- Bài CHIẾU DỜI ĐÔ là một văn kiện quan trọng .Lý Thái Tổ trước khi định rời Hoa Lư để về Thăng Long đã có suy nghĩ chín chắn , không muốn tự ý quyết định mà muốn đem việc lớn của quốc gia ra bàn bạc cùng toàn thể quốc dân . Xuất phát từ kinh nghiệm lịch sử , Ông đã đề nghị chọn “một chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời “
- Sau khi dời đô , ngoài các mặt chính trị , quân sự , ngoại giao v.v. các vua Lý còn rất quan tâm đến phương diện văn hóa của đất nước . Lý Thái Tổ , Lý Thái Tông thì lo cho việc thỉnh kinh Tam Tạng , chép kinh , lập kho chứa kinh , dịch kinh ( 1018--1035 ); Lý Thánh Tông ,Lý Nhân Tông lại lo lập Văn miều , Quốc tử giám , tổ chức việc học tập cho Hoàng thái tử , tổ chức việc thi cử cho nho sĩ , lại viên.(1070--1075)
-Chúng tôi nghĩ , trong hoàn cảnh tất yếu đó , nhất định nền văn tự Nôm đã được sử dụng .
2/ Vậy vì sao trước đây không ai dám khẳng định ? Không dám , vì gặp mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn!:
***Về lý luận chúng tôi tin vào tri thức của ngành ngôn ngữ học và Nôm học .Tuy 2 ngành này chúng ta còn xa mới đạt trình độ quốc tế ; dầu sao năm 1975 , với tri thức hồi ấy , chúng tôi (N.Tài Cẩn & N.V. Xtankêvich ) cũng đã nghiên cứu các điều kiện xuất hiện của các nền văn tự dân tộc ở ta và Triều Tiên, Nhật bản và đi đến kết luân :
“Đặt sự manh nha của chữ Nôm ở Việt Nam vào khoảng từ thế kỉ thứ 8,thứ 9 ,đặt sự hình thành và sự hoàn chỉnh của nó vào khoảng từ cuối thế kỉ thứ 10 đến thế kỉ thứ 11có lẽ là một cách giả định không những chỉ phù hợp với cứ liệu trong nước mà cũng còn có phần phù hợp với cả tình hình chung trong toàn vùng nữa “
*** Nhưng về thực tiễn rất bế tắc .Tuy chúng tôi tiên đoán về khả năng lí thuyết như vậy nhưng mặt tư liệu ,mặt văn bản thì bao nhiêu thời gian tìm tòi vẫn không đưa lại được một kết quả gì . Suốt 4,5 nắm sơ tán chúng tôi đã lăn lộn đi vào rất nhiều vùng quê , tìm ở các chùa chiền, ở các quán bên Đạo giáo cũng như ở các tủ sách tư nhân , nhưng tay trắng vẫn hoàn tay trắng .Chúng tôi đã hầu như thất vọng hoàn toàn .Thêm một lí do nữa để tăng thêm chán nản :anh em đồng nhiệp chuyên về đời Lý cũng cho biết chỉ còn tìm được chưa đến một chục hiện vật có văn bản , mà không một văn bản nào có chữ húy.!
***May rằng , cuối cùng ,năm 1979 nhà nghiên cứu Tạ Trọng Hiệp đã từ Paris gửi về được môt tư liệu rât có giá trị :tức bản kinh PHẬT THUYẾT nói trên. Đây là một bản có lẽ đã in đi chép lại ít nhất là 4 lần : kể cả lần từ nguyên bản đời Lý ..
Có điều , bản này vô cùng phức tạp ,phải tìm hiểu khá công phu .
Sự hiểu biết của chúng ta về niên đại của nó đang thay đổi dần., tùy thuộc vào những tư liệu mà
giới nghiên cứu đã và đang thu thập được .
PHẦN THỨ NHẤT:
TƯ LIỆU VỀ BẢN PHÂT THUÝẾT ĐẠI BÁO PHỤ MẪU ÂN TRỌNG KINH /1/
1/ Trong phần thứ hai chúng tôi sẽ thử nêu giả thuyết của chúng tôi về chữ Nôm đầu đời Lí rút ra từ bản kinh PHẬT TJUYẾT này. Nhưng thiết tưởng ,trước hết , cũng phải giới thiệu sơ bộ kết quả nghiên cứu của những người đi trước /2/
---Trong công trình --luận văn tiến sĩ của cô Hoàng Thi Ngọ-- xuất bản năm 1999 ,có 3 chương :chương giới thiều chung về văn bản ; chương phân lọai hề thống chữ Nôm và chương nói về sự thể hiện của tiếng Việt qua nền văn tự ây. Có bảng thống kê về 105 từ cổ và bảng “sách dẫn “ khoảng 600 từ rất tiện cho tra cứu,
***Trong công trình cho biết bản Nôm dài 4942 mã chữ , bao gồm 1095 lần mã gốc Hán và 3847 lần
mã thuần Nôm. Có hiện tượng văn tự chưa thực sự ổn đinh ,nhiều chữ khắc sai nét, khắc không thống nhất cách ghi âm, có mã ghi đến 4.5 kiểu khác nhau .May rằng phần lớn hư từ và những từ đưa đẩy trong câu lại được khen là rất chuẩn ! Mà có :gần 80 , 90 từ như vây,! Đó là một con số rất cần cho cú pháp!
