Bài bị phản bác chỉ là nửa đầu của bài Phải chăng khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm 713 như “phát hiện mới” của GS Phan Huy Lê? mà từ đầu tháng 4/2012 tôi đã gửi đến các tạp chí Xưa & Nay và Nghiên cứu lịch sử. Mặc dầu tôi đã gửi bài cả bằng thư bảo đảm và bằng thư điện tử, kèm theo lời yêu cầu: nếu bài không được đăng thì hãy cho tôi biết những sai sót để tôi sửa chữa và rút kinh nghiệm, nhưng cả hai tạp chí đều không đăng mà cũng không trả lời gì cả. Tuy tạp chí Văn hóa Nghệ An chỉ mới đăng một nửa nhưng cũng đủ để chứng minh rằng việc dịch ba chữ Khai Nguyên sơ 開元初sang tiếng Việt thành năm đầu niên hiệu Khai Nguyênhoặc năm Khai Nguyên thứ nhất, như GS Phan Huy Lê đã làm sai, cho nên việc ông kết luận rằng Mai Thúc Loan khởi nghĩa và giành được độc lập cho nước ta từ năm 713 đến năm 722 lại càng không đúng.
Hẳn là GS Phan Huy Lê đã đọc bài đầy đủ của tôi từ nhiều tháng trước khi tạp chí Văn hóa Nghệ An đưa lên mạng Internet. Hoặc chậm nhất thì ông cũng đă đọc bài của tôi trên giấy, do tôi gửi bằng thư bảo đảm ngày 16/12/2012 tại Bưu cục Cửa Nam, Hà Nội, tới văn phòng Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, 216 Trần Quang Khải, Hà Nội. Trước đó, ngày 12/12/2012, tôi cũng gửi bài ấy cho chủ tịch tỉnh và giám đốc Sở Văn hóa tỉnh Nghê An (tất cả các biên lai nay vẫn còn), tôi tin rằng họ cũng đã hỏi ý kiến GS Phan Huy Lê về bài ấy. Nếu ông thực lòng muốn trả lời thì ông đã có quá nhiều thời gian để viết đầy đủ, từ khá lâu rồi. Nhưng, bài phản bác của ông lại né tránh một trong hai lý lẽ của tôi trong bài đã bị cắt xén ấy. Ông chỉ mới động chạm đến một phần, còn một phần khác cũng quan trọng không kém thì ông “bỏ qua”. Ông đăng bài trên Văn hóa Nghệ An online ngày 18/02/2013 chỉ cốt để đưa vào cuộc Hội thảo ngày 23/02/2013 nhằm định danh cho cho Lễ hội kỷ niệm 1300 năm thắng lợi của Khởi nghĩa Hoan Châu sẽ khai mạc vào tối hôm đó. Nếu không vì những lý do “tế nhị” nào đó mà chỉ nhằm mục đích khoa học chân chính thì không ai đăng bài để “thông qua” một cách vội vã như vậy. Dẫu sao, tôi vẫn cảm thấy có điều đáng mừng vì lần này ông đã chọn một luận điểm của tôi để phản bác, chứ không lạc đề như mọi lần trước đây. Tôi hy vọng rằng, cuộc tranh luận sẽ tiếp diễn một cách lành mạnh, công minh và sòng phẳng.
II. Khái lược về bài “Khởi nghĩa Mai Thúc Loan – năm khởi đầu và kết thúc”
Tạp chí Văn hóa Nghệ An (trên Internet, chưa thấy in trên giấy) đã ghi rõ, bàiKhởi nghĩa Mai Thúc Loan – năm khởi đầu và kết thúccủa GS Phan Huy Lê nhằm mục đích trao đổi lại với tác giả Lê Mạnh Chiến về bài Phải chăng khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm 713? (được Văn hóa Nghệ An đưa lên mạng Internet ngày 02/11/2012).
Từ ngày 28/02/2013, tôi không tìm thấy bài của mình trên bản điện tử của Văn hóa Nghệ An nữa. Tuy nhiên độc giả vẫn có thể đọc bài Phải chăng Khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm 713 như “phát hiện mới” của GS Phan Huy Lê ? (tại địa chỉ : http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=16735 . Đây mới là bài cần đọc để biết đủ luận cứ của tôi, vì tạp chí Văn hóa Nghệ An chỉ mới đăng nửa đầu của nó mà thôi.
Có thể đọc bài của GS Phan Huy Lê tại địa chỉ:
http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/5625-khoi-nghia-mai-thuc-loan-nam-khoi-dau-va-ket-thuc.html
Bài của GS Phan Huy Lê gồm 4 phần:
-
Đặt vấn đề tiếp tục nghiên cứu, xác minh
-
Tư liệu về năm khởi đầu của khởi nghĩa Mai Thúc Loan
-
Khai Nguyên sơ là năm nào?
-
Nhận thức về quá trình khởi nghĩa, giành thắng lợi và thất bại
Phần thứ nhất hầu như không liên quan trực tiếp đến bài của tôi, nên chưa cần bàn đến ở đây.
Phần thứ haikhá dài (khoảng 4 trang giấy cỡ A4, chừng 2400 chữ), nêu ra 7 nguồn sử liệu, gồm có: 1). Cựu Đường thư; 2). Tân Đường thư; 3). Sách phủ nguyên quy; 4). An Nam chí lược do Lê Tắc biên soạn: 5). Quảng Tây thông chí: 6) Khâm định tục thông chí: 7) Hương Lãm Mai đế ký trong Tân đính hiệu bình Việt điện u linh do Chư Cát thị bổ sung, nhằm xác định một điều là: Khởi nghĩa Mai Thúc Loan nổ ra trong thời gian gọi là Khai Nguyên sơ. Điều này từ xưa đến nay không ai tranh cãi, và GS Phan Huy Lê cũng không phản đối, sao phải trưng dẫn dài dòng như vậy? Thế là quá thừa, vô ích. Chỉ cần viết vài dòng, chỉ cần kể đến Tân Đường- thư (hoặc thêm cả Cựu Đường-thư) là đủ vì đó là hai bộ sách về lịch sử thời Đường có giá trị hơn hẳn các sách đời trước và không bị các sách đời sau vượt qua, từ ngót 1000 năm qua vẫn được coi là đáng tin cậy nhất. Việc sử dụng An Nam chí lược cùa Lê Tắc và truyện Hương Lãm Mai đế ký do Chư Cát thị viết để xác nhận độ tin cậy của Cựu Đường thư và Tân Đường thư là một việc làm ngược đờimà nhà sử học không nên làm, các sử giatiền bối không ai làm như thế.
Ở phần thứ ba, GS Phan Huy Lê tập trung phản bác lời giải thích của tôi về ba chữ Khai Nguyên sơ. Ông ra sức chứng minh rằng, Khai Nguyên sơ chính lànăm Khai Nguyên thứ nhất chứ không thể dịch làTrong những năm đầu niên hiệu Khai Nguyên. Viện dẫn 23 bài văn bia thời nhà Mạc, trong đó từ sơ niên được sử dụng để chỉ năm thứ nhất của một niên hiệu, ông coi đó là những chứng cứ hùng hồn nhất để xác nhận ý kiến của mình. Từ chỗcho rằng,Khai nguyên sơ chính là năm Khai Nguyên thứ nhất, tức năm 713, ông đã đi đến kết luận: Khởi nghĩa Mai Thúc Loan nổ ra năm 713 và giành được thắng lợi trong năm đó, mở ra một thời kỳ độc lập cho nước ta trong 10 năm (713 - 722). Theo lời ông thì các bộ chính sử của Trung Quốc đều xác nhận điều đó nhưng các sử thần của triều Lê và triểu Nguyễn cho đến học giả Trần Trọng Kim đều không nhận ra, vì họ chưa đọc kỹ phần Liệt truyện (ở các đoạn kể về hành trạng của Dương Tư Húc) trong Tân Đường- thư và Cựu Đường-thư. Tôi đã chứng minh rằng, các nhà sử học tiền bối đều đã đọc kỹ các đoạn đó, thậm chí, các sử gia triều Nguyễn còn sử dụng luôn lời văn của Tân Đường - thư, chỉ bỏ bớt các chức tước của bọn bọn tướng giặc và cách xưng hô hỗn xược xúc phạm Mai Thúc Loan. Không thấy GS Phan Huy Lê “bác bỏ” sự thật này.
