ieyasu khoảng giữa năm 1601. Các nhà sử học như Sở Cuồng Lê Dư và Kawamoto Kunie đã lần lượt báo cáo về các tư liệu này vốn tìm thấy trong Gaiban Tsuusho (Ngoại phiên thông thư, gồm các quốc thư qua lại từ 1599 đến 1764), do mạc thần Kondô Juuzô (Cận Đằng Trọng Tàng, 1771-1829) thu thập từ văn khố trong giai đoạn ông làm việc, nghĩa là 1808-1819) Người kế vị Chúa Tiên là chuá Sãi (Nguyển Phúc Nguyên) cũng tỏ ra có những quan hệ ngoại giao mềm dẻo với phía Nhật Bản. Việc thành lập khu phố người Nhật ở cảng Hội An là kết tinh của mối giao thương tốt đẹp đó. Hiện nay nơi đây vẫn còn dấu tích của cộng đồng người Nhật như Chùa Cầu  (Lai Viễn Kiều, tên cho chúa Nguyễn Phúc Chu đặt năm 1719) và khu mộ địa của họ. Năm 1619, tương truyền Chúa Sãi đã gã con gái nuôi cho thương nhân người Nagasaki là Araki Sôtarô (Hoang Mộc Tông Thái Lang, ? – 1636) cũng như ban cho ông quốc tính, chứng tỏ sự tin cậy của nhà chúa đối với các thương nhân Nhật Bản. Theo lời yêu cầu của các chúa Đàng Trong, Mạc phủ Tokugawa tỏ ra nghiêm khắc trong việc giao thương với Đàng Ngoài (Phố Hiến, Kẻ Chợ), cho nên có thể nói, mậu dịch Nhật Bản thời đó với Việt Nam, chủ yếu là ở Đàng Trong (Nhật gọi là Quảng Nam Quốc).

Theo tài liệu của Li Tana trong “Lịch sử xứ Đàng Trong thế kỷ 17 và 18” (1992) thì trong giai đoạn 1601-1635, số châu ấn thuyền đến Đàng Trong là 86 chuyến, trong khi chỉ có 36 ra Đàng Ngoài và 5 vào Chiêm Thành. Mỗi thuyền đều chở theo một số bạc rất lớn. Thuyền châu ấn có vốn từ 400 quan (1 kan = 1000 tiền đồng) đến 1.620 quan. Họ thu mua tơ, lụa, vải thô, lụa đa mát, lô hội, gỗ trầm hương, da cá mập, đường phổi, mật ong, tiêu, vàng, song mây...Hàng đem xuất của họ là đồng, lưu huỳnh, gươm giáo, áo giáp sơn.

Dần dần khi lúc mậu dịch với nước ngoài và thể chế mạc phiên đặt xong cơ sở vững vàng thì lại xảy ra việc cấm đoán người trong nước xuất ngoại và hạn chế cả hoạt động mậu dịch vốn đang phồn thịnh. Nguyên nhân thứ nhất của sự bế quan tỏa cảng này đến từ chính sách cấm đạo Ki-tô, nguyên nhân thứ hai là vì mạc phủ muốn độc chiếm mọi lợi ích đến từ mậu dịch. Mạc phủ chắc nghĩ rằng nếu như cứ cho phép thuyền châu ấn làm ăn mãi thì các lãnh chúa miền Tây (có cả những lãnh chúa đi đạo như Arima Harunobu) là những người thường điều động thuyền buôn, sẽ giàu to, và với thế lực kinh tế như thế, họ có thể uy hiếp cả mạc phủ.

Cho nên bấy giờ, mạc phủ mới thi hành chính sách cấm đạo theo từng giai đoạn một.   

Trước tiên, vào năm 1616 (Genna 2), mạc phủ đưa ra sách lược mới là hạn chế số tàu bè các nước Âu châu được ghé hải cảng Hirado và Nagasaki Đến năm 1624 (Kan.ei nguyên niên) thì họ cấm hẳn tàu buôn Tây Ban Nha. Thế rồi lúc đó, người Anh vì không cạnh tranh nổi với Hà Lan, đã đóng cửa thương quán vào năm 1623 (Gen.na 9) và triệt thoái khỏi Nhật Bản. .