***Về chữ húy ,cách viết ĐÔNG + VĂN (?) của đời Trần bị nhầm là tên kị húy của vợ Lê Lợi (Bà TRẦN này phải húy thành TRÌNH ! ) Lại sẵn có chữ LỢI gia dạng trong văn bản nên niên đại bị tác giả đẩy lùi , nhầm từ đời Trần xuống giai đọan Lê sơ. !
***Nhưng tác giả có một phát hiện rất quan trọng :cách ghi một từ bằng 2 mã .trong bản này , chiếm một số lượng nhiều chưa từng đâu thấy ! 103 lần dùng 75 kết cấu gồm 2 mã tách rời và 105 lần dùng 50 kết cấu gồm 2 mã ghép lại !Và tác giả cuối cùng đã phải đi đến kết luận ,đây là “văn bản còn lưu giữ lại cách ghi chữ Nôm rất cổ .Có thể nói là cổ nhất trong các bản Nôm hiện có “! Mà kết luận này tác giả nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần!
---Tiến sĩ Shimizu chỉ nêu lên một phần các cứ liệu tiến sĩ Hoàng Thị Ngọ đã thống kê được , nhưng các kiểu
Chữ Nôm hai bên đưa ra làm dẫn chứng chúng tôi thấy vẫn không có gì khác nhau lắm l .Hơn nữa , cách phân lọai của Shimizư vừa rất có cơ sở vừa rất hợp với thói quen trong giới ngôn ngữ học ,nên dưới đây chúng tôi về cơ bản sẽ đi theo hướng này , và chia thành 2 trường hợp chính :
***Trước hết chúng tôi so sánh một số ví dụ về các tổ hợp phụ âm :
Bl - Phl - Khl - Ml - Kl
+++ 8/ b /5 : VÂN HÀ BÁO ĐÁP --> : dường nào BA LA (=trả ) được
+++ 11/a /2 : THỦ PHAN A NƯƠNG TÂM CAN :--> tay vin trong BA LAI ( =trái ) lòng gan nạ
+++ 10/b /5 : BÁCH THẦN TOÀN BỊ -->: trăm thần BA LUẬN (=trọn ) no (= đủ )
+++ 18 /a /2 : ẢM MẪU BẠCH HUYẾT -->: uống những BA+LỮ ( = sữa ) mẹ
+++ 42 /a /2 : PHIÊN VI BẤT HIẾU -->: BA+ LỮ ( =trở ) nên người chẳng thảo
+++ 30 /a /2 : NHƯỢC HỮU THIỆN NAM TỬ:--> nhược có con BA+LAI (=trai ) lành
+++ 34 /b /3 : PHỤ MẪU CHI ÂN HẠO THIÊN VÕNG CỰC :--> ơn áng nạ bằng BA+LỆ (=trời) chẳng
hay cùng đòi
+++ 12/ b / 4 : SẦU TƯ LỆ MÃN KHÂM -->: thương lo nước mắt BA+LẠM(=chặm,thấm nhẹ)
bâu áo
+++ 15 / a / 2 : MI PHÂN THÙY LIỄU THÚY -->:mày BA+LẠT(= trát ) xanh dường liễu xa
+++ 29/a /4 : VIÊM LÔ NHIỆT ĐỘC -->: A LỘ ( =lò ) đỏ độc PHA LUẬT ( = sốt )
+++ 29/a /3 : XÍ HỎA ĐỘNG NHIÊN MÃNH LIỆT--> : lửa PHÁ LUẬT (=sốt) A LONG (=rỗng )cháy
rực BA TÁN (=tan)
+++ 13/b /1 : LÂN MẪN VÔ THẤT THỜI -->: tội qua xót chẳng PHA LẬT ( =trật) sự CÁ NÔ (= đúng lúc)
+++ 29/a /5 : ĐỒNG CẨU THIẾT XÀ -->: chó đồng PHÁ TÁN (=rắn) KHẢ LIỆT (= sắt )
+++ 28/a /1 : THÙY LỆ BI KHẤP --> : KHẢ LA ( = sa ) nước mắt thương nhuốm
+++ 19/b /2 : NHẬM NHIỄM NHÂN TUẦN :--> MA LÂN (= lăn) MA LỘC (= lóc ) luân hồi
+++ 36/a /5 : HIẾU TỬ BẤT KIỀU -->: con thảo chẳng làm MA LẬN (= làm nũng , làm giận)
+++ 37/b /4,5 : PHỤ MẪU CHI NGỮ --> MA LỆ (=lời ) áng nạ
+++ 15 / b / 1 ; SINH LI THỰC KHẢ THƯƠNG -->: CỔ+LÔNG (=sống ) lìa hết thực khá thương
+++ 34 / a /4 : TỬ ẨM MẪU NHŨ :-->con uống CỰ+LỮ ( = sữa ) nạ
+++ 38 / a / 2 : ĐỀ KHỐC MỤC THŨNG -->: kêu khóc mắt CỰ+LĂNG ( = sưng )
*** Kế đõ chúng tôi so sánh một số ví dụ về các từ song âm (tức gồm “hai mã” M1/M2)
trong đó M1 có thể là tiền âm tiết A , BA , KHẢ ,XÁ ,ĐA ...