Phần thứ tư không trực tiếp nhằm phản bác lý lẽ của tôi nên chưa cần bàn đến ở đây.
Tóm lại, bài Khởi nghĩa Mai Thúc Loan - năm khởi đầu và kết thúc của GS Phan Huy Lê chỉ đụng chạm đến một một phần trong bài của tôi đã bị cắt xén trên tạp chí Văn hóa Nghệ An, lại càng không thể coi là đã phản biện bài Phải chăng khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm 713 như “phát hiện mới” của GS Phan Huy Lê? mà ông đã biết từ tháng 4/2012, vì tôi đã gửi cho các tạp chí Nghiên cứu lịch sử hoặc Xưa & Nay mà ông là ủy viên Hội đồng biên tập.
III. Vài điều cần biết về việc sử dụng từ điển để tra cứu chữ SƠ 初
Khi tranh luận về chữ Hán, ắt phải dùng từ điển làm trọng tài. Đối với những từ phức hợp trong Hán ngữ, người tra cứu từ điển phải hiểu nguyên tắc cấu tạo của chúng, vì đó là những từ phái sinh, nhiều khi không có mặt trong từ điển nên phải suy luận theo các từ có cấu trúc tương tự. Không có từ điển nào giải thích những từ phức hợp kiểu như Khai Nguyên sơ, Càn Long sơ v.v.(gồm tên một niên hiệu cộng với chữSƠ 初), vì đó là những từ rất dễ hiểu, vả lại, có bao nhiêu niên hiệu thì có bấy nhiêu từ dạng này, kể sao cho hết? Bởi vậy, muốn hiểu Khai Nguyên sơlà gì, ta phải tìm nghĩa chữ SƠ 初ứng với vai tròcủa nótrong từ này.
Khai Nguyên sơ là một từ phức hợp gồm hai thành tố là Khai Nguyên + sơ. Theo nguyên tắc cấu tạo các từ phức hợp trong Hán ngữ, chữ SƠ 初ở đây đứng sau cùng nên nó chỉ có thể đóng vai trò danh từ, không thể đóng vai trò tính từ làm định ngữ chỉ thuộc tính cho Khai Nguyên. Ngược lại, ở đây, Khai Nguyênlà một danh từ riêng đóng vai trò định ngữ chỉ thuộc tính của danh từ sơ. Bởi vậy, tuy chữ SƠ 初có nhiều nghĩa, có khi là danh từ, có khi là tính từ, có khi là trạng từ, nhưng, để hiểu Khai Nguyên sơlà gì, chúng ta cần phải biết nghĩa của nó với tư cách là một danh từ, rồi tìm hiểu thêm ở các từ có cấu trúc tương tự với Khai Nguyên sơ, ví dụ như nguyệt sơ, niên sơ, v.v.
Từ hải là một bộ từ điển lớn rất có uy tín của Trung Quốc, chứa đựng nhiều từ, giúp hiểu rõ những từ ngữ, những khái niệm phức tạp trong khoa học, lịch sử, văn hóa, v.v.. Nó được dùng làm sách tra cứu cho những người “nhiều chữ” cần hiểu tương đối sâu và rộng về nhiều vấn đề quan trọng. Bởi vậy, nó cũng “kén chủ” vì trong từ điển này, những từ khó hiểu thì được giải thích khá kỹ càng, nhưng những từ thông dụng thì ít được đưa vào hoặc chỉ được giảng giải sơ qua và nêu rất ít ví dụ. Chữ Sơ 初là một trong những trường hợp như vậy. Những từ phái sinh quen thuộc của nó như sơ bộ, sơ kỳ, sơ niênhay niên sơđều không có mặt trong Từ hải.
IV.Tra cứu các từ điển Hán ngữ để hiểu nghĩa của chữ SƠ初
Từ điển Từ hải dùng cho những người “nhiều chữ” nên nó không cần đi sâu vào việc giảng giải nhiều về chữ SƠ初với tư cách là danh từ. Để hiểu rõ nghĩa của chữ SƠ初, cần phải sử dụng một số từ điển khác của Trung Quốc, nhỏ hơn Từ hải nhưng gần với đại chúng hơn Từ hải. Cũng nên nhớ rằng, số lượng từ ngữ trong các từ điển là không giống nhau, có từ hiện diện trong quyển này nhưng vắng bóng trong quyển kia. Mỗi bộ từ điển đều có những đặc điểm riêng, cách diễn giải ở từng quyển cũng khác nhau nên đôi khi cần phải sử dụng nhiều từ điển để so sánh, cân nhắc, bổ khuyết cho nhau. Để thảo luận với GS Phan Huy Lê, tôi đã tra cứu chữSƠ 初 cùng nhữngtừ phái sinh của nó nhưsơ niên, niênsơ ở 16 bộ từ điển của Trung Quốc.
Tôi xin ghi chép và dịch lại lời giảng giải về chữ SƠ 初và một số từphái sinh của nóở nhiều cuốn từ điển. Mọi mục từ trong các cuốn từ điển mà tôi đã sử dụng khi viết bài này đều được chụp hình và đưa ra ở cuối bài để quý vị độc giả kiểm tra .
-
Tư điển Từ hải (bản 1989 mà GS Phan Huy Lê đã sử dụng)
初 ①起头: 刚开始; 第一次;如:初学;初版;初出茅庐.«诗.大雅.荡»:“靡不有初, 鲜克有终”. ⑵当初,本来.«左传• 隐公元年»“遂为母子如初”,又用为叙事中追溯已往之词. «左传• 隐公六年»: “初昭王有疾”. ③. 最低的. 如: 初等‚初级. ④夏历指每月的开头几天或开头十天, 如:月初‚初头‚初一‚初十.
SƠ 【1】khởi đầu; cương khai thủy; đệ nhất thứ. (khởi đầu, mới mở đầu; lần thứ nhất) Như: sơ học; sơ bản; sơ xuất mao lư (việc học mới bắt đầu; lần xuất bản đầu tiên; vừa mới ra khỏi lều tranh = vừa mới vào cuộc, còn thiếu kinh nghiệm). Thi. Đại Nhã. Đãng(Kinh Thi, Đại Nhã. Đãng): Mị bất hữu sơ, tiên khắc hữu chung (Việc nào cũng có khởi đầu, Nhưng phần kết quả thì đâu thấy nhiều)【2】đương sơ; bản lai(lúc đầu, hồi trước; trước đó). Tả truyện. Ẩn công nguyên niên: “Toại vi mẫu tử như sơ” (Thỏa lòng vì mẹ và con vẫn như trước). Hựu dụng vi tự sự trung khiển tố dĩ vãng chi từ (Còn dùng làm từ truy ngược quá khứ trong câu tự sự). Tả truyện. Ai Công lục niên: “Sơ, Chiêu vương hữu tật”(Trước đó, Chiêu Vương không khỏe).【3】Tối đê đích. Như: sơ đẳng, sơ cấp (Thấp nhất. Như: bậc thấp nhất, cấp thấp nhất).【4】Hạ lịch chỉ mỗi nguyệt đích khai đầu kỷ thiên hoặc khai đầu thập thiên. Như: nguyệt sơ; sơ đầu; sơ nhất; sơ thập(Nông lịch Trung Quốc chỉ vài ngày hoặc mười ngày mở đầu mỗi tháng. Như; khoảng đầu tháng; ban đầu; mùng một; mùng mười).
Khi bàn về cách dịch các chữ Khai Nguyên sơcủa GS Phan Huy Lê, tôi đã viết: Trong 4 nghĩa của chữ “sơ” 初mà từ điển Từ hải (ấn bản 1989) đã giải thích, ông Phan Huy Lê chú ý vào nghĩa (4). Đúng là phải như vậy.