Mạc phủ cùng lúc cũng kiểm soát gắt gao hơn các thuyền buôn Nhật Bản đi ra nước ngoài.Không những bắt buộc có shuinjô (châu ấn trạng) để trở thành shuinsen (châu ấn thuyền), các thuyền buôn phải được chức rôjuu (lão trung) cấp cho rôjuu hôsho (Lão trung phụng thư), một loại giấy phép thứ hai. Đó là chế độ hôshobune (phụng thư thuyền). Thế rồi năm 1635 (Kan.ei 12), có lệnh của mạc phủ không cho phép người Nhật Bản ra nước ngoài cư trú được phép trở về nước, lại giới hạn thuyền nhà Minh chỉ được cập bến một cảng là Nagasaki mà thôi. 

Sau đó, khi cuộc nổi loạn ở Shimabara (1637-38) có giáo dân dính líu xảy ra thì – như đã có dịp trình bày bên trên – chính quyền đã mạnh tay đàn áp người đi đạo. Năm 1639 (Kan.ei 16), mạc phủ không cho thuyền Bồ Đào Nha vào Nhật nữa, sang năm 1641 (Kan.ei 18), họ lại bắt thương nhân Hà Lan bỏ Hirado và dọn thương quán qua Dejima (Xuất Đảo) ở Nagasaki. Đây là một hòn đảo nhỏ với một khu vực nhà kho có tường che,  hình nan quạt, muốn vào phải đi qua hào, trên là cầu với trạm gác. Chức bugyô (phụng hành) như đại diện chính phủ ở Nagasaki được lệnh canh chừng nghiêm ngặt không cho người Nhật tự do giao thiệp với người ngoại quốc trên đảo. Đó là mô hình gốc (prototype) tượng trưng cho thể chế đối ngoại của chính quyền mạc phủ mà viên y sĩ người Đức Engelbert Kaempfer (1651-1716) đến Nhật năm 1690 đã viết trong tập hồi ký “Nhật Bản Chí” của ông. Sách ấy đã được viên thông ngôn ở Nagasaki là Shizuki Tadao (Chí Trúc Trung Hùng) dịch ra tiếng Nhật với nhan đề Sakoku (Tỏa Quốc) vào năm 1801 (Kyôwa nguyên niên). Như ta có thể hình dung, tên sách nói đến chính sách “hải cấm” (kaikin seisaku) hay khóa cửa biển của mạc phủ vậy.

                   

Engelbert Kaempfer, tác giả Nhật Bản Chí

 Chế độ Terauke (Tự thỉnh)[3]

Khi người ngoại quốc hỏi về tôn giáo của mình,, có lẽ một người Nhật Bản sẽ phải lúng túng, không biết trả lời sao cho ổn. Bởi vì họ vẫn xuất hành đầu năm (hatsumode) lên chùa hái lộc, vẫn kỹ niệm lễ Vu Lan (o-Bon), làm tang lễ theo lối Phật giáo nhưng lại có thể tổ chức đám cưới ở một nhà thờ Ki-tô giáo hay một đền thần đạo. Nói chung, ý thức tôn giáo của họ khá mù mờ.

