Những góc nhìn Văn hoá

Góp Phần Nhận Định về Sự Du Nhập Của Nho Giáo Vào Việt Nam Dưới Thời Bắc Thuộc

Do thời gian quá dài của thời Bắc Thuộc, nhiều người thường cho rằng Nho Giáo đãđược người Trung Hoa truyền bá mạnh mẽvào nước ta qua chính sách đồng hóa củahọ. Điều này không hoàn toàn đúng. Sự truyền bá này chỉ diễn ra một cách giới hạn trong ít thế kỷ đầu của kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo và rất yếu ớt trong nhữngthế kỷ kế tiếp.

 Các nhà nghiên cứu vềlịch sử, tưtưởng và văn học Việt Nam thờicổgần đây hầu nhưđều đồng ý vềnhận định này. Câu hỏi tiếp theo được đặt ra làtại sao trong một thời gian dài tới mưòi thếkỷnhưvậy mà nguồn tưtưởng nòngcốt của sinh hoạt chánh trị, văn hóa, xã hội và luôn cảkinh tếcủa người TrungHoa đó đã không được phổbiến sâu rộng ởnước ta? Có phải là vì nó đã được “dunhập bằng con dường nô dịch”[1] hay vì “nó tượng trưng cho sựkỳthịvà áp bức dân tộc”[2] nên không được nguời Việt Nam hưởng ứng hay còn có những nguyên nhân nào khác? Trongbài này người viết chỉcốgắng góp một phần nhỏvào việc đi tìm những giải đápcho câu hỏi nêu trên bằng cách duyệt lại những nhận định của các nhà nghiên cứuthời trước và hiện tại dựa vào những tài liệu đã được rộng rãi lưu hành nhưngchưa được tận dụng khai thác. Công việc tìm kiếm, đào xới chắc chắn còn phải được thực hiện nhiều hơn nữavì đây là một vấn đềthen chốt liên hệđến nhữngdiễn tiến sau này của lịch sửvà văn hóa dân tộc. Bài viết bao gồm ba phầnchính, bắt đầu bằng những dữkiện đã được ghi nhận, tiếp theo là thực trạng củaviệc truyền bá và sau đó là những lý do khiến cho Nho Giáo đã không được truyềnbá sâu rộng ởViệt nam dưới thời Bắc thuộc.

Nhng dkin đã được ghi nhn

Các nhà nghiên cứu lịch sử, tưtưởng và văn học Việt Nam từNgô SĩLiên[3], Ngô Thời Sĩ[4], các tác giảcủa bộKhâmĐịnhVit SThông Giám Cương Mc[5] thờiNhà Nguyễn đến các học giảcận đại và đương thời nhưTrần Trọng Kim[6], Dương Quảng Hàm[7], Lê Thành Khôi[8] các tác giảcủaLchSVit Nam, tp I xut bn Hà Ni năm 1971[9]và 1991[10]đềughi nhận những sụkiện liên hệtới Tích Quang, Nhâm Diên, SĩNhiếp, Lý Cầm, LýTiến, Trương Trọng, Khương Công Phụ, các trí thức người Trung Hoa chạy sang CổViệt dưới thờiVương Mãng hay sau khi Hán Linh Đếmất… nhưlà những sựkiện liênhệtới việc Nho Giáo được truyền bá vào nước ta.Sựkiện này khởi đầu bằng việcTích Quang dạy dân lễnghĩa, Nhâm Diên bắt dân lấy vợ, lấy chồng, xuyên qua việcSĩNhiếp “ham đọcXuân Thu, TThTruyn, trọng đãi nhân sĩ… và phát triển đến tột đỉnh bằng việcKhương Công Phụđậu tiến sĩthời Nhà Đường.

Thctrng ca vic truyn bá

Các nhà Nho khi nghiên cứu vềcác dữkiện kểtrên không đi sâu hơn vào chi tiết màchỉkhẳng định vềthời điểm mởđầu. VềTích Quang và Nhâm Diên chẳng hạn, Ngô SĩLiên đã ghi nhận là “Văn phong của đất Lĩnh Nam bắt đầu từhai thái thú ấy.”[11] VềSĩNhiếp, ông viết “Nước ta đưọc thông thi thư, tập lễnhạc làm một nưóc vănhiến là bắt đầu từSĩVương, công đức ấy không những chỉởđương thời mà có thểtruyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao?[12]-[13]Ngô Thời Sĩcũng theo nhận định này.[14] SĩNhiếp đã được coi là Nam Bang Học Tổcho mãi đến khi Trần trọng Kim xuất bảnVitNam SLượcvào năm 1928, vai trò này của họSĩmới được đặt lại. Tác giảhọTrần đã viết nhưsau:

