Góc nhìn văn hóa

80 năm đội quân văn hóa đồng hành cùng dân tộc

Như nước Đại Việt ta từ trước

 Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”

(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)

Chương trình nghệ thuật đặc biệt kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập ngành Văn hóa (28.8.1945-28.8.2025)

Đội quân văn hóa - một thực thể Việt trong thời đại mới

Nền văn hóa, văn học nghệ thuật cách mạng Việt Nam 80 năm qua (1945-2025) phát triển dưới ánh sáng của chiến lược “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” (Chủ tịch Hồ Chí Minh), “Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Tinh thần chiến lược văn hóa được thể hiện sâu sắc và triệt để từ Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943 đến các Nghị quyết của Đảng về văn hóa, văn học nghệ thuật trong lịch sử Nhà nước dân chủ nhân dân (1945-2025) luôn luôn là kim chỉ nam hành động của đội ngũ văn nghệ sĩ đông đảo (hơn 40.000 hội viên) hoạt động trong các chuyên ngành nghệ thuật ở Trung ương và địa phương. Trong cuộc gặp gỡ các đại biểu văn nghệ sĩ (ngày 30-12-2024, tại Hà Nội), Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định “Với những đóng góp to lớn, đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng đã trở thành đội quân văn hóa của Đảng, nhân tố làm nên sức vóc, bề dày văn hóa mới, thúc đẩy quá trình hình thành, phát triển ngành công nghiệp văn hóa định hướng XHCN, không ngừng nuôi dưỡng cuộc sống tinh thần của quần chúng nhân dân, góp phần bồi đắp nền văn hiến lâu đời, đặc sắc của dân tộc, làm rạng rỡ non sông đất nước; được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng, danh hiệu cao quý, hơn hết, đã đi vào lòng người, thành hành trang tinh thần tri kỷ và quý báu của nhân dân ta. (....). Đảng, Nhà nước, Nhân dân trông chờ và tin tưởng vào sự chuyển mình, vươn lên mạnh mẽ, đóng góp tích cực của đội ngũ văn nghệ sĩ trong giai đoạn cách mạng mới” (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; số 593, Xuân Ất Tỵ, 2025). Văn hóa, văn học nghệ thuật Việt Nam đang dàn thế trận phát triển mới để xứng tầm với “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.

          Trong thế kỷ XX, lịch sử Việt Nam trải qua những biến động lớn lao quyết định vận mệnh dân tộc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây cũng chính là sự mở đầu thời đại Hồ Chí Minh quang vinh. Sự nghiệp Đổi mới (từ 1986) do Đảng khởi xướng và lãnh đạo với những thành tựu to lớn đưa đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế cao nhất so với thời kỳ trước. Đổi mới, vì thế được coi là thời kỳ khởi động, tích lũy năng lượng, làm đà để dân tộc vươn mình phát triển. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, nhìn biện chứng, bắt nguồn từ thời kỳ Đổi mới. Theo cách hiểu này thì, thành tựu của văn hóa, văn học nghệ thuật Đổi mới (1986-2025) cũng chính là động lực thúc đẩy văn hóa, văn học nghệ thuật ngày nay vươn mình, phát triển bền vững, gánh vác sứ mệnh tinh thần lớn lao trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Những cuộc kháng chiến cứu quốc và sự nghiệp kiến quốc của dân tộc 80 năm qua là tổng hợp sức mạnh của các đội quân chính trị, ngoại giao, đội quân chiến đấu (quân đội) và đội quân văn hóa. Kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành Văn hóa Việt Nam (28/8/1945 - 28/8/2025) chúng ta càng thấu triệt về “sức mạnh mềm” của văn hóa, càng tri nhận sâu sắc văn học nghệ thuật là bộ phận tinh tế nhất, có ý nghĩa nội sinh của văn hóa. Thiết nghĩ, trong thế giới hiện đại, ít thấy ở quốc gia nào có được một thực thể “đội quân văn hóa” hùng hậu và sinh động như ở Việt Nam hiện nay. Ở đây không phải là vấn đề số lượng, mà là chất lượng theo quy luật khắt khe của sáng tạo nghệ thuật “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Nhưng theo tinh thần biện chứng thì “lượng đổi dẫn đến chất đổi”. Vì thế, định lượng và định tính là hai phạm trù của một sự vật trong thế phát triển của nó. Đội quân văn hóa trong tâm cảm người Việt Nam chính là những chiến sĩ văn hóa phụng sự đất nước, Nhân dân bằng cả cải tâm và cái tầm của mình, sáng tạo những công trình, kỳ đài văn hóa, văn học nghệ thuật độc đáo, để đời. Những kỳ đài lưu dấu văn hóa về lịch sử, xã hội và đời sống cộng đồng qua những biến thiên lịch sử trọng đại.