Thế nhưng tại sao phần lớn dân Nhật tổ chức tang lễ theo nghi thức Phật giáo, một việc đã bắt đầu ít nhất  cách đây từ hơn 3 thế kỷ ? Điều này có thể giải thích bằng Lệnh Terauke (Tự thỉnh, Nhờ chùa quản lý) của chính quyền Tokugawa . Thực ra, vào năm 1613, có lệnh cấm đạo Ki-tô, thì năm sau, nhà nước ra lệnh các giáo đồ bỏ đạo ở vùng Keihan (Kyôto và Ôsaka) phải đăng ký ở một ngôi chùa để nhận một văn thư gọi là Terauke shômon (Tự thỉnh chứng văn) nghĩa là giao người đó cho một ngôi chùa quản lý mọi hành vi. Đến năm 1635 thì lệnh này được thi hành triệt để, nhất là kể từ vụ nổi loạn ở Shimabara (1637-38), trong đó có sự tham gia của nhiều giáo dân. Mạc phủ thấy cần phải kiểm soát chặt chẽ tầng lớp nông dân nên trong khoảng năm 1624-44, tất cả người Nhật trước sau đều phải trở thành đàn việt của ngôi chùa bên cạnh nơi mình sinh sống (để khi chết sẽ làm tang ma và giữ hài cốt ở đấy). Liên hệ đó đã khiến nhà chùa đóng vai trò của một cơ quan cấp giấy tờ hộ tịch, bởi vì sau đó, những việc khác như hôn lễ, đổi địa chỉ cư trú, lữ hành... đều phải có chứng minh thư do nhà chùa cấp cho. Điều này làm cho nhà chùa tăng quyền lực và thường xuyên đòi hỏi sự đóng góp kim tiền từ các đàn việt. Nó cũng kích thích họ hăng hái khuyến giáo để mở rộng phạm vi ảnh hưởng tôn phái mình.

Qua chế độ terauke, trong mỗi xã thôn và hằng năm, mạc phủ sẽ có danh sách tên tuổi của những người theo những tôn phái nào. Sổ sách sẽ ghi tên tuổi, nam hay nữ, sinh quán và trú quán, ngôi chùa tống táng, nghi thức, pháp yếu phải tổ chức theo. Những thứ sổ sách như thế đến năm 1870 nghĩa là vào thời Meiji rồi mà vẫn còn bị bắt buộc phải có. Tuy ngày nay chế độ ấy không còn nữa nhưng “táng thức Phật giáo” nghĩa là việc chôn cất và trở thành “Phật tử lúc chết” dù không cần biết khi sống đã sống theo kiểu nào là một nét đặc trưng của xã hội Nhật Bản.

 

Như thế, từng bước một, mạc phủ đã siết vòng vây trong lãnh vực đối ngoại. Lệnh gọi là Sakokurei (Tỏa quốc lệnh) được ban hành vào năm 1639 (Kan.ei 16). Khi người Bồ không còn được buôn bán nữa thì trong số các nước Âu châu từng giao thương với Nhật Bản, chỉ còn mỗi Hà Lan. Đó là năm đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử Nhật Bản. Sử liệu ghi rằng : “Kể từ đây về sau, sẽ không cho phép một galeuta nào cập bến”. Galeuta là tên một loại thuyền cở nhỏ (khoảng 300 tấn) của người Bồ. Ngày trước, người Bồ có những chiếc thuyền lớn chạy đường biển gọi là galleon, trọng tải đến 1.000 tấn, được sử dụng trong việc mậu dịch với Nhật Bản. Thế nhưng họ thường bị tàu Hà Lan tập kích nên kể từ năm 1618 (Genna 4) đã sử dụng những chiếc thuyền nhỏ, nhẹ và nhanh gọi là galeuta. Do đó, khi nói đến galeuta thì ta có thể hiểu đây là thuyền buôn của người Bồ.

 Kết quả là từ đó đến trên 200 năm sau, Nhật Bản chỉ giao thương với Hà Lan, Trung Quốc, Triều Tiên và Lưu Cầu mà thôi. Con đường du nhập văn hóa từ hải ngoại thành ra bị thu hẹp lại. Thế nhưng thu hẹp không có nghĩa là đoạn tuyệt với tất cả người ngoại quốc như danh từ “tỏa quốc” có thể gợi ra cho ta trong đầu. Chỉ xin hiểu là từ đó cho đến 150 năm sau, nhà nước Nhật Bản đã tỏ ra không tích cực trong quan hệ ngoại giao mà thôi. Một lý do khác có thể giải thích việc làm của mạc phủ là vì lúc ấy, kinh tế Nhật Bản hãy còn ở trong tình trạng “tự cấp tự túc”, làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, giống như một chu trình kín, nên cho dù không giao thương với nước ngoài thì họ vẫn có thể sống còn.