“Nhà làm sửthưòng cho nước ta có văn học là khởi đầu từSĩNhiếp. Cái ý kiến ấy cólẽkhông phải. Vì rằng từkhi Nhà Hán sang cai trịđất Giao Chỉđến đời SĩNhiếpđã được hơn 300 năm, người Giao Chỉđã có người học hành, thi đỗhiếu liêm, mậutài. Vậy nói rằng đến ông SĩNhiếp mới có Nho học thì chẳng sai lầm lắm ru? Hoặcgiảông ấy là người có văn học rồi trong khi làm quan, lo mởmang sựhọc hành,hay giúp đỡnhững kẻcó chữnghĩa, cho nên vềsau mới được cái tiếng là làm họctổởnước ta, tưởng nhưthếthì có thểhợp lẽhơn.”[15] Dương Quảng Hàm trongVitNam Văn Hc SYếu[16]và Ngô Tất TốtrongVăn Hc Đời Lý[17] đã đi xa hơn.

Ngô Tất Tốđã thẩm định thực trạng của việc truyền bá văn hóa Trung Quốc nói chungvà Nho học vào nước ta nói riêng nhưsau:

“Nướcta theo học chữHán kểđã lâu lắm, một là từSĩNhiếp, hai là từdời Tích Quang,ba là từđời Triệu Dà. Không cần biết là từđời nào, chúng ta có thểnói quảquyết rằng: Cái học từđời Bắc Thuộc trởđi đến đời Nhà Ngô, chỉlà học đểgiaothiệp với người Trung Hoa, không phải học đểthâu thái văn hóa của họ. Sựhọc ấyhãy còn lỗmỗ, sơlược, cho nên trong hơn nghìn năm, nó không đểlại cho ta mộtdấu vết gì.”[18]

Dấuvết Ngô Tất Tốviết ởđây là dấu vết văn học. Đứng trên bình diện sửhọc, dấuvết là những sựkiện liên hệtới những nhân vật lịch sử, những Lý Cầm, Lý Tiến,Khương Công Phụ, Khương Công Phục… Những dấu vết tuy còn nhưng cũng không có gìđáng kểvì con sốnhững người theo đòi Nho học được ghi lại không là bao nhiêuso với con sốhơn một ngàn năm Bắc thuộc. Không những thế, những nhân vật đượcsách vởghi lại này chưa chắc đã hoàn toàn là người bản xứmà rất có thểlànhững di dân hay con cháu các di dân và các quan lại người Trung Hoa. Trường hợpcủa anh em Khương Công Phụvà Khương Công Phục là trường hợp điển hình, vì ông nội của hai người này, Khương Thần Dực, là thứsửcủa châu Thư, được gửi sangkinh đô Trường An của Nhà Đường du học, do đó mới có dịp thi và đậu tiến sĩ.[19]

Vềbản chất của việc truyền bá Nho học, những gì được ghi lại cũng rất mơhồ. TíchQuang thì “đem lễnghĩa dạy dân, Nhâm Diên thì “gửi thưđi các huyện trực thuộc,bắt đàn ông con trai từhai mươi đến bốn mươi tuổi bằng đôi phải lứa phải lấynhau”. Những quyết định nặng vềtruyền bá phong tục nhằm đồng hóa người Việttheo văn hóa Trung Hoa hơn là truyền bá Nho học. VềSĩNhiếp, người sau này đượctôn là SĩVương và Nam Bang Học Tổ, thì từphong cách đến hành động chẳng có gìcho phép người ta ghi nhận là đã có công truyền bá Nho học vào CổViệt, ngoạitrừcăn bản học vấn của ông[20] và việc ông trọng đãi trí thức Trung Hoa sang nương tựa nơi ông. Việc giảng giảikinh truyện, chămxem sách vởcủa SĩNhiếp chỉlà những việc làm của ông khirảnh việc quan và giới hạn trong hàng ngũtrí thức từTrung Hoa sang và sốngchung quanh ông hơn là được hướng vào dân bản xứ. Còn khi ra ngoài thì ông dùngtất cảnhững nghi vệphiền toái với chuông khánh uy nghi, kèn sáo thổi vang, xengựa đầy đường, người Hồđi sát bánh xe đểđốt hương thường lên tới mấy mươingười; vợcả, vợlẽđi xe che kín, các con em cưỡi ngựa đi theo… Với cung cáchnhưvậy khó mà ông có thểgần gũi với giới trí thức bản xứ,chưa nói tới quầnchúng được. Chính vì vậy TựĐức đã có lý khi nhà vua viết vềhọSĩnhưsau:

“SĩNhiếp chẳng qua là một thái thú nhà Hán, tùy thời nịnh hót, cầu sao cho mìnhđược an toàn, chứkhông có mưu lược, tài cán gì giỏi cả, đến nỗi truyền được haiđời đã mất, có gì đáng khen! Thếmà sửgia cũcho rằng Úy Đà cũng không hơnđược, chẳng cũng là lời khen quá đáng ư!”[21]

Ngay cảngười Trung Hoa đồng thời với SĩNhiếp nhưLưu Ba cũng không chấp nhận nổiviên thái thú này. Lưu Ba người quận Linh Lăng, được Lưu Biểu mấy lần mời ra làmquan, chẳng chịu đến. Khi gặp loạn, ông chạy qua Giao Châu “cùng SĩNhiếp bànluận chẳng hợp ý, lại vào đất Thục, được Gia Cát khen ngợi dùng làm chức thượngthư. Lưu Ba tánh người thanh liêm kính cẩn, bao nhiêu xưng hiệu, sách mệnh củaTiên Chúa, đều do tay ông làm ra,”[22]

Nhữngsựkiện nhưLưu Hi, Hứa Tĩnh mởtrường dạy học ởLuy Lâu và Long Biên có thểchỉnhằm vào con cháu các quan lại, di dân người Trung Hoa chứkhông phải nhằmtruyền bá Nho học vào người dân bản địa. Cũng vậy với Ngu Phiên. Tất cảđều xảyra trong thời Hán mạt, thời các sĩphu chạy sang lánh nạn ởnước ta rất nhiều.Thêm vào đó, ta cũng nên đểý tới sựkiện là người Trung Hoa rất nặng tinh thầngia tộc. Họkhông ra đi một mình mà đã mang theo gia đình đông đảo, kèm theo vớimột hy vọng trởvề. Việc giáo dục nhắm vào giới trẻtrong hàng ngũhọdo đó đãtrởthành một nhu cầu cần phải được đáp ứng chứkhông phải nhắm vào dân bảnxứ.

Các nhà nghiên cứu sửhọc hiện tại cũng chia sẻchung nhận định là Nho giáo chưa thểđược coi là thịnh trong thời Bắc Thuộc được.[23] Các bằng chứng được nêu lên là sốngười tham gia thi cửvà đỗđạt đều thuộc tầng lớptrên của xã hội và không được là bao. Kèm theo là sựhạn chếsốsĩtửAn Namđược thi tiến sĩvà minh kinh vào năm 845 dưới thời Nhà Đường: 8 người cho khoatiến sĩvà 10 người cho khoa minh kinh.[24]

Điềuta cần phải phân biệt ởđây là việc học chữHán và các phong tục của người TrungHoa dẫn xuất từNho giáo một bên và việc phổbiến Nho giáo nhưmột học thuyếtvới các kinh điển riêng của nó nhằm đào tạo nhân tài cho chính quyền đô hộmộtbên. Phân biệt nhưvậy, người ta sẽthấy rõ hơn là dưới thời Bắc ThuộcchữHánnhưmột văn tựdùng trong chính quyền đương thời và những điều lễnghĩa, đúnghơn, phong tục, tập quán của người Trung Hoa, đã được truyền bá khá sâu rộngtrong quần chúng bản xứđểsau này, trong buổi đầu của thời độc lập, người Việtđã có thểtựđiều hành được chính quyền riêng của mình. Còn Nho Giáo thì đã bịhạn chế. Việc học ởtrình độnày chỉđược phổbiến ởtầng lớp trên, đúng hơntrong hàng ngũcác di dân người Trung Hoa ngay từthời SĩNhiếp và sau này dướithời Nhà Đường với anh em KhươngCông Phụvà Khương Công Phục. Chính vì vậy màtrong suốt các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê và đầu Triều Lý, vương quyền ởViệt Nam đã không mang những tính cách của Nho Giáo nhưtrong các giai đoạn saunày và đã bịcác Nho gia nhưLê Văn Hưu và Ngô SĩLiên chỉtrích. Cũng chính vìthếmà Lê Long Đĩnh đã sai em là Minh Sưởng và chưởng lý là Hoàng Thành Nhã sangsứNhà Tống vào năm 1007 đểxin Cửu Kinh của Nhà Nho và Kinh Đại Tạng của NhàPhật.[25] Sựkiện xin kinh này có thểhiểu bằng hai cách. Cách thứnhất là trước đó cáckinh của Nhà Nho chỉđược phổbiến trong giới thống trịvà di dân người TrungHoa nên đã bịtiêu hủy mau chóng trong những ngày đầu của thời độc lập cùng vớichính quyền thuộc địa. Cách thứhai là việc học ởcấp cao đểcác học sinh có thểthông hiểu được các kinh sách đã không diễn ra ởCổViệt mà ởkinh đô của chínhquốc. Chính vì vậy mà anh em họKhương mới được gửi sang du học ởkinh đô TrườngAn của Nhà Đường.