Đội quân văn hóa khởi nguồn từ Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam

Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo năm 1943, được đăng toàn văn trên Tạp chí Tiên Phong số 1

Nói đến sự ra đời của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam (1943) đồng thời phải nói đến vị trí và vai trò mở đường văn hóa của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943 do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo. Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943 được coi như là chính cương, chiến lược văn hóa của Đảng thời kỳ tiền khởi nghĩa có giá trị bền vững cho đến tận hôm nay, vượt qua thử thách của thời gian hơn 80 năm. Với nội dung khoa học và tỉnh thần triệt để cách mạng (Dân tộc hóa - Khoa học hóa - Đại chúng hóa), bản Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943 được coi là một Tuyên ngôn văn hóa Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Tổ chức Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam khi mới thành lập (1943) đã thu hút nhiều nhà hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật nổi tiếng lúc bấy giờ như Học Phi, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Thép Mới,…  dưới sự chỉ đạo của Đảng thông qua các đồng chí cán bộ Đảng được cử xuống như Lê Quang Đạo, Trần Độ, Vũ Quốc Uy, Trần Quốc Uy,... với phương châm “Văn hóa khi đã xâm nhập vào đại chúng thì cũng tác động như một sức mạnh vật chất”.

Lúc bấy giờ trong tâm tưởng mới, niềm cảm xúc mới háo hức “lên đàng”, được coi như một hành xử hợp thời với người văn nghệ sĩ, trí thức am hiểu thời cuộc. Lên đàng (Lên đường) là một nhạc phẩm (của hai nhạc sĩ Lưu Hữu Phước và Huỳnh Văn Tiểng) ra đời vào năm 1944, được phổ biến rộng rãi trong thanh thiếu niên và học sinh, được coi là bài hát chính thức của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Cũng chính ông, khoảng 1942-1943 đã sáng tác nhạc phẩm Hát Giang trường hận gợi nhớ đến công ơn và sự hi sinh của Hai Bà Trưng, về sau đổi thành Hồn tử sĩ để tưởng nhớ và chiêu hồn các anh hùng liệt sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp (vào những năm 1945-1946). Cùng năm 1944, nhạc sĩ Văn Cao sáng tác Tiến quân ca (bài hát được chọn làm Quốc ca chính thức của nước VNDCCH từ 13/8/1945 đến 01/7/1976 và Quốc ca chính thức của nước CHXHCNVN, từ 02/7/1976). Trong tháng 8/1945, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi sáng tác nhạc phẩm Diệt phát xít vang lên âm điệu hùng tráng, sau này được dùng làm nhạc hiệu cho chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam. Rõ ràng, những chiến sĩ văn hóa của đội quân văn hóa của Đảng đã hành trình suốt chiều dài lịch sử dân tộc thời kỳ Nhà nước dân chủ nhân dân. Chính nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sau này dưới tên tác giả Huỳnh Minh Siêng, đã sáng tác nhạc phẩm Giải phóng miền Nam, trở thành Quốc ca chính thức của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969-1976).

Đội quân văn hóa trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến thần thánh

Trong mười ngàn ngày kháng chiến (1945-1975) chống xâm lược Pháp và Mỹ, đội quân văn hóa Việt Nam đã thực sự lớn mạnh và trưởng thành. Muôn người như một, xác định vị thế (chỗ đứng) của mình trong thời đại cách mạng và chiến tranh “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy” (Chế Lan Viên). Theo cách diễn đạt của Xuân Diệu thì những chiến sĩ văn hóa đã “vào trận” - đồng hành cùng đất nước, Nhân dân “Tôi cùng xương thịt với Nhân dân của tôi/Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu/Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/Của triệu người yêu dấu gian lao” (Những đêm hành quân).