Viết như thế là bởi vì, ở nghĩa (4) này, Từ hải nêu ví dụ bằng từ nguyệt sơ, có cấu trúc giống như Khai Nguyên sơ. Ngoài ra, nó còn nêu các từ sơ nhất, sơ thập nghĩa là mùng một (hoặc mùng mười), tức là ngày một (hoặc ngày mười) của khoảng đầu tiên trong tháng. Mỗi tháng có ba ngày một (mùng một, mười một, và hai mươi mốt) hoặc ba ngày mười (mùng mười, ngày hai mươi và ngày ba mươi), trong đó, chữ SƠ初được đặt lên trước, làm định ngữ chỉ thuộc tính của nhất và thập nên nó đóng vai tròtính từ. Ở đây, nhất và thập nghĩa là ngày một và ngày mười thì đóng vai trò danh từ. Người ta coi hai trường hợp này của chữ SƠ 初đều có cùng một nghĩa nên ta có thể suy rộng ra rằng, chữ SƠ 初vốn là danh từ chỉ khoảng thời gian ban đầu của một thời kỳ khá dài. Thật vậy, chữ SƠ初được cấu tạo từ chữ đao 刀(nghĩa là con dao) ghép ở bên phải chữ y衣(biến dạng chút ít để dễ ghép với chữ đao 刀) nghĩa là cái áo, ngụ ý là dùng dao kéo để cắt vải - công việc ban đầu khi chế tác quần áo. Từ đó mà chữ SƠ初có nghĩa nguyên thủy là giai đoạn mở đầu hay khoảng thời gian ban đầu của một thời kỳ hay một quá trình. Khi đứng đầu một từ phức hợp thì chữ Sơ 初trở thành định ngữ chỉ thuộc tính của bộ phận đứng sau nó, lúc đó, nó có nghĩa là “thuộc phần đầu“, hoặc “ở giai đoạn đầu”. Trong từ nguyệt sơ, nghĩa là những ngày đầu tháng (từ mùng một đến mùng mười) thì nguyệt là định ngữ của sơ, giữ vai trò tính từlàm định ngữ để bổ nghĩa cho sơ, mang ýnghĩa là của một tháng, trong một tháng.
Trong bài Khởi nghĩa Mai Thúc Loan - năm khởi đầu và kết thúc, GS Phan Huy Lê viết:
Theo Từ hải,chữ “sơ” có 4 nghĩa và có người sử dụng nghĩa thứ 4 “chỉ vài ngày hoặc mười ngày đầu mỗi tháng” để cho rằng Khai Nguyên sơ là những năm đầu niên hiệu Khai Nguyên có thể kéo dài từ năm 713 đến năm 722, và năm 722 vẫn là Khai Nguyên sơ. Theo tôi, nghĩa này dùng để tính ngày trong một tháng, không phù hợp và không thể sử dụng để giải thích niên hiệu các đời vua tính bằng năm.
Để tính niên hiệu, trước hết cần sử dụng nghĩa thứ nhất của Từ hải là: 初: 起興.剛開始.第一次(Sơ: khởi hưng, cương khai thủy, đệ nhất thứ) tức là: Sơ: bắt đầu nổi lên, mới bắt đầu, lần thứ nhất. Vậy Khai Nguyên sơ (開元初) là năm đầu niên hiệu Khai Nguyên. Để làm sáng rõ nghĩa chữ “sơ” trong cách tính niên hiệu, tôi có thể đưa ra nhiều dẫn chứng trong các văn bia đã được nhiều nhà khoa học dịch và nghiên cứu
GS Phan Huy Lê cho rằng, ở từ Khai Nguyên sơ 開元初, chữ SƠ 初mang nghĩa thứ nhất trong Từ hải, nghĩa là đầu tiên (là tính từ), rồi ôngđưa ra cách dịch: Khai Nguyên sơ = năm đầu niên hiệu Khai Nguyên = năm thứ nhất của niên hiệu Khai Nguyên. Thế là ông đã thừa nhận rằng, SƠ初nghĩa là năm đầu tiên, haylànăm thứ nhất. Ở đây, ông Phan Huy Lê không còn coi chữ SƠ 初là tính từ đầu tiên hay làthứ nhất nữa, vì ông đã biến nó thành năm đầu tiên, haynăm thứ nhất (là danh từ). Chỉ trong nháy mắt, ông đã thay đổi ý kiến. Tôi đã đoán sai cách hiểu của GS Phan Huy Lê nhưng đã hiểu rất đúng lời giảng giải của Từ hải.
Cần chú ý rằng, khi giải thích về chữ SƠ初, Từ hải sử dụng từ 起头(khởi đầu) nhưng GS Phan Huy Lê chép sai thành 起興(khởi hưng). Hơn nữa, dù dịch chữ Sơ 初thành thứ nhất (tính từ) haynăm thứ nhất (danh từ) thì cũng đều sai.
Dưới đây, chúng tôi sẽ tiếp tục nói về lời giảng giải chữ SƠ 初trong vài cuốn từ điển nhỏ hơn và dùng cho đối tượng thấp hơn, do đó, cũng giải nghĩa chữ SƠ 初 cụ thể hơn Từ hải.
2). Cổ kim Hán ngữ thực dụng từ điển (Tứ Xuyên Nhân dân Xuất bản xã, Thành Đô, 1989, gồm 1214 trang chính văn + 58 trang tra chữ theo vần + 32 trang Phụ lục). Trong sách này, ta thấy chữ sơ 初nằm ở trang 972, được giảng giải như sau:
初 ①最早; 刚刚; 开始阶段: 汉朝初年| 今年年初| 每月初一|初次见面|英语初步|初級中学. ⑵以前; 原来: 初愿|想当初|初, 王有疾|遂为母子如初
(1).最早tối tảo (sớm nhất); 刚刚cương cương (vừa mới, mới bắt đầu); 开始阶段khai thủy giai đoạn (giai đoạn mở đầu, khoảng thời gian ban đầu): 汉朝初年Hán triều sơ niên (những năm thuộc giai đoạn đầu triều Hán, những năm đầu của triều Hán) || 今年年初 kim niên niên sơ (thời gian đầu của năm nay,đầu năm nay) || 每月初一 mỗi nguyệt sơ nhất (ngày mùng một mỗi tháng) || 初次见面(sơ thứ kiến diên = cuộc gặp mặt lần đầu, cuộc gặp gỡ lần thứ nhất) || 英语初步Anh ngữ sơ bộ ( ở bước đầu về tiếng Anh,) || 初級中学sơ cấptrung học (trung học ở cấp thứ nhất, tương đương với trung học cơ sở Việt Nam hiện nay).
(2).以前(dĩ tiền = trước đây); 原来(nguyên lai = lúc đầu, ban đầu, trước đây, xưa kia); 初愿(sơ nguỵện = mong ước lúc đầu, nguyện vọng trước đây) || 想当初(tưởng đương sơ = nhớ hồi trước) || 初, 王有疾(Sơ, Vương hữu tật = trước kia, Vương không khỏe) || 遂为母子如初(toại vi mẫu tử như sơ = thỏa lòng vì mẹ và con vẫn như trước đây)
|
Ở đây, các nghĩa của chữ Sơ 初được quy về hai nhóm.
- Nhóm (1) nêu nghĩa của chữ SƠ là giai đoạn mở đầu, khoảng thời gian ban đầu (đó cũng là nghĩa gốc, là danh từ, chỉ có thể đứng cuối cùng trong một danh từ phức hợp như nguyệt sơ, niên sơ) và các nghĩa khác (đều là nghĩa phái sinh của nghĩa gốc) như sớm nhất; vừa mới, mới bắt đầu; đầu tiên, thứ nhất (đứng đầu các từ phức hợp, làm tính từ chỉ thuộc tính của bộ phận đứng tiếp sau chữ Sơ 初).
- Nhóm (2) gồm những nghĩa như: lúc đầu, ban đầu, trước đây, trước kia, v.v. Đó là nghĩa của chữ SƠ初chỉ khoảng thời gian quá khứ đối với sự việc trong câu trần thuật, thường đóng vai trò trạng từ nhưng cũng có khi là tính từ (như ở từ sơ nguyện).