Mộtsựkiện khác cũng cần phải được ghi nhận ởđây là việc Lê Đại hành đã dùng mộtnguời Trung Hoa thông hiểu kinh và sửcủa Đạo Nho làm thái sư.[26] Tạisao lại phải dùng một người Trung Hoa thay vì một người Việt? Phải chăng là vìkhông có ngưòi bản xứthông hiểu các kinh sách này?

Vềviệc phổbiến chữHán, chúng ta cũng cần phải hiểu thêm là ngoài chính quyền đôhộ, các chùa của Phật Giáo và các đền của Đạo Giáo cũngđóng những vai trò vôcùng quan trọng do nhu cầu của chính những tôn giáo này. Qua các chùa và đền thờchữHán mới ăn sâu vào quần chúng bản xứ. Cũng vậy với quan niệm vô vi trongchính trịcủa Lão Tửmà người viết sẽtrình bày trong một bàikhác.

Tisao Nho Giáo không được phbiến sâu rng Vit Nam dưới thi BcThuc?

Ngô Tất Tốgián tiếp trảlòi câu hỏi này. Ông cho rằng đó là vì trong thời nàydân ta chỉhọc đểgiao thiệp với người Trung Hoa nhưđã dẫn ởtrên. Các tác giảcủa Lịch SửViệt Nam, tập I, xuất bản trong các năm 1971 và 1991 ởHà Nội thìcho rằng đó là vì “kẻthống trịnước ngoài chỉnhằm đào tạo cho bộmáy cai trịcủa chúng một sốthuộc viên làm tay sai mà thôi”[27]hoặcnếu kinh điển của Nho gia có được đem giảng dạy tại các trường thì “theo học cáctrường này là con em bọn quan lại, địa chủHán tộc và một sốcon em tầng lớptrên của xã hội mà kẻngoại xâm dựa vào đểcai trị”.[28] Đi xa hơn nữa các vịnày lại nhận định rằng “việc truyền bá Nho Giáo vào đất Việttrong những điều kiện đô hộnhất định vấp phải sựchống đối (chống hỗn dung vănhóa) của người Việt và không thểphát triển một cách thuận lợi được.”[29] “Sựhưởng ứng của người Việt không có là bao vì nó tượng trưng cho sựkỳthịvà ápbức dân tộc.”[30] Nó tượng trưng cho “chính sách nô dịch nặng nềvềtưtưởng, văn hóa đối với nhândân ta. Đó là chính sách đồng hóa.”[31]Nhữngnhận định này không phải là không có phần đúng nhưng quá đơn giản cần phải đượcxét lại.

Trướchết trong danh sách các quan lại Trung Quốc được cửsang cai trịCổViệt và đượcghi lại trongAn Nam Chí Lượccủa Lê Tắc gồm 153 người từĐặng Huân đến Cao Biền, Tích Quang,Nhâm Diên, SĩNhiếp, ĐỗTuệĐộmà các nhà khảo cứu thường nhắc tới, nguời tathấy chỉcó Mã Tổng làm An Nam đô hộđời Đường Hiếu Tông (806-820) và Mã Thựclàm đô hộđời Đường Văn Tông, đầu niên hiệu Khai Thành (836) là có những biệnpháp phổbiến văn hoá Trung Quốc vào nước ta. Mã Tổng được ghi là đã “dùng Nhothuật giáo hóa, dân mọi được yên”, còn Mã Thực thì “lấy văn nhã trau dồi.”[32] Con sốcác quan lại Trung Hoa đểý đến việc truyền bá văn hóa Trung Hoa cho dânchúng bản dịa phương nam nhưvậy có thểđếm trên đầu ngón tay sau suốt hơn mườithếkỷBắc thuộc cho phép người ta nghi ngờchính sách đồng hóa của họ. Phảichăng trong suốt thời gian này ngưòi Trung Hoa mới chỉcó đủkhảnăng đểđồnghóa miền đất mới gần hơn với bản địa của họ. Đó là miền đất căn bản của TriệuĐà. Đối với CổViệt, chính sách cốt yếu của họchỉlà làm sao duy trì được chínhquyền đô hộvà giữcho dân chúng khỏi nổi loạn mà thôi. Chánh sách này thànhcông hay không tùy thuộc vào khảnăng và tưcách của các thứsử, thái thú và saunày là các đô hộcũng nhưsựhiện diện và thái độcủa của các di dân từphươngbắc tới mà Bùi Quang Tung đã nêu lên trong bài nhận định vềcuộc khởi nghĩa củaHai Bà Trưng của ông.[33] Tựutrung nó đã bịthất bại. Từsựlạc quan, phấn khởi buổi đầu, coi CổViệt lànhững quận huyện của Trung Quốc, sựthiết lập An Nam Đô HộPhủthời Nhà Đường đãnói lên sựthất bại này. CổViệt dưới thời Nhà Đường đã trởthành một xứmiềnNam đối với Trung Quốc, tương tựnhưcác miền Liêu Đông hay các xứcủa ngườiMông Cổvà các dân du mục khác ởphía tây của đếquốc Trung Hoa. Từcác châu,quận, huyện, CổViệt đã trởthành phần đất ngoại vi của Trung Quốc. CổViệt đốivới Nhà Đường không phải là Trung Quốc.[34] Nỗlực đồnghóa của người Trung Hoa ởCổViệt do đó chỉlà nỗlực hiếm hoi của mộtthiểu sốvô cùng nhỏbé của các quan lại của họđược cửsang cai trịnước ta. Nóđược hỗtrợbởi các di dân của họởvào một vài thời điểm đặc biệt thay vì làmột nỗlực liên tục và trường kỳ. Chính vì vậy nó chỉgiới hạn ởviệc phổbiếnchữHán và một sốphong tục, tập quán thay vì Hán học hay Nho học hiểu theo đúngnghĩa của những từngữnày, và phổbiến ởnhững lỵsởhànhchánh.