Trong đội quân văn hóa hùng hậu tham gia cách mạng và chiến tranh, có một đội ngũ rất lớn các “nhà văn mặc áo lính”, những nhà văn chiến sĩ. Tạp chí Văn nghệ quân đội (thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) đã xuất bản bộ “tùng thư” Tổng tập Nhà văn Quân đội (NXB Văn học ấn hành, 2023, gồm 5 tập, với 5.000 trang in khổ lớn), giới thiệu 366 nhà văn quân đội đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển của văn học nước nhà qua hai cuộc kháng chiến cũng như thời hòa bình xây dựng đất nước. Chúng ta thử hình dung, trong hơn 1.600 nhà văn (theo sách Nhà văn Việt Nam hiện đại, in lần thứ V, NXB Hội Nhà văn, 2020) có đến 366 nhà văn khoác quân phục xanh, thì “văn nghệ quân đội” không đơn giản chỉ là tên gọi một tạp chí văn học của lực lượng vũ trang nhân dân, nó nói đến nội hàm của nền văn học được khẳng định “Xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn học chống đế quốc trong thời đại ngày nay”. Nói hình tượng thì, Văn nghệ quân đội là một sinh thể trong sinh thể vĩ mô - nền văn học cách mạng Việt Nam 80 năm qua. Quả thật là, chỉ có ở Việt Nam mới có các thực thể “Văn nghệ quân đội” cũng như “Văn nghệ công an”.

Thế hệ chúng tôi sinh vào đầu những năm 50 của thế kỷ trước còn ấn tượng sâu sắc và mạnh mẽ với điện ảnh cách mạng Việt Nam được các nhà làm phim tài năng sáng tạo qua các bộ phim truyện thành công như Chị Tư Hậu, Vĩ Tuyến 17 ngày và đêm, Chung một dòng sông, Chim vành khuyên, Tiền tuyến gọi, Nổi gió, Bài ca ra trận, Đường về quê mẹ,.. và nhiều bộ phim tài liệu có giá trị khác (có một con số đáng khắc ghi: từ 1960-1975 có gần 300 cán bộ, nghệ sĩ điện ảnh đã hi sinh trên khắp các nẻo đường của đất nước thời chiến tranh - theo VietnamPlus, 15/3/2023). Những ca khúc đi cùng năm tháng trở thành những “Giai điệu tự hào” (được gọi là nhạc Đỏ) như Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người, Tình ca, Lên ngàn, Xa khơi, Bài ca hy vọng, Lá đỏ, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, Màu hoa đỏ,... Tên tuổi các nhạc sĩ tài danh đã cống hiến cho sự nghiệp chung được ghi vào bảo tàng về âm nhạc như Lưu Hữu Phước (Huỳnh Minh Siêng), Trần Kiết Tường, Hoàng Việt, Đỗ Nhuận, Trọng Bằng, Hoàng Vân, Nguyễn Văn Tý, Văn Ký, Xuân Hồng, Phạm Tuyên, Phan Huỳnh Điểu, Thuận Yến, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du...  Chúng tôi cũng được thưởng thức những họa phẩm của các danh họa Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh,  Phan Kế An, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên,... Có họa sĩ  như Tô Ngọc Vân hy sinh trên chiến trường Điện Biên Phủ 1954; có nhạc sĩ là lính văn hóa trên chiến trường Điện Biên Phủ như Đỗ Nhuận; có họa sĩ lính trận như Lê Duy Ứng, bị thương hỏng mắt, nhưng vẫn nung nấu vẽ chân dung Bác Hồ bằng máu của chính mình.

Thiếu nữ bên hoa huệ - Kiệt tác nghệ thuật của Tô Ngọc Vân

Trong đội quân văn hóa thời kỳ chiến tranh đã có những nhà văn - liệt sĩ ngã xuống trên chiến trường như Trần Đăng, Nam Cao, Thâm Tâm, Thôi Hữu, Hoàng Lộc, Dương Thị Xuân Quý, Nguyễn Ngọc Tấn (Nguyễn Thi), Ngô Kha, Chu Cẩm Phong, Lê Anh Xuân, Lê Vĩnh Hòa, Nguyễn Mỹ, Bùi Nguyên Khiết,...

Đội quân văn hóa trong sự nghiệp Đổi mới

Sự nghiệp Đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo (từ 1986) đã đưa đất nước ta từ nghèo nàn, chậm phát triển sau chiến tranh sang một trang lịch sử mới. Sự nghiệp cứu quốc nay chuyển sang sự nghiệp kiến quốc là một thử thách lớn lao đối với toàn Đảng, toàn dân. Đổi mới phát huy dân chủ, đã “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, tạo khoảng rộng tự do cho tìm tòi và sáng tạo.