6.2 Bốn cánh cửa nhìn ra bên ngoài:

Vì chính sách đối ngoại của Mạc phủ Edo là như thể nên địa điểm gặp gỡ của Nhật Bản và ngoại quốc trong nước Nhật chỉ còn thành phố Nagasaki, nơi tàu buôn Hà Lan và Trung Quốc của nhà Thanh (từ 1616) qua lại. Ngoài ra, có thể là quần đảo Lưu Cầu mà lãnh chúa phiên Satsuma là họ Shimazu lập được quan hệ, đảo Tsushima cửa ngõ tiếp người Triều Tiên đến thông sứ, cũng như Ezochi (đất của người Ezo, Hà Di địa) là nơi phiên Matsumae vẫn giao dịch. Bốn nơi ấy, xin tạm gọi là bốn “lỗ thông hơi” của Nhật đối với bên ngoài (yotsu no kuchi = tứ khẩu). Chữ này đã được dùng trong kiến nghị của nhà thám hiểm Kondô Juuzô (Cận Đằng Trọng Tàng, 1771-1829)[4] dâng lên mạc phủ vào năm 1797 (Kansei 9):

                           Bốn lỗ thông hơi

 

Triều Tiên của họ Lý (I):

  • Hòa ước Kỷ Dậu (1609)
  • Hòa quán (Nụy quán) ở Úy Sơn (Ulsan).
  •  Họ Sô (Tông) độc quyền mậu dịch với Triều Tiên
  • Sứ tiết Triều Tiên đến Edo (sau này sẽ thành những Thông tín sứ).

 

Đất Hà Di (Ezochi):

  • Họ Matsumae độc quyền giao dịch với người Ainu.
  • Qua trung gian của các thương nhân Nhật Bản để đưa hàng về các địa phương.

 

Tsushima         Matsumae

 

Mạc phủ Edo

 

Nagasaki           Satsuma

 

Hà Lan ;

  • Hà Lan thương quán trưởng đến Edo trình báo cáo cho Mạc phủ.
  • Hà Lan buôn bán ở Nagasaki.

Trung Quốc:

  • Mậu dịch tư nhân với Trung Quốc vì không thiết lập ngoại giao chính thức với Minh và Thanh. (xóm người Hoa: Tôjin yashiki)
  •  

 

Vương quốc Lưu Cầu (họ Thướng):

  • Buôn bán với Lưu Cầu qua trung gian lãnh chúa Satsuma là họ Shimazu (độc quyền sản vật như đường mía).
  • Buôn bán với Trung Quốc.
  • Gửi các Tạ ân sứ, Khánh hạ sứ đến mạc phủ.
  •  

 

Cửa ngỏ thứ nhất: Tsushima:

 Trước tiên, Shôgun Tokugawa Ieyasu muốn hồi phục sự giao thương với bán đảo Triều Tiên vốn đã bị thương tổn và trở nên phức tạp từ hai lần xuất binh xâm lấn của Hideyoshi. Năm 1609 (Keichô 14), hai bên đã ký Hòa ước Kỉ Dậu (Kiyuu yakujô = Kỉ Dậu ước điều). Về sau, phía Triều Tiên cho phép Nhật Bản mở Nụy quán (Wakan) ở Pusan (Busan, Phủ Sơn), còn Nhật Bản cũng để họ Sô (Tông) kẻ có thực lực trên đảo Tsushima (Đối Mã, nằm giữa hai nước) được một mình một chợ buôn bán với người Triều Tiên và chủ trì mọi quan hệ Nhật Triều.Họ Sô nhờ sinh lợi với những hoạt động mậu dịch này đã có thể ban ơn huệ cho gia thần của mình và tạo được mối quan hệ chủ tớ với họ. Triều Tiên với danh nghĩa mừng các Shôgun mới nhậm chức cũng đã gửi phái đoàn sang chào mừng (gọi là Keigashi hay Khánh hạ sứ) cả thảy 12 lần. Kể từ lần thứ 4 trở đi thì sứ thần được gọi là Tsuushinshi (Thông tín sứ). Thông tín ở đây không có nghĩa là thông báo tin tức mà là thông cảm, tin cậy.