Nhậnđịnh kểtrên có thểđược củng cốhơn nếu ta đểý tới ý kiến của các quan lạiTrung Quốc vềCổViệt trong các sớtấu vềtriều đình của họ. Có thểnói là tấtcảcác nhân vật này đều có chung một nhận định là Giao Chỉ, sau này là GiaoChâu, là một miền đất quá xa với triều đình Trung Quốc, khí hậu lại độc địa, dân chúng hay nổi loạn, bên ngoài thì người Chàm và các dân tộc khác lại thườngxuyên cướp phá. Điển hình trong sốcác quan lại này là Tiết Tống, Đào Hoàng, LưuThiện, Châu Xưởng, và Chu Thặng với các bài sớcủa họđược Lê Tắc ghi lại trongtác phẩmAn Nam Chí Lượccủa ông.

TiếtTống là thái thú Giao Chỉvà Hợp Phốđời Ngô, người đã cùng với LữĐại đánh dẹpSĩHuy. Khi LữĐại biệt triệu vềTrung Hoa, Tiết Tông dâng sớvềtriều đình nhàNgô trần tình vềtình trạng Giao Chỉvà đềnghịnếu LữĐại không đượctrởlạinữa thì viên thứsửmới phải là người tài giỏi, có mưu trí, có kếhoạch mới caitrịnổi xứnày. Trong sớông đã miêu tảCổViệt là “sông núi dài mà xa, tập tụckhông giống nhau, người không có tôn ty, dân không biết lễnghĩa, dù có đặt quancai trịcũng xem nhưkhông có.”[35]

Đào Hoàng là thứsửGiao Châu dưới thời nhà Ngô. Khi nhà Ngô mất, nhà Tấn lên thay,ông đã dâng thưlên vua Tấn yêu cầu ngưng triệt hết quân lính ởxứnày. Nhậnđịnh của ông vềGiao Châu là châu này “là giải đất chưa mởmang, ởmột phươngtrời xa cách, phải hai ba lớp thông ngôn mới hiểu, liên tiếp với mấy hòn đảogiữa biển, ngoài cách nước Lâm Ấp chỉvài ngàn dậm, tướng Mọi là Phạm Hùng trốnchỗhiểm trở, làm giặc đã mấy đời, tựxưng làm vua, hay xâm phạm nhân dân; địagiới gần với Phù Nam, chủng loại rất đông, phân chia nhiều phe đảng, nương nhauchỗhiểm yếu, không chịu qui thuộc; hồi trước thuộc họNgô, họhay cướp bóclương dân, giết hại quan trưởng lại.”[36] Không những thế, khí hậu ởđây lại độc địa. Quân đội đưa sang sau hơn chục năm ba phầnchết mất quá hai. “Ban đầu sốquân lính do tôi thống suất là 8.000 người. NhưngNam thổẩm thấp và nhiều khí độc, vảlại thường năm phải đánh giặc, khiến chonhiều quân lính bịchết, hao mòn rất dông, hiện chỉcòn 2.400 người thôi.”[37]

Đờinhà Tề, thái thú hai quận Hoài Nam và Tuyên Thành là Lưu Thiện cũng dâng biểutrần tình vềvấn đềGiao Châu, mởđầu bằng câu: “Đất Giao Châu ởngoài cõi hoangnhàn mà hiểm trở…”[38]

Trướcđó Châu Xưởng là thái thú Giao Chỉtrong năm Vĩnh Hoà thứ6 (141) nhà Hán cũngnhấn mạnh đến tính cách xa xôi của Giao Chỉ.[39]