+++ 31/ b / 2 : TRẢM TOÁI KÌ THÂN -->: chém A BIẾM (=băm ) trong vóc này
+++ 43/ a / 5 : PHÂN CỐT TOÁI THÂN --> CÁ+ĐÁT (=nát // đứt?) hết xương ,A PHÓ (= vỡ) hết mình
+++ 24 / a / 1 : GIẢ SỬ HỮU NHÂN -->: A DỮ ( = giá , giả sử ) cho có người
+++ 19 / b / 5 : KHỐN KHỔ CƠ LUY -->: đói A KẾ (= gầy )
+++ 20 / a / 2 : BÀNG TRUỚNG LẠN HOÀI :--> BA LĂNG ( = sưng ) trướng , A LUẬN ( = lụn ) nát
+++ 42 / a / 4 : NHẪN THỤ CAM TÂM -->: nhẫn chịu A NGÂM ( = ngâm // ngậm) trong lòng
+++ 43 / a / 1 : ĐÃI GIÁC TIỀN PHI --> A NỖI (= nỗi ) hay thác trước /“thác trước” = rằng trước là sai /
+++ 14 / b /1 : NHŨ BỘ DƯỠNG DỤC ÂN --> ơn bú mớm A NUÔI ( = nuôi ) nấng
+++ 14 / b /1 : NGHIÊM PHỤ PHỐI Ư THIÊN-->:cha nghiêm A TỊNH ( = sánh ) chưng BÀ LỜI (= trời )
+++ 29/ a / 4 : DUNG THIÊU ĐỒNG TRẤP -->: nấu nước đồng, đổ , A LUẬT (= rót // trút )
+++ 38/ a / 1 : HÀ BẤT TẢO TỬ-->: sao chẳng A BÔI ( =vội ) chết
+++ 27/ a / 2 : ĐẢ CỐT XUẤT TỦY -->: A KHÔ ( = gõ ) cốt ra óc
+++ 22/ b / 5 : CAO THANH XƯỚNG NGÔN-->:kiện ( “lớn “) tiếng A XƯỚNG ( = xướng ) rằng
+++ 29 /a/ 5 : THIÊU TIỄN CHỬ CỨU--> đốt ,cháy , nấu , A LANG (=rang )
+++ 38/b/4 : TỐC ĐẮC GIẢI THOÁT -->:vội được A+LẠI A+LA (= giải//rẫy) ( =ra)
+++ 14/a/4 : LUNG LỘNG TRẤN NĂNG HOAN -->:A+PHỔ A+ PHÊ (=vỗ về ) một dường hay vui
+++ 41/a/2 : CHÍ TÂM SÁM HỐI :--> BA + ĐỂ (= đáy) lòng sám hối
+++ 5 /a/1 : NAM MÔ CÁT TÍ CỨU PHỤ VƯƠNG :-->kính lễ bồ tát cắt BA+LAI (=vai) tay mà
trợ TƯ+BỐ (= vua ) cha
+++ 22 / b /1 : PHỤ MẪU ÂN ĐỨC VÔ LƯỢNG ,VÔ BIÊN :--> ơn đạo áng nạ BA GIA (= xa ) thay,
nhiều thay
+++ 19 /a /4 : TẬP DĨ TÍNH THÀNH --> BA DỤC ( = /thành /duộc ) đã nên tính
+++ 18 / a/ 3 : HÔN GIÁ TẬP HỌC BỊ CẦU CHƯ NGHIỆP:--> cưới gả BA DỤC (=duộc)học
no kiếm song viết (= tài sản ) /SONG VIỆT > SONG NGUYỆT >SONG VIẾT /
+++ 20 /a/3 : HOAN ÁI TRƯỜNG QUAI -->: lòng TƯ+ BÔI (=vui) dấu BA HẰNG (= hằng ) rời
+++ 15 /b/1 : VIỄN HÀNH ỨC NIỆM ÂN -->:ơn đi KHẢ DA (=xa ) ,KHẢ NHỮ (=nhớ) lo
+++ 43/a/2 : TƯƠNG THỤ PHI DAO--> : đáng chịu chẳng KHẢ XA(= xa )
+++ 41/b/2 : ÂN TRỌNG KHÂU SƠN -->: ơn nặng bằng núi đất núi LA ĐẢ (=đá )
+++ 5 /b/3 : ĐẮC VĂN BÁT CHỦNG THANH -->: được X A MÃNG (= mắng =nghe ) tám đấng tíếng
+++ 36/b/3 : TIÊN DỮ KÌ TỬ --> : xưa XÁ CHU (= cho,hãy cho) con mặc .