 Cửa ngỏ thứ hai: Satsuma:

Nói về sự tình ở vùng biển nam thì năm 1609 (Keichô 14), vương quốc Lưu Cầu đã bị lãnh chúa Satsuma là Shimadzu Iehisa (Tân Đảo, Gia Cửu, 1576-1638) chinh phục và đặt nó dưới sự cai trị của phiên mình. Satsuma tiến hành chính sách đo đạc đất đai (kenchi), thu hồi binh khí (katanagari) và tách rời binh nông (heinô bunri) trên quần đảo. Như thế họ cũng chi phối các vùng nông thôn. Satsuma đã tổ chức giao thương giữa phiên và Lưu Cầu (bây giờ gọi theo âm Nhật là Ryuukyuu).   

Satsuma dành cho vua nước Lưu Cầu cũ (họ Thướng) một đất phong có giá trị 8 vạn 9.000 thạch thóc và ngoài mặt vẫn giữ cho họ cái vỏ một ông vua, khiến họ tiếp tục triều cống Trung Quốc. Những hàng mua được từ Trung Quốc trong những chuỳến đi ấy dĩ nhiên sẽ đưa về Satsuma. Vua nước Lưu Cầu mỗi lần lên ngôi, để cảm ơn Nhật Bản đã giữ mình tại vị, thường gửi những đoàn sứ thần gọi là Shaonshi (Tạ ân sứ) sang mạc phủ. Lại nữa, mỗi lần Shôgun mới nhậm chức, quốc vương cũng cho sứ thần sang chào mừng, gọi là Keigashi (Khánh hạ sứ).

Cửa ngỏ thứ 3: Matsumae:

Xưa kia, ở Ezogashima (đảo của người Ezo) – tên cũ của Hokkaidô (Bắc hải đạo) – có vùng người Wa (Nhật Bản cổ) đến lập nghiệp gọi là Dônanbu (Đạo nam bộ) vì nằm ở phiá nam đảo. Trong bọn, họ Kakizaki (Lệ Kỳ, mũi đất con hàu) là dòng họ có thế lực hơn cả.Sau họ Kakizaki đổi tên thành Matsumae (Tùng Tiền, trước cây tùng). Ieyasu từng bảo đảm cho dòng họ này được độc quyền buôn bán với người Ainu và cho họ được xem như là một phiên trấn. Nơi mà các thương nhân người Nhật buôn bán với người Ainu - vốn sống rải rác khắp vùng Ezochi bao la - được gọi là akinaiba (thương trường) hoặc basho (trường sở) nếu không phải là trong vùng chính người Wa cư trú. Ezochi khác với vùng từ Honshuu trở xuống phía nam ở chỗ là nó có rất ít đất canh tác. Do đó họ Matsumae không thể tạo được mối quan hệ chủ tớ với các gia thần bằng cách cấp đất đai làm vật ân thưởng. Họ phải dùng các trung tâm giao dịch (akinaiba, basho nói trên) làm món thế chân. Thay vì đất phong, gia thần được lãnh quyền kiểm soát quyền giao dịch. Chế độ ấy gọi là aikinaiba.chigyô.sei (thương trường tri hành chế).  

Vào năm 1669 (Kanbun 9), sau cái chết của tù trưởng người Ainu là Shakushain[5] và việc người Wa của phiên Matsumae muốn chiếm đóng căn cứ của họ, giữa người Wa và Ainu đã xảy ra một cuộc giao tranh. Matsumae với sự trợ giúp của phiên Tsugaru (bắc Honshuu) đã trấn áp được người Ainu. Cuộc chiến đấu của Shakushain này được xem như cơ hội vùng lên cuối cùng của người Ainu. Từ đó, xem như họ không còn có sức đề kháng nữa, đành phải hoàn toàn phục tùng phiên Matsumae. Về sau, vào giữa thế kỷ 18, mỗi khi có sự thay đổi chủ quyền kiểm soát các khu vực giao dịch (akinaiba, basho) thì việc buôn bán ở nhiều nơi lại lọt vào tay các thương nhân người Wa. Những người này lên Ezochi mỗi ngày mỗi đông. Vì bảo chứng cho các thương nhân người Wa quyền buôn bán, gia thần các phiên có thêm huê lợi. Thế rồi cung cách làm ăn như vậy đã dần dần bắt rễ. Nó được gọi là basho.ukeoi.seido (chế độ bảo đảm quyền buôn bán ở các khu vực giao dịch).   