Người mở đường tài năng tinh anh sự nghiệp đổi mới văn học không ai khác chính là nhà văn Nguyễn Minh Châu và các đồng nghiệp, đồng đội “nhà văn mặc áo lính” khác như Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Thiều, Dũng Hà, Hữu Thỉnh, Vương Trọng, Anh Ngọc, Thái Bá Lợi, Chu Lai. Nguyễn Duy, Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha,  Hoàng Trần Cương, Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy, Bảo Ninh, Trần Đăng Khoa,... Tiếp nối là những nhà văn tài năng khác xuất hiện làm cho văn đàn Việt Nam khởi sắc, đa diện và phong phú như Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Xuân Trình, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Bắc Sơn, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư,...

 So với các lĩnh vực nghệ thuật khác như điện ảnh, âm nhạc, mỹ thuật thì văn học có vai trò chủ đạo, thống soái trong các cách tân nghệ thuật. Vì “Văn học là nghệ thuật ngôn từ”, trong khi “Ngôn từ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng”. Lý thuyết văn học nói đến vai trò “tấm gương phản chiếu thời đại”,  “thư ký trung thành của thời đại” của văn học và nhà văn là có lý, có tình. Văn học là loại hình nghệ thuật duy nhất có thể đi ra thế giới, xét trên thực tiễn VHNT Việt Nam hiện thời. Bởi thế mới có câu chuyện một giáo sư sử học người Mỹ (gốc Trung Hoa) Lai Chen Sun đến Việt Nam và trình bày tại khoa Văn học, Trường Đại học KHXH&NV (ĐHQG Hà Nội) một luận văn Ảnh hưởng quốc tế của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh (vào mùa hè năm 2019). Theo đó, chúng ta biết Nỗi buồn chiến tranh đã được dịch ra 18 thứ tiếng, xuất bản ở 22 nuớc trên thế giới. Gần gũi nhất, Nỗi buồn chiến tranh được nhà văn Hạ Lộ dịch sang tiếng Trung Quốc.

Bìa sách Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh

Nhân đây, chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh thêm một lần nữa, có nhiều nguyên nhân sâu xa thuộc về văn hóa - đạo đức - tâm lý nên các tác phẩm điện ảnh về chiến tranh vẫn còn giữ chân khán giả như các bộ phim của các nhà làm phim tài năng Đặng Nhật Minh (biên kịch và đạo diễn) với Bao giờ cho đến tháng Mười, Nguyễn Hồng Sến (đạo diễn) với Cánh đồng hoang, Phi Tiến Sơn (viết kịch bản và đạo diễn) với Đào, phở và piano và Bùi Thạc Chuyên  (viết kịch bản và đạo diễn) với Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối.

Đội quân văn hóa trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Văn hóa được xác định là một trong bốn trụ cột chính yếu của phát triển xã hội bền vững. Trong bối cảnh này, đội quân văn hóa hơn bao giờ hết cần được củng cố, phát triển đồng bộ, thực sự vững mạnh (hồng thắm, chuyên sâu). Trong thực tế, đội quân văn hóa đang có tâm tư, tâm trạng sau cuộc cách mạng về cơ chế (tinh gọn bộ máy Đảng và Nhà nước theo hướng hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả). Nếu chúng ta quan tâm tới đề thi tốt nghiệp THPT, năm 2025, môn Ngữ văn sẽ thấy một chủ đề lớn và hay bay lên “Dưới bầu trời Tổ quốc đâu cũng là quê huong”.

Đội quân văn hóa Việt Nam ngày nay không chỉ cần có tài năng và nhiệt hứng sáng tác những tác phẩm để đời mà còn cần cao vọng kiến tạo những tác phẩm có khả năng “đóng góp đối với văn minh nhân loại”. Đó là một đích tới cao cả. Chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, trong đó có văn hóa cũng có nghĩa là chúng ta đang bước vào một thời kỳ phục hưng văn hóa. Thời kỳ này, theo cách diễn đạt của Mác, cần thiết có những “con người khổng lồ”. Trong trường hợp này, chúng ta hiểu là cần những nhân tài/chân tài. Nhưng “nhân tài như lá mùa thu” (!?). Cần thiết phải có chính sách văn hóa khoa học, thiết thực, phù hợp để xây dựng đội quân văn hóa ngày càng hùng hậu đáp ứng nhiệm vụ của sự nghiệp kiến quốc - xây dựng nước Việt Nam hùng cường, giàu mạnh, văn minh, dân chủ và hạnh phúc./.

                                                                   Hà Nội - tháng 7/2025

                                                                                      B.T.A

(Bài đã đăng VHTT Nghệ An, số 18 - Tháng 9/2025) 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114618391

Hôm nay

249

Hôm qua

2415

Tuần này

2699

Tháng này

221405

Tháng qua

133594

Tất cả

114618391