+++ 6 /a/5 : NGUYỆN PHẬT KHAI VI MẬT-->:nguyện Bụt XÁ MỸ (= mở) thứ nhiệm nhặt
+++ 7 / a/3 : THẾ TÔN NHƯ LAI THỊ TAM GIỚI ĐẠI SƯ :--> Bụt là XÁ LẠI (=thầy//
tam giới
+++ 3 /a/1 : PHỔ THỈNH ĐẠI CHÚNG CUNG KIỆT CHÍ THÀNH CHIÊM NGƯỠNG CHÂN
THỪA QUYẾT :-->khắp thỉnh hết đại chúng XÁ KÍNH (=kính) hết thửa BA+ĐỂ(=đáy)
tin, ĐA BỒNG (=buông // võng ?)CÁ+ LUNG (=trông) giáo thực mà thốt
+++ 38/a/4 : NHỮ HẢO ĐỀ THÍNH :-->mày chỉn XÁ SÁT (=xét) nghe
+++ 34/b/1 : DUY NGUYỆN THUYẾT CHI-->:duy nguyện Bụt XÁ THUYẾT (=thốt) đấy
+++ 41/a/1 : QUI MỆNH LỄ SÁM HỐI -->: ĐA+MÊ (= về ) mệnh lễ mà sám hối
2/ Sơ bộ nhận định :
A/---Nội dung các câu Nôm trên đây chưa ai dám chắc đã giải thích đúng 100%;
---Và thế cũng có nghĩa là hệ thống văn tự Nôm trên đây rất cổ ,chúng ta nắm cũng chưa chắc đủ vững !
So với các bài PHÚ ĐỜI TRẦN rõ ràng trong danh sách này có số lượng kết cấu cổ nhiều hơn hẳn,khó hơn hẳn .
B/--Lại có khả năng có chuyện kị húy chữ CAN //CÀN đầu đời Lí mà Thiền uyển tập anh đã nêu lên. ( trang 49-50 trọng N.Đ Thọ).Về chữ húy nào cũng vậy , không thể chỉ dựa vào vài câu định nghĩa, vài thủ tục quen thụộc là xong. Muốn rút từ thực tiễn muôn hình muôn vẻ của kiêng húy , tất nhiên phải chú ý đầy đủ tất cả các mặt có thể có ,nhưng cũng phải có sự nhạy cảm cần thiết trước những gì là bất thường .
***Kiêng húy chỉ thực hiện thực sự nghiêm túc ở các kì thi, ở công văn kính gửi lên vua và triều đình . Còn ngoài ra ,thống kê cho thấy thường thì 70% không kị húy (xem N.Đ.Thọ ,trang 88 ,89 ) .Vậy ở 9 bia , chuông đời Lý hiện thấy 3 tên trên 9 đời vua vẫn có tự dạng bình thường , ta cũng chưa nên vội kết luận đời đó xã hội đã bỏ lệ này .Năm 907 chính quyền Bắc thuộc vẫn còn ban ra một cái lệnh rất nổi tiếng về kị húy !