Sau khi giảng giài về chữ SƠ, từ điển này nêu 32 từ phái sinh có chữ SƠ đứng đầu, như sơ nhật 初日(mặt trời mới mọc); sơ nguyệt 初月(trăng đầu tháng, trăng non); sơ phạm 初犯(phạm tội lỗi lần đầu); sơ giao 初交(sự giao thiệp ban đầu, sự quen biết chưa lâu); sơ thí 初试(có 2 nghĩa: cuộc thí nghiệm lần đầu tiên; cuộc thi thứ nhất trong kỳ thi gồm 2, 3 cuộc); sơ dạ 初夜(có 2 nghĩa: đêm đầu tiên của đôi vợ chồng mới cưới; đêm chưa khuya), v.v., trong đó có từ sơ niên 初年mà chúng tôi sẽ nói đến trong một mục riêng.
3) Tinh tuyển Pháp-Hán Hán-Pháp từ điển (tân bản),với tên bằng tiếng Pháp là Dictionaire concis Francais-Chinois Chinois-Francais) do Thương vụ ấn thư quán của Trung Quốc và Nhà xuất bản Larousse của Pháp phối hợp biên soạn và phát hành tại hai nước, xuất bản lần đầu tiên năm 1994 và đã tái bản nhiều lần. Đây là một cuốn từ điển nhỏ dùng cho học sinh người Pháp và người Trung Quốc. Vì vậy, tuy chứa số từ không nhiều nhưng những từ ngữ đơn giản đều được giảng giải kỹ càng. Tôi sử dụng bản in năm 2003, phần Hán-Pháp gồm hơn 700 trang
初 I.(名) commencement, début. II. (形) 1. qui appartient au commencement de qch: 初冬= le début de l’hiver. 2. premier: 初雪= la première neige; 初三 = le troisième jour d’un mois lunaire. 3. pour la premiere fois: 初露锋芒 = se faire remarquer par son brillant début; faire preuve de sa virtuosity pour la premiere fois. 4. élémentair: 初中, sơ trung =, école secondaire du premier cycle. 5. original:: 初衷= intention première: première volonté
|
I. (danh từ) commencement (khoảng đầu); début (phần đầu, đoạn đầu). II. (tính từ) 1, qui appartient au commencement de qch ( thuộc phần đầu của một sự kiện nào đó); 初冬sơ đông= le début de l’hiver (mùa đông sớm, đầu mùa đông). 2. premier (đầu tiên, thứ nhất). 初雪sơ tuyết= la première neige (đợt tuyết đầu tiên); 初三sơ tam= le troisième jour d’un mois lunaire (ngày mùng ba của một tháng âm lịch); 3. pour la premiere fois (ở lần đầu tiên, thuộc lần thứ nhất):初露锋芒sơ lộ phong mang = se faire remarquer par son brillant début; faire preuve de sa virtuosity pour la premiere fois(hé lộ chút tài lạ, trổ tài lần đầu);4. élémentair (sơ đẳng, sơ cấp): 初中, sơ trung = école secondaire du premier cycle(trường trung học cơ sở); 5. original (từ cội nguồn, từ ban đầu): 初衷sơ trung = intention première: première volonté (nỗi lòng ban đầu, ý nguyện ban đầu)
|
Tất cả các nghĩa có trong nhóm (1) của Cổ kim Hán ngữ thực dụng từ điển đều có mặt ở từ điển “Tinh tuyển” này. Ở đây có sự xác định rõ ràng rằng, trong một từ phức hợp, khi chữ SƠ初đứng ở cuối thì nó là danh từ, khi đứng ở đầu thì nó là tính từ. Từ điển này không kể đến trường hợp chữ SƠ 初đóng vai trò trạng từ như ta thấy trong các sách cổ. Sự giản lược đó là do khuôn khổ và đối tượng phục vụ của nó. Cũng vì vậy, nó chỉ nêu 12 từ phái sinh có chữ SƠ 初đứng đầu, không có từ sơ niên 初年nhưng có từ niên sơ年初= début d’une année (khoảng bắt đầu của một năm).
Ngoài 3 quyển từ điển trên đây, chúng tôi còn tra cứu ở 13 bộ từ điển khác của Trung Quốc để tìm nghĩa của chữ SƠ 初. Cách diễn giải ở tất cả các từ điển này chỉ khác nhau về mức độ rộng hay hẹp, sâu hay nông và chứ hoàn toàn không có sự “xung đột” với nhau. Ở phần phụ lục cuối bài, chúng tôi sẽ cung cấp hình ảnh của phần giải nghĩa chữ SƠ 初ởcác bộ từ điển mà tôi đã sử dụng.
V. Khai Nguyên sơ nghĩa là gì?
Hầu hết các nghĩa của chữ SƠ 初đều là tính từ liên quan đến khoảng thời gian ban đầu của một sự việc, một quá trình, v.v. Chỉ có một trường hợp duy nhất, khi chữ SƠ 初đứng ỏ cuối một danh từ phức hợp thì nó là danh từ chỉ khoảng thời gian ban đầu, giai đoạn khởi đầu (của thời gian dài hơn, đứng trước chữ SƠ) Đó cũng chính là nghĩa của chữ Sơ 初trong các từ nguyệt sơ 月初, niên sơ年初và Khai Nguyên sơ開元初.
Trên những tờ lịch hàng ngày (ở loại lịch bloc), chúng ta thường thấy các chữ sơ nhất 初一, sơ nhị 初二, sơ tam 初三… cho đến sơ thập 初十để chỉ các ngày mùng một, mùng hai, mùng ba... cho đến mùng 10 của mỗi tháng âm lịch. Từ điển Từ hải, trước khi nêu các từ này cũng nêu từ nguyệt sơ 月初, tức là những ngày đầu tháng (âm lịch). Nghĩa này cũng chính là nghĩa của chữ SƠ 初với tư cách là danh từ mà các từ điển trên kia đã giảng là giai đoạn mở đầu, khoảng thời gian ban đầu.
Chữ SƠ 初trong từ Khai Nguyên sơ開元初vàtrong các từnguyệt sơ月初, niên sơ年初đều tương đồng với nhau trong cách cấu tạo từ phức hợp nên ở cả ba trường hợp đó nó đều có nghĩa giống nhau. Để suy ra nghĩa của từ Khai Nguyên sơ 開元初, chúng ta hãy xem xét thêm từ niên sơ年初trong một số từ điển Hán ngữ. Đây là một từ rất thông dụng mà phần lớn mọi người ở Trung Quốc đều biết rõ nên nó thường vắng mặt trong các từ điển lớn. Trong số 16 bộ từ điển mà tôi đã sử dụng thì từ niên sơ年初có mặt trong 5 bộ.
-
Tinh tuyển Hán Pháp từ điển(vừa nói đến ở trên):
年初niên sơ = début d’une année (bắt đầu một năm, đầu năm )
2. Hán Anh đại từ điển, Thượng Hải Giao thông Đại học xuất bản xã, Thượng Hải, 1999, 3514 trang, cỡ giấy 18,3 x 26,6cm
年初niên sơ= the beginning of the year = đoạn đầu của một năm, đầu năm; 去年年初khứ niên niên sơ = at the beginning of last year = hồi đầu năm ngoái)
3.Tân hiện đại Hán ngữ từ điển(kiêm tác Hán Anh từ điển), Hải Nam xuất bản xã, 1996
年初niên sơ (at the beginning of the year) 一年的开头几天(去年年初) = vài ngày đầu năm ( đầu năm ngoái)
4. Hiện đai Hán ngữ đại từ điển, Hán ngữ Đại từ điển xuất bản xã, 6 tập, Tập 1, trang 139.
年初niên sơ = Chỉ nhất niên khai đầu đích kỷ thiên. Như: ngã quốc nông thôn đô hữu niên sơ tẩu thân thích tập tục. 指一年的开头几天.如: 我国农村都有年初走亲戚的习= Chỉ mấy ngày mở đầu một năm (gọn lại là đầu năm) . Như: nông thôn nước ta đều có tập tục đến thăm thân thích đầu năm.
5. Hiện đại Hán ngữ từ điển, Bản thứ 5 (sau 4 lần tu đính), Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2005
年初niên sơ (danh từ) = nhất niên khai đầu đích nhất đoạn thời gian = một đoạn thời gian mở đầu một năm, nói gọn là đầu năm.