Chu Thặng cũng vậy. Ông này còn diễn tảmột cách bi thảm hơn. Theo ông: “Giao Châulà nơi tuyệt thực, tập tục tham ô, các họhào cường thì gian dối, các trưởng sửthì bạo ngược, hà hiếp, bóc lột nhân dân.”[40]

Dướithời nhà Tống, khi Tống Thái Tông dấy binh đánh Giao Chỉ, không được thắng lợi,Chinh Nam Mã BộQuân Chuyển Vận SứHứa Trọng Tuyên, xuất thân tiến sĩ, đã dângsớđiều trần, phản kháng. Theo Hứa Trọng Tuyên “Giao Chỉoi bức độc địa, quânlính chưa giao chiến mười phần đã chết mất hai ba”.[41]

Trong hoàn cảnh nhưvậy, các quan lại Trung Quốc được cửsang trấn nhậm CổViệt khó màcó được tinh thần đem văn hóa Trung Quốc sang truyền bá cho dân bản địa đến nơiđến chốn. Trường hợp của Tích Quang, Nhâm Diên, ĐỗTuệĐộ…chỉlà những trườnghợp hiếm hoi. Nhiều người nhưLưTổThượng, tài kiêm văn võ, tính tình liêmbình, công trực, đầu niên hiệu Trinh Quán (627) được Đường Thái Tôngcho làm đôđốc Giao Châu, đã nhận lời, sau lại từchối. Vua sai người khuyên dỗ. TổThượngvẫn từchối. Vua lại nhờanh vợcủa ông là Châu Phạm dụrằng: “Kẻthất phu hứavói nhau vẫn còn giữtín. Khanh đã hứa trước mặt trẫm, há được ăn năn, nên hãysớm đi qua, ba năm ắt có chiếu triệu về. Khanh chớthối thác, trẫm quyết chẳngnuốt lời.”Thượng tâu rằng: “Lĩnh Nam nhiều chướng khí, đã đi không trởvề.”Đường Thái Tông nổi giận phán rằng: Ta khiến ngươi không chịu đi, làm sao làmviệc nước cho đặng?” Bèn khiến chém ngay ởtrước triều đường.[42] Mộttrường hợp khác là trường hợp của Lý Đạo Hưng. Hưng là tôn thất nhà Đường, đượcphong làm Quảng Ninh Vương, sau vì có lỗi bịgiáng xuống làm Huyện Công và nămTrinh Quán thứ9 (635) làm đô đốc Giao Châu. Vì ởđây khí hậu độc, Hưng lo lắngvà chết trong lúc làm quan.[43]

Trườnghợp của Lý Đạo Hưng là trường hợp của rất nhiều quan lại Trung Quốc được cửsangcai trịCổViệt. Miền đất xa xôi, độc địa, đầy bệnh tật đối với người Trung Hoavà dân chúng thường xuyên nổi loạn này đã trởthành đất của những kẻbịlưu đầyhay bịbiếm hoặc bịlỗi lầm phải đổi. Trước thời nhà Đường sốngười bịđầy quanước ta tương đối ít và được Lê Tắc kểchung với những người sang cưngụởđây.Ba người được kểtên là CốĐàm, nguyên làm thượng thưbịvu tội phải đầy quaGiao Chỉcùng với em là CốThừa và Trương Hưu, cùng thời với CốĐàm. CốThừa bịkết tội là công thựgian dối, bịđầy qua Giao Châu và sau đó bịvua giáng chiếubắt tựtử.[44]Dướithời nhà Đường sốngười bịbiếm, bịđầy hoặc bịlỗi lầm và bịđổi sang Giao Châunhiều hơn gấp bội. Các nhân vật được Lê Tắc ghi lại trong tác phẩm của ông gồmcó Cao Kiện, Bùi Kiền Thông, Vương Phúc Trĩ, Lý sào, Lý Hữu, Thẩm Thuyên Kỳ, HànTưNgạn, LưTàng Dụng, Tống Tấn Khanh, Lý Càn Hựu, Nghiêm Thiện Tư, Đậu Sâm, LýNhân Quân, Bùi Di Trực, Dương Thu, Trần Bàn tẩu, Lưu Chiêm[45], ĐỗChính Luân, ChửToại Lương, Sài Triết Uy, Lang DưKhánh, Tống Chi Đễ.[46]