***Trường hợp CAN// CÀN tuy chỉ là tước hiệu PHỤNG CÀN VƯƠNG ,nhưng kị húy tước hiệu cũng là chuỵện bình thường :TÂY VƯƠNG TRỊNH TAC bên Chúa Trịnh , HOẰNG NGHĨA VƯƠNG bên Chúa Nguyễn cũng đều kị húy tên tước như thế cả.(TÂY có bản Kiều viết TÂY bỏ bớt nét , có bản kị húy thành TAY ; NGHĨA ở miền Nam thì thường hay đổi thành NGÃI) . Ngay cái chức ĐỀ ĐIỆU thay mặt vua ở các kì thi mà cũng luôn luôn được kị húy .
*** Kì húy có rất nhiều cách thực hiện, rất đa dạng .Có kị húy theo sự chấp nhận của xã hội , có kị húy theo lệnh vua . Mà trường hợp theo lệnh vua ,chỉ căn cứ một triều Nguyễn thôi đã thấy không biết bao nhiêu là vấn đề.
Việc dùng tục tự , dùng “dị thể trong chữ húy “ là một vấn đề như vậy , gần đây vừa được Ngô Đức Thọ nêu ra (xin xem trang 184 ) . Trong Thiền uyển tập anh xưa cũng đã từng nêu ra , với hai ví dụ :
--Một ví dụ rất đạt ,như việc dẫn chữ DIỆU có bộ HUYỀN để kiêng húy chữ DIỆU có bộ NỮ ( trong tên mẹ Trần Thái Tông );
--và một ví dụ không thật đạt , vì chép nhầm tục tự CAN // CÀN thành chữ một chữ YẾT không có liên
quan gì về âm và nghĩa cả ?
Động đến tục tư là .động đến một vấn đề bất thường , hiểm hóc không phải ai ai cũng biết .Ngoài ra lại có vô số những tục tự ngay trong Hán văn của riêng người Việt Nam nữa .Bàn đến tục tự gốc Việt ,nói riêng ,bàn đến chữ húy của người Việt , nói chung, mà chỉ biết bám vào tự điển Hán ., truyền thống Hán là chệch hướng .
Hướng đi đúng đắn phải là tổng kết đầy đủ cả mặt cứ liệu tiếng Hán cả mặt cứ liệu Hán Nôm của Việt Nam. Nếu không, thì cứ giữ những định kiến sai lầm như tên húy nào cũng có ở Khang Hy , không dị thể nào ( tức tục tự nào )có thể dùng để làm dạng kiêng húy v.v..Xin xem tên KHOÁT trong lệnh của Tự Đức năm 1861 ;xin so sánh 2 chữ HẰNG( một tên húy,một kiêng húy ) trong bản Phụ lục 2 của G.S. Trần Kinh Hòa thì sẽ rõ .
C/ Tóm lại có đủ điều kiện để đưa văn bản này lên giai đọan đầu đời Nhà Lý được lắm .
PHẦN THƯ HAI
MỘT BẢN DICH NÔM ĐẦU ĐỜI LÝ :
BẢN “PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁO PHỤ MẪU ÂN TRỌNG KINH “
1/ Về bản kinh Phật dịch Nôm này ,giới nhiên cứu , như trên vừa nói, đã bỏ nhíều công sức Một số lớn chi tiết đã được mô tả khá tỉ mỉ , nhất là về tính chất cổ kính của nó Cổ kính hơn bất kì văn bản Nôm nào hiện biết .
Nhưng về mặt niên đại cụ thể của nó thì , tiếc thay , chưa ai xác định được rõ !
Chúng tôi cũng đã có 2 bài đưa ra về vấn đề này, nhưng do viết còn nhiều sơ hở , sai lầm nên nay tự thấy cần phải đính chính .
2/ Bản kinh dài khoảng 90 trang ,gồm hai phần chính: phần chữ Hán tương đối thống nhất trong toàn vùng và phần dich Nôm do người Việt Nam thực hiện . Phần chữ Hán thường giúp cho người đọc luận ra ngữ nghĩa cổ và.kết cấu cổ của từ ngữ Việt ; phần Nôm là một kho tàng về các tự dạng cần tìm hiểu : những lối viết chữ xa lạ với số lượng khá nhiều , với nhiều cấu trúc 2 mã ; những ví dụ về tổ hợp phụ âm ghép không hề có trong các tự điển ; các kiểu tiền âm tiết phong phú , đa dạng ;và các kiểu viết tắt thế này thế nọ v.v.
Nhưng ngoài ra ,cũng cần phải kể thêm một phần nữa , mà theo ý riêng , chúng ta phải đặc biệt coi trong và nghiên cứu tiếp : đó là phần sửa chữa xưa kia của người hiệu đính. Sửa chữa có khi sai ,có khi đúng , nhưng cái quí nhất là người hiệu đính rất tôn trọng văn bản cổ ,ít khi tiến hành xóa bỏ hẳn một chữ nào .