Sau cùng, cũng nên nhắc đến Từđiển Hán Việt, Viện Khoa học Xã hội, Phan Văn Các chủ biên, Nxb KHXH, 2002
年初niên sơ = Đầu năm
Ghi chú: Từ điển Hán Việtdo ông Phan Văn Các chủ biên là một cuốn từ điển cỡ vừa, tốt, nghiêm túc, Nêu ra đây là để độc giả tham khảo, nhưng tôi không dùng nó để thay thế các từ điển của Trung Quốc.
Qua lời giảng giải về từ niên sơ 年初 ở 5từ điển Hán ngữ kể trên và ví dụ về từ nguyệt sơ月初trong Từ hải,chúng ta thấy rằng, khi chữ SƠ 初đứng cuối một danh từ phức hợp, và trước nó là một danh từ chỉ một khoảng thời gian dài hơn, đóng vai trò tính từ chỉ thuộc tính của SƠ 初thì chữ SƠ 初ấy có nghĩa là giai đoạn đầu, là khoảng thời gian ban đầu của thời kỳ dài hơn kia. Như vậy, Khai Nguyên sơ開元初nghĩa làgiai đoạn đầu của niên hiệu Khai Nguyên. Vì giai đoạn này kéo dài nhiều năm, và vì Khai Nguyên sơ開元初làm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu trần thuật một số sự kiện thời Đường, cho nên, phải dịch như sau:
Khai Nguyên sơ開元初= Những năm đầu niên hiệuKhai Nguyên
VI. Phân biệt Nguyên niên元年với Sơ niên 初年
1, Nghĩa của từ nguyên niên 元年
Theo các cuốn từ điển Hán ngữ thông thường, chữ nguyên 元cómột số nghĩa như: đầu tiên, thứ nhất (trong: nguyên thủy, nguyên đán...); đứng đầu (trong: nguyên thủ, nguyên soái...); chủ yếu, cơ bản (trong: nguyên tố, nguyên âm...). Đó là những nghĩa chính, thường gặp nhất. Thực ra, chữ nguyên 元còn có rất nhiều nghĩa khác. Từ hải nêu 14 nghĩa nhưng chưa hẳn đã đầy đủ. Nghĩa gốc của chữ nguyên 元là cái đầu người (Theo Từ hải: 元nguyên = 人头nhân đầu, tức là đầu người). Mạnh Tử có một câu rất chí lý, trong đó ông đã dùng chữ nguyên 元 với nghĩa là cái đầu người: Dũng sĩ bất vong táng kỳ nguyên. 勇士不忘喪其元 (người dũng sĩ không quên chuyện mất cái đầu của anh ta, ngụ ý rằng, đã là dũng sĩ thì không sợ mất đầu.) Tất cả các nghĩa còn lại của chữ nguyên 元(thường là tính từ) đều là nghĩa phái sinh từ nghĩa ban đầu này. Bởi vậy, từ nguyên niên 元年với nghĩa là năm đầu tiên hay năm thứ nhất (nguyên có nghĩa phái sinh từ “cái đầu”) nhằm tỏ ý trịnh trọng, trang nghiêm. Phải chăng, từ này quá thông dụng, người Trung Hoa ai cũng hiểu, cho nên từ điển Từ hải 辞海(nghĩa là Biển từ) xuất bản lần đầu tiên năm 1936, qua 9 lần sửa chữa, bổ sung, đến ấn thứ 10, in năm 1999 vẫn không có từ nguyên niên 元年(hiện nay đã có bản thứ 11, in năm 2009 nhưng tôi chưa nhìn thấy). Tuy vậy, hầu hết mọi từ điển Hán ngữ khác đều chứa từnguyên niên 元年, nhưng tùy theo khuôn khổ và đối tượng phục vụ của chúng, nhiều quyển không nêu đủ các nghĩa của từ này. Trong số những quyển từ điển nêu đủ các nghĩa của từ nguyên niên 元年, phải kể đến Hiện đại Hán ngữ từ điển (bản thứ 5)Thương vụ Ấn thư quán , 2005. Sách này phân biệt 3 trường hợp sử dụng từ nguyên niên 元年:
【元年】yuánnián 〖名〗① 帝王或诸侯即位的第一年或帝王改元的第一年, 如隐公元年贞观元年。② 指改元的第一年, 如公元元年, 回历元年。 ③指政体改变或政府组织上的大改变的第一年, 如周大共和元年
Nguyên niên(danh từ): 1.Đế vương hoặc chư hầu tức vị đích đệ nhất niên hoặc đé vương cải nguyên đích đệ nhất niên, như Ẩn công nguyên niên = Năm thứ nhất khi đế vương hoặc chư hầu lên ngôi, hoặc khi đế vương cải đổi niên hiệu, như Ẩn Công nguyên niên, Trinh quán nguyên niên . 2 Chỉ cải nguyên đích đệ nhất niên, như Công nguyên nguyên niên, Hồi lịch nguyên niên = chỉ năm thứ nhất của một kỷ nguyên, như Công nguyên nguyên niên, Hồi lịch (lịch Hồi giáo) nguyên niên. 3 Chỉ chính thể cải biến hoặc chính phủ tổ chức thượng đích đại cải biến đích đệ nhất niên = chỉ năm thứ nhất của một cuôc đại cải biến tổ chức chính phủ hoặc thay đổi chính thể, như Cộng hòa nguyên niên thời nhà Chu (hoặc Dân quốc nguyên niên hồi Cách mạng Tân Hợi - LMC)
Hán Việt từ điển của cụ Đào Duy Anh (ra đời năm 1932) giải thích từ nguyên niên như sau:
Nguyên niên元年= Năm đầu của một ông vua dựng nước - Năm ông vua mới lên ngôi( première année de reigne d’un roi).
Định nghĩa này chỉ tương đương một nửa của định nghĩa thứ nhất trong Hiện đại Hán ngữ từ điển mà chúng tôi vừa nêu. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi vì Hán Việt từ điển của cụ Đào Duy Anh dẫu rất đáng trân trọng nhưng chỉ là một quyển từ điển nhỏ, chủ yếu dùng cho những người Việt Nam biết rất ít chữ Hán hoặc không biết chữ Hán, được biên soạn cách đây hơn 80 năm, tài liệu tham khảo còn ít ỏi..
Thời xưa, ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, hễ nói đến một triều đại hoặc về một ông vua, bao giờ cũng phải dùng lời lẽ trịnh trọng, trang nghiêm, kể cả đối với những ông vua xấu. Bởi vậy, khi không vướng chuyện kỵ húy thì người ta không dùng các từ như nhất niên, đệ nhất niên hay một từ nào khác để thay cho từ nguyên niên.
Trong số 16 bộ từ điển Hán ngữ mà tôi đã sử dụng (có đủ những bộ lớn nhất hiện nay), tôi thấy ở bốn bộ lớn nhất là Hán ngữ đại từ điển (12 tập), Hiện đại Hán ngữ đại từ điển (6 tập), Từ nguyên và Từ hải, đều có từ sơ nguyên 初元được giải thích như sau: sơ nguyên 初元= Hoàng đế đăng cực cải nguyên, nguyên niên xưng “sơ nguyên” 皇帝凳极改元, 元年称“初元”, nghĩa là: Hoàng đế lên ngôi và đổi niên hiệu thì năm đầu tiên, nguyên niên, gọi là sơ nguyên. Nghĩa này ứng với nghĩa của từnguyên niên trong Hán Việt từ điển của cụ Đàò Duy Anh (Chú ý: từnguyên niên元年có nghĩa rộng hơn). Tất cả 4 bộ đại từ điển này đều giải thích giống nhau và đều lấy ví dụ về từ sơ nguyên 初元ở cùng một câu thơ của Tô Thức 蘇軾(1037 -1101), một đại văn hào thời Bắc Tống.Như vậy, chúng ta có thể nghĩ rằng, từ sơ nguyên 初元ít khi được sử dụng.
2. Nghĩa của từ sơ niên 初年
Sơ niên 初年cũng là một từ thông thường, đơn giản, dễ hiểu nên nó cũng vắng mặt trong nhiều cuốn từ điển Hán ngữ. Nhưng nó cũng có mặt ở 8 trong số 16 bộ từ điển của Trung Quốc mà tôi đã sử dụng.