Cửa ngỏ thứ tư: Nagasaki:

Được xem như là hải cảng dành riêng cho việc mậu dịch, có lẽ chỉ có thành phố  Nagasaki.Trên đảo Dejima thuộc Nagasaki đã có thương quán của người Hà Lan. Đối với mạc phủ, Nagasaki là cửa ngỏ duy nhất để tiếp thu văn vật (văn hoá và phẩm vật) đến từ Âu châu. Mỗi lần thuyền nước họ tới nơi thì thương quán trưởng người Hà Lan phải đệ trình cho chính quyền Nhật Bản tư liệu gọi là Oranda fuusetsugaki (Hà Lan phong thuyết thư). Fuusetsu nguyên lai có nghĩa là lời đồn đại (rumor) nhưng xin hãy hiểu là “tin tức cập nhật nhất” đến từ hải ngoại.

Mặt khác, bên Trung Quốc, khi nhà Thanh (1616-1912) lên thay nhà Minh thì Minh thuyền đến Nagasaki được gọi là Thanh thuyền vì Thanh là quốc hiệu mới của chính quyền tộc Mãn châu. Kim ngạch mậu dịch của thuyền nhà Thanh mỗi năm mỗi tăng. Từ Hà Lan đến Nhật, có các mặt hàng như tơ sống của Trung Quốc, đồ lụa, đồ len, đồ gấm nghĩa là các loại đồ dệt, thuốc men, đường, sách vở... được nhập khẩu. Từ Âu châu đến thì có đồ vải, đồ len, đường sản xuất từ vùng biển nam, gỗ thơm, hương liệu, da và sừng thú. Nhật lại xuất khẩu các mặt hàng như bạc, đồng, hải sản (phơi khô hay nấu chín, gọi chung là tawaramono vì gói trong rơm bện tức tawara) khô cá (iriko), vây cá (fukahire), thịt sò hình quạt khô (hoshi no kaibashira, dried scallops) mà giới đầu bếp Trung Quốc rất yêu chuộng.

 Đến đây, Nhật Bản thấy cần phải hạn chế sự tăng gia quá mức của hàng nhập khẩu nên kể từ năm 1685 (Jôkyô 2), mạc phủ đã ra lệnh giới hạn kim ngạch nhập khẩu của các thuyền Hà Lan và thuyền nhà Thanh, khôi phục chế độ itowappu (việc cho phép tổ hợp tơ sợi Nhật Bản có quyền mua sỉ tơ sống theo một giá ấn định rồi chia cho các thành viên) vốn đã để cho tự do từ nhiều năm. Đồng thời, mạc phủ cũng qui định kim ngạch mậu dịch của thuyền Hà Lan trong vòng một năm không được vượt quá 3.000 kan (quán hay quan, đơn vị tiền tệ xâu bằng giây, 1 quan là 1.000 mon = văn hay tiền), thuyền nhà Thanh thì được đến 6.000 kan. Tư liệu về năm 1688 (Genroku nguyên niên) cho biết năm đó có 70 chiếc thuyền nhà Thanh đến Nhật. Người Trung Quốc ở Nagasaki trước kia sống tạp cư với người Nhật nay phải dọn về một khu riêng có tên là Tôjin yashiki (Đường nhân ốc phu) có nghĩa là khu nhà ở của người Trung Quốc (Tôjin có khi còn được đọc là karabito, bao hàm cả người nước ngoài mọi quốc tịch).