Cọng cả ba phần trên đây , nhìn chung , chúng ta cũng đã có tí chút vốn liếng , hi vọng có thể soi sáng ít nhiều cho vấn đề niên đại.
3/ Trong phần kinh bằng chữ Hán rõ ràng có 3 chữ kị húy liên quan đến 3 triều đại:
a) Xin nói ngay :đó là 3 chữ LỢI , TRẦN và CÀN .
---Chữ LỢI 1 lần khắc theo lối “gia dạng” ở trang 6 /a và có thể cả vài lần khắc hơi lạ, theo tục tự (ở trang 25/ a và trang 41/b ...) đều là vết tích kị húy của ván khắc giai đọan Lê Sơ ;
---Chữ TRẦN 2 lần khắc theo tự dạng ĐỒNG+ VĂN(?), không có trong Khang Hi ( ở trang 42/b và 43/ a ) là cách kị húy biểu thi sự tôn trọng giai đọan dòng họ nhà TRẦN đang cầm quyền ;
---Còn chữ CÀN lại là một vết tích kị húy khoảng đầu thế kỷ 11 đời nhà Lý..
b) Mà sở dĩ phải kiêng húy cách phát âm CÀN là vì năm 1035 vua Lý Thái Tôn
đã phong tước vương riêng cho một mình hoàng tử Lý Nhật Trung và từ đấy hoàng tử được mang tước hiệu đặc biệt là PHỤNG CÀN VƯƠNG. Và cũng từ đây sự tín nhiệm của Lý Thái Tông đối với PHỤNG CÀN VƯƠNG càng ngày càng gia tăng : hễ vua phải thân chinh đi đánh đâu xa là PHỤNG CÀN VƯƠNG thường được chỉ đinh giao giữ chức “lưu thủ Kinh sư”,lo lắng an ninh ,chống bạo loạn.
Triều đình kính nể,sư sãi kính nể, chuyện kiêng kị tên húy CÀN được khắc 3 lần vào văn bản của bộ kinh PHẬT THUYẾT là một chuyện đang chú ý (xin xem trang 11/b, trang 18/ a và trang 34/a )
CHÚ THÍCH :
*** Sách Thiền uyển tập anh chắc vì chép theo , nhưng chép không đúng chữ húy trong một bản PHẬT THUYẾT cổ , đương thời, nên 2 lần , trong 2 truyện , đều đem chữ CÀN thay thành chữ YẾT ,làm cho giới nghiên cứu mới phát sinh nghi ngờ; /3/
*** Nhưng do đó ,năm 1979, nhân tình cờ gặp lại được bản PHẬT THUYẾT đầu thế kỉ 18 bên Pháp gửi về ,ai cũng mừng ,bỗng tìm thấy lạị được nguyên nhân : bộ phận bên trái chữ CÀN của đời Lý vốn rất chính xác , nhưng vì tự dạng quá giống nên chuyển thành bộ XA ,đơn giản thế thôi ! Có thể nói gần một ngàn năm qua chân lí lại được phơi bày ra ánh sáng ! /4/
4/ Định niên đại của chữ húy CÀN như vậy ,theo ý chúng tôi , cũng là gợi lên hướng xác định niên đại của toàn bộ bộ kinh .Có chữ CÀN kị húy tức là có việc dịch kinh,việc in kinh . Chữ CÀN đã gắn với khoảng đầu thế kỉ 11 thì toàn bộ bản kinh cũng vậy .Đây phải là một bản kinh cổ , cơ bản dich đầu đời Lý, mang phong cách từ ngữ và văn tự của đầu đời Lý , kể cả phong cách kị húy .
Đến đời Trần , đời Lê ,khi cần chép lại , người ta vẫn hầu như chép nguyên như cũ.
Lệ ngọai cũng có nhưng đó chỉ là sự thay đổi cách viết ở đôi ba chữ cần kiêng kị . .
Cũng có thể đã để xảy ra một số thay đổi lẻ tẻ nào đó nữa , nhưng điều đó không có tác động gì đáng kể về mặt niên đại .( ví dụ SONG VIỆT > SONG NGUYỆT /với nghĩa là “tài sản “,về sau đọc thành SONG VIẾT / là diễn biến khoảng cuối thế kỉ 13 )
5/Nếu phần chữ Hán trên đây đã giúp chúng ta xác định niên đại bằng chữ húy thì phần Nôm và phần đính chính lại giúp chúng ta đoán ra niên đại bằng đặc điểm các từ ngữ của chúng .