1. Hiện đại Hán ngữ từ điển(Bản thứ năm), Thương vụ Ấn thư quán, Bắc Kinh, 2005
【初年】(名) 指某一历史时期的最初一段= Sơ niên (danh từ): chỉ một đoạn sớm nhất trong một thời kỳ lịch sử: 民国初年Dân quốc sơ niên – Những năm đầu (của thời) Dân quốc
2.Tân hiên đại Hán ngữ từ điển(Kiêm tác Hán Anh từ điển), Hải Nam xuất bản xã, 1996
【初年】(early years) 某一历史时期的最初一段 = sơ niên (những năm đầu), chỉ một đoạn sớm nhất trong một thời kỳ lịch sử
3. Hán Anh tổng hợp đạị từ điển, Đại Liên lý công đại học xuất bản xã (3 tập, 6562 trang), 2004
初年: the first years of a historical period;first spring month (of the lunar year): 民国初年 in the years of the Republic. Sơ niên = những năm đầu của một thời kỳ lịch sử; tháng Giêng âm lịch: Dân quốc sơ niên = trong những năm đầucủa nền Cộng hòa)
4. Cổ kim Hán ngữ thực dụng từ diển.Tứ Xuyên nhân dân xuất bản xã, Thành Đô 1989
【初年】1. 指某一历史时期的最初一段: 民国初年. 2.(书) 一年之初. Sơ niên: 1. chỉ mỗ nhất lịch sử thời kỳ đích tối sơ nhất đoạn: Dân quốc sơ niên, nghĩa là giai đoạn sớm nhất của một thời kỳ lịch sử; như Dân quốc sơ niên tức là những năm đầucủa thời Dân quốc; 2 (sách cổ) khoảng đầu năm
5. Cổ kim Hán ngữ từ điển. Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2000; 2042 trang.
【初年】1. 一年之初.〔例〕主第山門起灞川,宸游風景入初年. ( 唐-沈佺期 “陪倖太平公主南庄” 詩). 2. 指某一历史时期的最初一段. 〔例〕孝宗初年, 规恢之志甚锐. 鹤林玉露卷四| 民国初年
Tác giả xin phép diễn giải rõ lời giảng này, như sau:
Sơ niên: 1. Đoạn đầu của một năm, đầu năm. Ví dụ, ở câu “Chủ đệ sơn môn khởi Bá Xuyên / Thần du phong cảnh nhập sơ niên” trong bài thơ “Bồi hạnh công chúa Thái Bình Nam Trang thi” (Bài thơ ứng tác ở hương Nam Trang nhân dịp may mắn được theo hầu Công chúa Thái Bình) của Thẩm Thuyên Kỳ (thi nhân thời Đường, tuổi tác không rõ, đỗ tiến sĩ năm Thượng Nguyên thứ 2, tức là năm 675). 2. chỉ một đoạn sớm nhất trong một thời kỳ lịch sử, nghĩa là những năm đầu. Ví dụ, ở câu “Hiếu Tông sơ niên, quy khôi chi chí thậm nhuệ”, nghĩa là “Trong những năm đầu thời Tống Hiếu Tông, nhà vua có ý chí triển khai quy chế rất kiên quyết”. Câu này có trong sách “Hạc lâm ngọc lộ” do La Đại Kinh羅大經(1196-1242) biên soạn. (Tống Hiếu Tông tên làTriệu Thận, 趙昚, sinh năm 1127, làm vua Nam Tống từ năm 1163 đến năm 1189, mất năm 1194).
6. Hán ngữ đại từ điển漢語大詞典(gồm 12 quyển, năm 1989, được Liên Hợp Quốc công nhận là bộ từ điển Hán ngữ có uy tín trên thế giới) cũng nêu hai nghĩa và những ví dụ như trong Cổ kim Hán ngữ từ điển mà tôi vừa nêu nhưng còn nêu nhiều ví dụ hơn nữa. Để tiết kiệm thời giờ cho quý vị độc giả, tôi xin phép miễn trích dẫn bộ sách đồ sộ này.
7. Hiện đại Hán ngữ đại từ điển現代语大词典, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, 2006 (gồm 6 quyển) chỉ nêu 1 nghĩa của từ sơ niên 初年(ở trang 241, dòng thứ 9 từ trên xuống, cột bên phải)như sau: 初年sơ niên = 初期sơ kỳ kèm một câu làm ví dụ. Đương nhên, sơ kỳ trong ví dụ này phải kéo dài nhiều năm. Người ta sử dụng từ sơ kỳ là để không phải dùng một câu giải thích lằng nhằng, vì chữ Hán không biểu thị và không phân biệt được danh từ số ít và danh từ số nhiều như ở các ngôn ngữ Tây phương.
8.Từ nguyên辭源(nghĩa là“nguồn từ”, vì nó chứa rất nhiều từ, cũng có nghĩa là căn nguyên của từ) là bộ từ điển đại quy mô đầu tiên của Trung Quốc, thu thập những từ ngữ có từ năm 1840 về trước, nghĩa là từ khi Trung Quốc chưa chịu tác động mạnh mẽ của Tây phương. Tuy có dung lượng rất lớn nhưng cũng như Từ hải sau này, Từ nguyên cũng là sách dành cho những đọc giả “nhiều chữ” nên nó cũng ít quan tâm đến những từ ngữ quá dễ hiểu hay những nghĩa thông thường. Hãy xem Từ nguyên giảng giải về từ sơ niên 初年.
初年sơ niên: 一年之初. 文苑英華一七六唐沈佺期奉和初春幸太平公主南庄應制詩: “主第山門起灞川, 宸游風景入初年”. Diễn giải: 初年sơ niên: Đoạn đầu của một năm, đầu năm. Trong bài thơ củaThẩm Thuyên Kỳ (thi nhân thời Đường) ứng tácở hương Nam Trang nhân dịp đầu xuân may mắn được theo hầu Công chúa Thái Bình đi chơi (in trong Tổng tập văn họcVăn uyển anh hoa, tại quyền 176 trong số hơn 1000 quyển) có câu: Chủ đệ sơn môn khởi Bá Xuyên, Thần du phong cảnh nhập sơ niên, trong đó, 初年sơ niênnghĩa làđầu năm.
Mặc dầu Từ nguyên là một bộ từ điển lớn nhưng vì nó chỉ quan tâm đến những từ ngữ cổ mà ngày nay ít thông dụng nên nó chỉ nêu một nghĩa: 初年sơ niên = 一年之初= đầu năm
Sau khi tra cứu ở 8 bộ từ điển Hán ngữ của Trung Quốc, tôi vẫn muốn nhắc đến Từ điển Hán Việt do Phan Văn Các chủ biên. Cuốn từ điển này dựa theo Hiện đại Hán ngữ từ điển, bản thứ 5 do Thương vụ ấn thư quán ấn hành năm 2005, có chỗ dựa rất tốt, lại được biên soạn cẩn thận.
.初年sơ niên = Những năm đầu(của một thời kỳ lịch sử); Dân quốc sơ niên= Những năm đầuDân quốc.
Nói tóm lại, trong Hán ngữ, từ初年sơ niên có hai nghĩa: 1. 初年sơ niên = Những năm đầu (của một thời kỳ lịch sử). Đây là nghĩa thông dụng nhất từ xưa đến nay; 2. 初年sơ niên = đầu năm. Nghĩa này hẳn là ngày nay không mấy ai sử dụng, bởi vậy, nó không được ghi trong Hiện đại Hán ngữ từ điển, Tân hiện đại Hán ngữ từ điển (Kiêm tác Hán Anh từ điển),Hiện đại Hán ngữ đại từ điển và Từ điển Hán Việtdo Phan Văn Các chủ biên.