Đốivới các trí thức Trung Hoa sang tịnạn ởnước ta mà niều người cho là đã gópphần không nhỏvào việc ruyền bá Nho Học cho người bản xứ, vấn đềcũng còn cầnphải được xét lại kỹcàng hơn vì một sốkhông nhỏnhững người này sau đó đã trởvềTrung Quốc. Nhiều người trong thời gian ởGiao Chỉđã có thái độtiêu cực, ẩnmình không làm gì nhưHồCương, cháu bốn đời của thái phó Nhà Hán là HồQuảng,là người khí tiết thanh cao. Gặp lúc Vương Mãng soán ngôi, ông đã treo mũởcửaphủmà đi. Lưu lạc ởGiao Chỉ, ông ẩn mình làm hàng thịt, đến khi Vương Mãng bịthất bại mới trởvềTrung Hoa.[47] HứaTĩnh thời Tam Quốc cũng chạy qua Giao Chỉnương náu nơi SĩNhiếp, sau lại vềTrung Hoa, phục vụTiên Chúa của nước Thục, được cửlàm thái thú, rồi tưđồ.[48] Lưu Ba, nhưđã dẫntrên, cũng vậy. Còn Trương Dung thời Tống Văn Đếthì nói rằng“ăn cá khô mà vềđược quê nhà lọcầu ăn nem thịt mà làm gì?”[49] Thái độnày chắc chắn không thểnào đưa họtớinhững nỗlực truyền bá Nho học ởnơihọtạm trú được. Công việc dạy dỗcủa họnếu có chỉlà nhắm vào con cháu trongnhà hay bạn bè hay con cháu những người chứa chấp và nâng đỡhọtrong thời gianhọluân lạc mà thôi. Quân chúng bản xứkhó mà có dịp tiếp xúc với họ, chưa kểtới chuyện họcó học tiếng bản xứhay không.

Cuốicùng, nhìn vào trường hợp của người đi học. Vì việc mởmang việc học của các thứsử, thái thú, sau này là đô hộ, chỉnhằm huấn luyện những lại thuộc chứkhôngphải là đểđào tạo nhân tài nên người bản xứvà luôn các con cháu các quan lạivà di dân đã trởthành bản xứmuốn học đến nơi đến chốn và nhất là sau này dựthi, phải sang Trung Hoa và đến tận kinh đô mới đạt được nguyện vọng. Sựhy sinhvà chịu đựng gian khổcũng nhưsựtốn kém chắcchắn đã vượt xa khảnăng của dânbản xứnghèo nàn, chưa kểtới nạn kỳthịcủa vua tôi người Trung Hoa ởchínhquốc.[50] Ta không có thật đầy đủchi tiết nhưng cứnhìn vào những sựkiện xảy ra chung quanhcác trí thức được sửsách ghi lại cũng được rõ một phần nào. Chắc chắn khôngphải người nào cũng có cái may mắn của anh em nhà họKhương. Còn vềđường xá xaxôi, ta có trường hợp của Liêu Hữu Phương là trường hợp điển hình. TừGiao Châuđến Trường An, họLiêu phải đi đường sông rồi dọc theo bờbiển 250 dặm, sau đó1.200 dặm đượng bộ.[51] HọKhương đã vượt được con đường thiên lý xa xôi, hiểm trởđó. HọLiêu cũng đãthành công. Nhưng còn có biết bao nhiêu người khác đã không bao giờdám mơướctới hay đã ráng sức mình nhưng nửa đường phải bỏdởhay bỏxác dọc đường hoặcđem thân làm mồi cho cá mà sửsách không bao giời biết tới? Cái học trong thờiBắc thuộc nhưthếchắc chắn không hấp dẫn đối với người dân bản xứ. Giới trẻCổViệt trong thời gian này đã đi tìm tương lai trong những phạm vi hoạt động kháchơn là cắp sách đến trường. Do đó người ta phải đợi đến đến phần tưthứba củathếkỷXI, dưới thời Nhà Lý, Nho học ởnước ta mới thực sựcó dịp pháttriển.

Nguồn: Hp Lưu số117


[1]ỦyBan Khoa Học Xã Hội.LchSVit nam, tp I.Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1971, tr. 104 và107.

[2]Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Minh.LchSVit Nam, tp I.Hà Nội: Nhà Xuất Bản Đại Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp,1991, tr. 316.

[3]ĐạiVit SKý Toàn Thư, bản dịch của Cao Huy Giu, Đào Duy Anh hiệu đính, chúgiải và khảo chứng,tập I. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1967; bản dịchcủa Ngô Đức Thọ. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội,1993.

[4]VitSTiêu Án,bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên lạc văn Hóa Á Châu.Sai Gon: Văn Hóa Á Châu, 1960.

[5]Bảndịch của Viện Khảo CổSaigon, các quyển đầu, nhất, nhì và ba. Saigon: Viện KhảoCổ, 1060-1970; bản dịch của Hoa Bằng, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp (TổBiênDịch) Viện SửHọc, tập I. Hà Nội: Viện SửHọc, 1998.