Theo bài viết của nhà nghiên cứu Nhật Bản Shimizư đã nói trên đây, thì từ bản Kinh này :
---có dẫn 21 tổ hợp phụ âm với cách ghi Nôm cụ thể ,độc nhất vô nhị ,không còn đâu gặp nữa ( chỉ trừ 3 trường hợp về sau có ở Maiorica ) , ví dụ:
*** Bl : như ở BA LỮ (=blở > trở )
*** Khl : như ở KHẢ LIỆT ( =Khlắt /Rục / >sắt )
*** Phl : như ở PHA LẬT (= blat /A.D.Rhodes />trật )
*** Ml : như ở MA LÂN (= plăn / RỤC / >lăn )
*** Kl : như ở CỰ LỮ (= sữa )
CHÚ THÍCH :Sở dĩ chúng tôi chọn bản Maiorica để so sánh là vì bản đó đủ xưa
( thế kỉ 17 ) mà lại không bị nạn sao đi chép lại như nhiều bản khác .
---Và 46 từ song âm -- cũng gọi là“ từ hai mã” -- mà tuyệt đai đa số ( chỉ trừ 2 lệ
ngọai có trong Maiorica ) đều chưa từng gặp một cách trùng lặp trong bất kỳ tác
....phẩm một trìều đại nào ,kể từ đời Nguyễn, đến các đời Lê,Trần ,ví dụ như:
***(CON ) RẮN ghi Nôm là PHÁ TÁN ( so sánh vơi TẮN của Nghệ Tĩnh , THẮN
hoặc XẮN của Mường ; hoặc PUXI-NH của Rục )
***MĂNG trong MẮNG TIN với nghĩa là “nghe”: ghi Nôm là XA MÃNG ( ở Rục là
CHA-MĂNG)
***THẦY ghi Nôm là XẤ LẠI ( so sánh với XƠ RƠI âm cổ chữ SƯ trong tiếng
Hán )
*** VUI ghi Nôm là TƯ BÔI ( so sánh với BUI của Huế., PUI ,PHUI của
Mường ).Ở RỤC là TAPUI .
Vậy gần 70 cách ghi Nôm hiểm hóc , hiếm có trong 2 danh sách này là từ đâu mà
ra ? Tất nhiên là từ các cây bút sáng tạo của các nhà sư giỏi Hán-Nôm .Nhưng như đã nói, đó phải là các nhà sư đời Lý với những phong cách viết Nôm khác hẳn 3 giai đọan Nguyễn ,Lê, Trần. Khác , vì đây có lẽ là 70 trường hợp chính sư nhà Lý đã tự nghĩ ra đầu tiên , rồi các đời sau đổi cách viết đi , chỉ bắt chước theo kiểu Lý ở đôi ba chữ lẻ tẻ mà thôi .
Nói sư đời Lý cũng dễ hiểu .Họ Lý xuất thân từ cửa Phật .Họ đã cử người đi thỉnh kinh Tam Tạng (1020) ,đã xây chùa (1024), tổ chức việc chép kinh (1027 ) ,đúc quả chuông vạn cân (1033) , đã dựng kho Trùng Hưng để chứa kinh.(1034).thì chắc chắn họ cũng rất quan tâm đến cả.việc dịch kinh .
Có thể giả thuyết, năm 1035 ,khi hoàng tử Lý Nhật Trung được phong tước PHUNG CÀN VƯƠNG , ông đã được giao cho tổ chức việc dích kinh , in kinh ,nên các nhà sư kính nể , đã đưa chữ CÀN của ông vào kị húy trong bản kinh.
6/ Cuối cùng cũng cần nhắc nhở nhau một điều là :chữ Nôm thời Lý mới hình thành, chưa có nhiều kiểu lọai văn bản pha tạp : chữ TRẢ // GIẢ bao giờ cũng viềt thành BẢ( < Blả); chữ TRONG bao giờ cũng viết thành CÔNG ( < Klong ). Nếu so sánh 93 chữTRONG của bản PHẬT THUYẾT với cách viết TRONG ở các đời sau ( thơ QUỐC ÂM của Nguyễn Trãi ,CHỈ NAM NGỌC ÂM v.v. ) thì ai cũng dễ nhận thấy bản PHÂT THUYẾT có một phong cách viết CÔNG > TRONG hết sức thống nhất ,hết sức nhất quán , có thể tạm gọi đó là phong cách NÔM ĐỜI LÝ .
7/ Đến đây xin tạm có một vài suy nghĩ :
--- Trước nay nhiều chuyện chúng ta chỉ dựa vào truyền thuyết để phỏng đoán.