Trên kia, khi nói về nghĩa của từ niên sơ年初, tôi có nhắc đến Từ điển Hán Việt do ông Phan Văn Các chủ biên. Theo từ điển ấy, niên sơ年初 = đầu năm. Tôi không phản đối cách dịch này. Mặt khác, trong phần VI này, ở mục 2 (Nghĩa của từsơ niên 初年), một số từ điển đã nêu một nghĩa của từ sơ niên初年trong văn thơ ngày xưa rồi giảng giải rằng, 初年sơ niên =一年之初nhất niên chi sơ, nghĩa là đoạn đầu của một năm. Trong trường hợp này, tôi cũng chấp nhận cách dịch 初年sơ niên = đầu năm. Vậy thì phải chăng, 初年sơ niên và年初niên sơ là hai từ đồng nghĩa? Theo tôi, tuy hai từ này đều được dịch là đầu năm, nhưng đó là những danh từ phức hợp gồm hai thành tố giống nhau và được lắp ghép ngược nhau, do đó, chúng vẫn có sắc thái khác nhau. Trong từ niên sơ年初thì sơ 初là danh từ mang nghĩa duy nhất vốn có từ xa xưa tới này là phần đầu, đoạn mở đầu, giai đoạn đầu (của một sự thời ký lịch sử), và niên 年vốn cũng là danh từ nhưng vì đứng trước sơ 初nên nó trở thành định ngữ chỉ thuộc tính của sơ 初nên lúc này nó có nghĩa là của năm, do đó, niên sơ 年初= thời gian đầu của một năm (âm lịch)= những ngày đầu năm = đầu năm (thường chỉ khoảng thời gian từ sau mùng một Tết đến rằm tháng Giêng âm lịch). Ở từ初年sơ niênthì ngược lại, sơ 初trở thành định ngữ chỉ thuộc tính của niên 年nên nó có nghĩa là ở đoạn đầu, ở thời gian đầu. Do đó,từsơ niên 初年tương ứng với từnăm sớm (mà ở Nghệ Tĩnh tôi vẫn nghe thấy),nghĩa là năm mới vừa qua những ngày Tết chưa lâu. Từ năm sớm có thể bao gồm tháng Giêng âm lịch, như người ta đã dịch trong Hán Anh tổng hợp đạị từ điển:初年sơ niên= first spring month (of the lunar year) = tháng Giêng âm lịch.
Đến dây, chúng ta đã có đủ cơ sở để khẳng định rằng:
+ Ở Trung Quốc thời xưa, trong những hoàn cảnh bình thường (không vướng điều kỵ húy), để chỉ năm thứ nhất của một niên hiệu, người ta dùng từnguyên niên元年, đôi khi có thể dùng từsơ nguyên 初元, nhưng hoàn toàn không thể dùng từ sơ niên 初年. Nhóm từ Khai Nguyên nguyên niên 開元元年có nghĩa làNăm thứ nhất dưới niên hiệu Khai Nguyên.
+ Khai Nguyên sơ 開元初nghĩa làthời gian đầu của niên hiệu Khai Nguyên (không có mốc cụ thể), nhưng vì niên hiệu Khai Nguyên kéo dài gần 30 năm, cho nên Khai Nguyên sơ 開元初phải được dịch là Những năm đầu niên hiệu Khai Nguyên (kéo dài trên/dưới 10 năm)
- Sơ niên 初年nghĩa là những năm đầu (của một thời kỳ lịch sử), không bao giờ có nghĩa là năm đầu tiên của một niên hiệu. Không thể lẫn lộn Sơ niên初年 với Nguyên niên元年.
VII. Các từ Sơ niên初年và Sơ初trong văn bia thời nhà Mạc
Phần quan trọng nhất trong bàiKhởi nghĩa Mai Thúc Loan - năm khởi đầu và kết thúccủa GS Phan Huy Lê là phần 3, với tiêu đề: Khai Nguyên sơ là năm nào? GS Phan Huy Lê đãtra cứu từ điển Từ hải để tìm nghĩa của chữsơ 初nhưng ông đã trích dẫn sai (trong đó có từ nguyệt sơ月初thì ông lại viết là sơ nguyệt), rồi ông chọn cho chữ sơ 初một nghĩa là mới bắt đầu, là lần thứ nhất mà không căn cứ vào một nguyên tắc nào cả.Theo nguyên tắc cấu tạo các từ phức hợp trong Hán ngữ thì trong từ Khai Nguyên sơ, Khai Nguyên là bộ phận chỉ thuộc tính của sơ.Sau một lúc quanh co bối rối, cuối cùng, ông lại phán rằng, sơ nghĩa lànăm thứ nhất, lànăm đầu tiên. Từ cách dịch sai này, ông đã xác quyết rằng:
Khai Nguyên sơ là năm đầu tiên của niên hiệu Khai Nguyên, tức là năm 713.
Để khẳng định “độ tin cậy” của cách dịch ấy, GS Phan Huy Lê đã lấy dẫn chứng từ hai quyển sách đã xuất bản gồm cả nguyên bản chữ Hán:
1. Văn bia thời Mạc do PGS. TS. Đinh Khắc Thuân sưu tầm, khảo cứu và dịch chú.
2 Tuyển tập văn khắc Hán Nôm của Hà Nội do PGS. TS. Phạm Thị Thúy Vinh chủ trì.
Trong quyển Văn bia thời Mạc, GS Phan Huy Lê đã tìm thấy 23 bài văn bia từng sử dụng các niên đại gồm các chữ niên hiệu + sơ niên, niên hiệu + sơvà niên hiệu + vạn vạn niên chi sơđể chỉ năm đầu tiên của niên hiệu đó. Ví dụ:
- Quảng Hòa sơ niên= năm thứ nhấtthuộc niên hiệu Quảng Hòa của Mạc Phúc Hải, tức là năm 1541.
- Vĩnh Định sơ= năm thứ nhấtthuộc niên hiệu Vĩnh Định của Mạc Phúc Nguyên, tức là năm 1547
- Thuần Phúc vạn vạn niên chi sơ= năm thứ nhấtthuộc niên hiệu Thuần Phúc của Mạc Mậu Hợp, tức là năm 1565 (Sai. Phải là năm 1562 mới đúng)
Trong 23 bài văn bia ấy, có 15 trường hợp ghiniên hiệu + sơ niên; 2 trường hợp ghi niên hiệu + sơ;6 trường hợp ghiniên hiệu + vạn vạn niên chi sơ.
Tra cứu lại các sách lịch sử và niên biểu các đời vua nhà Mạc, chúng tôi thấy rằng, trong bảng VĂN BIA THỜI MẠC do GS Phan Huy Lê lập ra, đã có 7 trường hợp sai lầm ở các tấm bia mang các số thứ tự trong bảng này là 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11. Cụ thể là, ở bia thứ 5, nếu xác định rằng, Quang Bảo sơ niên là năm thứ nhất thuộc niên hiệu Quang Bảo thì đó phải là năm 1554 chứ không thể là năm 1555. Hoặc, nếu Thuần Phúc vạn vạn niên chi sơ hay Thuần Phúc sơ niên là năm thứ nhất thuộc niên hiệu Thuần Phúc thì đó là năm 1562 chứ không phải là năm 1565 như đã ghi ở các bia số 6, 7, 8; cũng không phải là năm 1656 như đã ghi ở các bia số 9 và 10. Bia số 11 ghi là làm năm Mậu Thìn Thuần Khang sơ niên (1568), nhưng năm 1568 lại là năm thứ tư thuộc niên hiệu Sùng Khang. Hơn nữa, nhà Mạc không có niên hiệu Thuần Khang.
Ngoài 7 trường hợp sai lầm ấy, chúng ta có thể tin rằng, ở 16 trường hợp còn lại, các năm được ghi bằngniên hiệu + sơ niên, hoặcniên hiệu + sơ, hoặc niên hiệu + vạn vạn niên chi sơ đều là những năm đầu thuộc các niên hiệu tương ứng, đúng như lời của GS Phan Huy Lê. Vậy thì 16 trường hợp còn lại ấy có giúp cho GS Phan Huy Lê bảo vệ lý lẽ của ông hay không?
Xin trả lời rằng, chúng không giúp gì cho GS Phan Huy Lê, mà ngược lại, chúng ủng hộ người đã bác bỏ “phát hiện mới” của ông. Vì sao, chứng cứ ở đâu?