[6]Vitnam SLược.Saigon: Tân Việt, in lần thứbảy, 1964. Saigon: BộGiáo Dục,Trung Tâm Học Liệu, 1971, Đại Nam tái bản ởHoa Kỳ, không đềnăm ấnhành.

[7]VitNam Văn Hc Syếu.Saigon: BộGiáo Dục, Trung Tâm Học Liệu tái bản lần thứmười, 1968.

[8]Le Vietnam, Histoire et Civilisation. Paris: Ed. de Minuit, 1955; Histoire du Vietnam des Origines à 1858. Paris: Sudeatasie, 1981.

[9]đã dn.

[10]đã dn.

[11]ĐạiVit SKý Toàn Thư, bản dịch của Cao huy Giu, đã dẫn, tr.89;

[12]ViệnĐại Học Huế, 1961, tr. 178.

[13]đã dn

[14]VitSTiêu Án, đã dẫn, tr. 38.

[15]VitNam SLược, đã dn, tr. 43.

[16]đã dẫn, tr. 54.

[17]VitNam Văn Hc, Văn Hc Đời Lý.Houston, Texas: XuânThu tái bản, không đềnăm.

[18]- nt-.

[19]ỦyBan Khoa Học Xã Hội Việt Nam.LchSVit Nam, tp I,đã dẫn, tr. 127; Keith Taylor.The Birth of Vietnam. Berkeley: University of California Press, 1983, tr. 217-218. Trên mạng,Bách Khoa Toàn ThưMWikipedialại ghi Khương Thần Dực là thứsửChâu Ái, tươngxứng với vùng Thanh Hoá hiện tại.

[20]Ông này hồi trẻđi du học ởkinh đô, đậu hiếu liêm, sau lại đỗmậu tài, ham đọc XuânThu TảTruyện.

[21]VitSThông Giám Cương Mc,đã dẫn, tr. 99, Lời phê của Vua TựĐức.

[22]Lê Tắc,An Nam Chí Lược,bản dịch của Ủy Ban Phiên Dịch SửLiệu Việt Nam, Viện Đại HọcHuế. Huế, 1961, tr. 178.

[23]ỦyBan Khoa Học Xã Hội,LchSVit Nam,tập I. đã dẫn, tr. 127.- Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà VănTấn, Lương Minh,LchSVit Nam,tập I, đã dẫn, tr. 316.

[24]ỦyBan Khoa Học Xã hội,LchSVit Nam,Tập I, đã dẫn, tr. 127.- Lê Tắc,An Nam Chí Lược,đã dẫn, tr. 251.

[25]VitSCương Mc.đã dn, tr. 251.

[26]Ngô SĩLiên, đã dẫn, tr. 173. – Ngô Thời Sỹ, đã dẫn, tr. 97. – Ngô Thời Sỹchép tênngười này là Hồng Du.

[27]bản1971, đã dẫn, tr. 94.

[28]-nt-.

[29]bản1991, đã đẫn, tr. 252.

[30]-nt-, tr. 316.

[31]bản1971, tr. 94.

[32]Lê Tắc,An Nam Chí Lược,đã dẫn, tr. 166-167. Vềdnh sách các quan lại Trung Quốc đãtừng sang cai trịCổViệt, xin đọc cùng tác phẩm, tr. 139-169. Cũng vậy,trong VitSLược, Trần Quốc vượng dịch và chú giải. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn SửĐịa,1960, tr. 19-39.

[33]Bùi Quang Tung, “Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng Dưới Mắt

SửGia”, trong ĐạiHc,Tạp Chí Nghiên Cứu của Viện Đại Học Huế, số10, tháng 7 năm 1959, tr.1-16.

[34]PhạmCao Dương,LchSDân Tc Vit Nam, Quyn I: Thi KLp Quc.Fountain Valley, California: Truyền Thống Việt, 1987, tr. 13.

[35]đã dẫn, tr. 112.

[36]-nt-, tr. 114.

[37]-nt-.

[38]-nt-, tr. 115.

[39]-nt-, tr. 141.

[40]-nt-

[41]-nt-, tr. 255.

[42]-nt-, tr. 161.

[43]-nt-, tr. 162.

[44]-nt-, tr. 178.

[45]-nt-, tr. 180-183.

[46]-nt-, tr. 162-163.

[47]-nt-, tr. 176.

[48]-nt-.

[49]-nt-, tr. 179.

[50]Trường hợp của Tinh Thiều, một cộng sựviên của Lý Bôn là mộttrường hợp điểnhình.

[51]Taylor, sách đã dn, tr. 219.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574405

Hôm nay

23

Hôm qua

2317

Tuần này

21951

Tháng này

221462

Tháng qua

130677

Tất cả

114574405