Như về thời điểm xuất hiện của Thơ Nôm , Văn tự Nôm , chúng ta phỏng đoán ước chừng là vào khoảng thế kỉ 13 ,dựa trên các truyền thuyết về Văn tế cá sấu của Hàn Thuyên (đời Trần Nhân Tông ,1279--1293), hay về thơ ca của Nguyễn Sĩ Cố (đời Trần Anh Tông ,1293--1313) hoặc của Chu Văn An ( đời Trần Dụ Tông,1341--1368) v.v.
--- Hiện nay chúng ta không cần phỏng đoán như thế nữa , vì đã có trong tay
một bản kinh PHẬT THUYẾT bằng chữ Hán với niên đại sớm hơn truyền thuyết Hàn Thuyên,Chu Văn An hằng 2,3 thế kỉ ; vì chắc in khắc khoảng đầu đời Lý, với 3 dòng có chữ kiêng tên húy của vị hoàng tử được phong tước PHỤNG CÀN VƯƠNG năm 1035 ;
--- Nhưng chúng ta đâu đã hết những cái khó với bản dich Nôm và ngay với cả thứ văn tự gọi là Chữ Nôm đó .
*** Chúng ta có bản DỊCH NÔM , nhưng đọc bản dịch Nôm lắm lúc lại càng khó hiểu hơn là đọc bản chữ Hán! Mối quan hệ giữa cả câu văn Hán Việt với cả câu nói Nôm đâu có gần gũi ,dễ luận ra như khi nghiên cứu đa số các văn bản Trần , Lê , Nguyễn về sau .
***Và cái hệ thống CHỮ VIẾT nôm na mới được đưa vào sử dụng cũng vậy .Giá trị của từng thanh phù , từng nghĩa phù (nhất là của thanh phù ) nhiểu khi thật khó đoán nỗi .Có thể có những thanh phù gần âm hay cả đồng âm nhưng trái nghĩa . Nói chung , xuất phát từ các kí hiều chữ Nôm ghi trên mặt giấy mà nhận diện cho ra cái từ cần biết là cả một bài toán .rắc rối !
---Vây khả năng làm sáng tỏ thêm sự hiểu biết về văn bản nói chung ,và riêng vê
đặc điểm niên đại từng yếu tố của nó , nói riêng , vẫn đang là cả một vấn đề .Cái chính là chúng ta phải cùng nhau nỗ lực nghiên cứu tíếp.
==============================
CHÚ THÍCH :
1/Bản này là bản in mộc bản do Trịnh Quán thuê khắc đầu thế kỉ 18.Vào khoảng
những năm 1922--1924 G.S. Demieville đã mua được và mang về Pháp .
Hiện nó được giữ tại Hội Á châu học , với kí hiệu PD. 2350.
Anh Tạ Trọng Hiệp đã có công lớn bồi dán lại rồi sao chụp , mang nó về nước năm 1979.
2/ Xin xem chẳng hạn hai công trình :
---Hoàng Thi Ngọ --Chữ Nôm và tiếng Vịêt qua bản giải âm PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁO PHỤ MẪU ĂN TRỌNG KINH --Hà Nội ,1999
---Masaaki SHIMIZU --On the CHU NOM characters contained in Sino-Vietnamese
text of PHAT THUYET DAI BAO PHU MAU AN TRONG KINH bản tiếng Nhật , năm 1996
3/Xin xem :Ngô Đức Thọ-CHỮ HÚY VIỆT NAM QUA CÁC TRIỀU ĐẠI--Hà Nội,1997.
Ngô Đức Thọ thấy rằng cácdạng kị húy của chữ CÀN trong Thiền uyển tập anh
tự điển lại đọc thành YẾT , nên phát sinh nghi ngờ ,nhưng ta có thể lập luận như sau :
---các trường hợp ấy , căn cứ ý nghĩa trong các câu kinh , đều phải kết luận vốn là
những chữ CAN ( phải dịch Nôm là “ khô ráo “ ) ,chỉ bớt nét của KHẤT , đổi KHẤT thành sổ đứng có móc ngược là được .Mà khi đã kị húy theo mặt tự dạng như vậy thì CAN không húy thành YẾT được mà sẽ thành CÀN !
--- Còn thời gian trong kinh PHẬT THUYẾT khắc kiêng húy chữ CAN//CÀN thì đang là đời vua Thái Tông , nên các tên húy khác như UẨN, MÃ,. không bị động chạm.-
4/ Một dạng kị húy có khi có thể có nhiều cách giải thích khác nhau .(Xin xem Phụ lục 2 của G.S.Trần Kinh Hòa ; xin xem các chữ TRẦN trong Phật thuyết và trong Khang Hy ) . Dựa vào văn cảnh , ở đây chúng tôi nghiêng về giải thích bằng tục tự .