 Thương nhân Trung Quốc ở Nagasaki[6]

 Khi bị bắt buộc chuyển từ Hirado về Nagasaki, người Hà-Lan được lập thương quán ở đảo Dejima (1864) trong một khu vực biệt lập nhưng, người Trung Quốc (Đường nhân) đã có đặc quyền ghé Nagasaki từ năm 1635 lại được phép tự do ở lẫn lộn với người bản xứ. Năm 1685, khi mạc phủ ra lệnh hạn chế số hàng mậu dịch với đạo luật Jôdakashihô (Định cao sĩ pháp) thì người Trung Quốc chuyển sang “mậu dịch chui” (nukeni = hàng vượt qui định) làm cho chính quyền mạc phủ bắt đầu để ý và kiểm soát họ. Đó là lý do mà Tôjin yashiki (Khu vực cư trú dành cho người Trung Quốc) ra đời vào năm 1689 để qui tụ họ vào một chỗ.

 Tổng diện tích khu vực là 30.000 m2 với 10 dãy nhà, phân chia thành nhiều phòng ở, có cả nơi thờ phượng như miếu Quan Âm, đền Thiên Hậu và đặc biệt là nằm cạnh bến cảng. Khu này có tường rào, bên phía Nhật chỉ có gái làng chơi, người cung cấp chén bát, củi lửa, lương thực... mới được vào. Tính ra nhân số trong khu vực này vào năm 1.869 (Meiji 2) có khoảng 4.888 người.

 Có lẽ vì bị canh phòng qua nghiêm ngặt, cư dân trong đó nhiều khi nổi cáu, phóng hoả hoặc hành hung người bản xứ. Mạc phủ nhân đó mới tạm nới lỏng kiểm soát, có khi lại cho một số ra ngoài phố lập nghiệp. Năm 1869, khu này bị hỏa tai nên sau đó, kể từ thời Meiji, mọi người trong đó đã được dời ra Chuukagai hay Chinatown mới thành lập.

Chính ra người Trung Quốc đã đến buôn bán và sinh sống ở Nagasaki trước thời “tỏa quốc”. Ngày nay, họ còn để lại nhiều ảnh hưởng văn hoá như văn hoá ẩm thực, ca vũ, du hí ở địa phương. Do đó, ở Nhật, Nagasaki cùng với Kobe và Yokohama được xem như là những thành phố có màu sắc quốc tế hơn cả.



[1] Nakama (trọng gian) vào thời cận đại có nghĩa là những người làm cùng nghề, họp nhau thành hiệp hội dể chống độc quyền, bây giờ trở thành tiếng gọi những người cùng làm một việc gì chung hoặc có cùng chí hướng.

[2] Nguồn: Phạm Hoàng Quân trong Chúa Nguyễn và công cuộc hải thương với Nhật Bản (Quốc Sử Hàn Lâm Viện trên Internet) , Luc Thuan trong Japan early trade coin and the commercial trade between Vietnam and Japan in the 17th century (Internet) và Okura Sadao trong Shuinsen jidai no Nihonjin (Chuô shinsho) (trang 185-186).

[3] Nguồn Nihon no rekishi II (trang 181-182)

[4] Kondô Juuzô (Cận Đằng, Trọng Tàng, 1771-1829) là nhà thám hiểm Nhật Bản cuối đời Edo. Trước từng giúp việc cho chức bugyô nghĩa là quan cai trị ở Nagasaki (1795), nơi có nhiều người nước ngoài. Từ 1798, bắt đầu thám hiểm vùng Ezochi, đảo Chishima và để lại nhiều sách về địa chí và dân tộc chí về các vùng đất, các sắc dân thiểu số trên miền bắc.

[5] Shakushain ( ? – 1669) là tù trưởng ngườiAinu vùng Shibichaly thuộc Hidaka (phía nam Hokkaidô) vào đầu thời Edo. Năm 1669 (Kanbun 9) vì chống đối các hành động lấn lướt để giữ độc quyền mậu dịch của phiên Matsumae nên ông đã kêu gọi người Ainu tấn công vào các đoàn thuyền buôn trên khắp khu vực Ezochi. Giữa lúc sửa soạn tấn công Matsumae thì bị đánh thuốc độc chết.

[6] Nguồn: Toyama Mikio trong Nagasaki bugyô - Edo baku no mimi to me (Chuô kôron) trang 189-190).

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114572711

Hôm nay

2257

Hôm qua

2301

Tuần này

2257

Tháng này

219768

Tháng qua

130677

Tất cả

114572711