Nhà Mạc (1527 - 1592) có ông vua thứ tư tên là Mạc Phúc Nguyên 莫福源trị vì từ năm 1546 đến năm 1561 thì chết. Tiếp đó, con ông ta là Mạc Mậu Hợp nối ngôi từ năm 1562 đến năm 1692 thì bị Trịnh Tùng giết, Nhà Mạc bị diệt từ đó. Dưới thời Mạc Phúc Nguyên và Mạc Mậu Hợp có lệ kiêng húy âmnguyên, không ai được sử dụng mọi từ ngữ có âm nguyên. Trong các văn bản thời đó, những chỗ đáng lẽ phải dùng chữ nguyên (dù là 源, 原, hay 元, v.v.) đều phải đổi sang chữ khác để không phạm húy. Để chỉ năm thứ nhất của một niên hiệu người ta dùng từ nguyên niên, đôi khi có thể dùng từ sơ nguyên. Cả hai trường hợp này đều có chữnguyên, cho nên, dùsử dụngtừ nguyên niên hay từ sơ nguyên thì cũng phải đổi thành sơ niên. Như trên kia chúng tôi đã nói rõ, sơ niên nghĩa là những năm đầu (của một thời kỳ lịch sử), mà chữ sơ 初khi đứng cuối một danh từ phức hợp như Khai Nguyên sơ 開元初thì nó(sơ初) là một danh từ có nghĩa là khoảng thời gian đầu (của một thời kỳ dài hơn), và khi mà khoảng thời gian đầu ấy kéo dài nhiều năm thì sơ 初được dịch là những năm đầu, cũng giống như sơ niên vậy. Bởi thế, ở bia số 14, đáng lẽ viết Diên Thành sơ niên, người ta chỉ viết là Diên Thành sơ.
Cũng cần nói thêm một chút về tầm bia số 1, dựng năm Quảng Hòa sơ niên (1541). Lúc dựng bia, Mạc Phúc Nguyên chưa lên ngôi nên có thể là năm ấy chưa có việc kiêng húy âm nguyên. Nhưng 5 năm sau đó trở đi,Mạc Phúc Nguyên lên ngôi và có lệnh kiêng húy âm nguyên thì việc áp dụng lệ kiêng húy ở một tấm bia 4 - 5 tuổi là điều hết sức bình thường, rất dễ thực hiện bằng cách làm tấm bia mới tránh tên húy để thay thế tấm bia trước đó...
Việc kiêng húy âm nguyên dưới thời nhà Mạc đã được xác nhận trong sách Nghiên cứu chữ húy ở Việt Nam qua các triều đại (của PGS Ngô Đức Thọ, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1997). Ở trang 74 của sách này có đoạn:
.....đời Phúc Nguyên đổi các địa danh có âm Nguyên
-
Bình Nguyên平原là tên huyện đời Lê sơ, đến đời Mạc Phúc Nguyên kiêng húy đổi tên là Bình Tuyền平泉. Đến năm 1842 kiêng chính húy của vua Thiệu Trị (Tuyền), đổi gọi là Bình Xuyên 平川.
-
Phú Nguyên富原: tên huyện đặt từ đời Hồng Đức là huyện Phù Vân 浮雲. Khoảng năm Quang Thiệu (1516 - 1522) đời Lê Chiêu Tông đổi gọi là Phú Nguyên富原. Đến đời Mạc Phúc Nguyên kiêng húy, đổi là Phú Xuyên 富川. Nay vẫn gọi là huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây.
-
Thất Nguyên七原: tên châu thời Lý, thời thuộc Minh đổi là Thất Nguyên七源. Đến đời Mạc Phúc Nguyên kiêng húy đổi là Thất Tuyền七泉. Năm 1842, kiêng chính húy vua Thiệu Trị (Tuyền) đổi gọi là huyện Thất Khê七溪. Nay là huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
Để tăng thêm chứng cứ cho mình, GS Phan Huy Lê còn trưng dẫn TUYỂN TẬP VĂN KHẮC HÁN NÔM CỦA HÀ NỘI (do PGS TS Phạm Thị Thùy Vinh chủ trì). Cả bốn bài văn bia được ông nêu ra ở đây đều không có chữ sơ初hoặc sơ niên初年nên không liên quan đến việc bàn cãi vềKhai Nguyên sơ 開元初.Bởi vậy, việc xem xét bốn bài văn bia ấy là điều không cần thiết.
Việc trưng dẫn 23 bài văn bia thời Mạc (có sự sai lầm ở 7 bài) tưởng như là dẫn chứng có sức thuyết phục mạnh mẽ nhằm giúp GS Phan Huy Lê khẳng định điều mà ông thích thú là:
Khai Nguyên sơ = Khai Nguyên nguyên niên (tức là năm 713)
để xác nhận rằng: Khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm 713, rồi từ đó khẳng định:
Khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ và thắng lợi từ năm 713, giành độc lập cho đất nước trong 10 năm (713 - 722)
|
Tiếc thay, 16 tấm bia thời nhà Mạc tuy có chữ sơ niên để chỉ năm thứ nhất của một niên hiệu nhưng sự thật thì đó chính là chữ nguyên niên mà phải viết chệch đi vì kỵ húy.
VIII. Không thể dựa vào chữ Hán trong sách của người Việt để hiểu nghĩa của chữ Hán trong sử liệu của Trung Quốc.
Giới trí thức Việt Nam thời xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của Hán học, họ sử dụng rất nhiều từ ngữ bằng chữ Hán, phần lớn đều là những từ ngữ có sẵn trong Hán ngữ. Tuy nhiên, họ cũng sử dụng khá nhiều từ được cấu tạo bởi các thành tố của Hán ngữ nhưng lắp ghép theo kiểu Việt Nam khiến người Hán không thể hiểu được. Những biến tướng đó càng ngày càng nhiều và càng sai lệch, cần phải lưu ý.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lập nên triều đình nhà Mạc tại Thăng Long, rồi ít lâu sau đó, Nguyễn Kim cũng tìm con cháu nhà Lê để dựng lên một triều đình ở Thanh Hóa chống lại họ Mạc. Các triều đình của họ Mạc và của họ Lê được gọi là Bắc triều và Nam triều. Cách gọi như vậy hoàn toàn đúng theo quy tắc trong Hán ngữ, nghĩa thành tố chính (triều, tức triều đình) thì đứng sau thành tố phụ (Bắc, Nam). Nhưng, trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, có hai thế lực cát cứ ở Đàng Ngoài (phía bắc) và Đàng Trong (phía nam), lấy sông Gianh làm ranh giới, thì người ta gọi Đàng Ngoài là Bắc Hà và Đàng Trong là Nam Hà để chỉ các vùng đất ở phía bắc và ở phía nam sông Gianh. Theo quy tắc trong Hán ngữ thì ta phải gọi là Hà Bắc và Hà Nam mới đúng, giống như ở Trung Quốc, tỉnh ở phía bắc sông Hoàng Hà thì gọi là Hà Bắc, tỉnh ở phía nam Hoàng Hà thì gọi là Hà Nam. Các địa danh Bắc Hà và Nam Hà đã được các nhà nho Việt Nam sử dụng hẳn hoi nhưng có cấu tạo trái ngược với quy tắc của Hán ngữ.
Trong Truyện Kiều, từ sai nha được sử dụng 3 lần (ở câu 576: Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao; ở câu 597: Một ngày lạ thói sai nha; ở câu 1407: Cùng nhau theo gót sai nha). Mọi người đều hiểu rằng, sai nha là người để sai khiến làm các công việc lặt vặt ở các công đường (cơ quan hành chính thời phong kiến), cùng nghĩa với nha lại, nha dịch hay công sai. Thế thì phải gọi là nha sai, nhưng do chịu ảnh hưởng của cách tạo từ phức hợp trong tiếng Việt và do thói quen lâu ngày nên nó đã được các nhà nho chấp nhận. Nhưng người Hán thì không thể chấp nhận và không thể hiểu nổi từ này, bởi vì, theo cấu tạo của nó thì từsai nha phải được hiểu là cơ quan (nha) để sai khiến, chứ không phải là người để sai khiến, vả lại, không thể có cái cơ quan như thế.
Nói đến từ “thạch tín”, chẳng người Hán nào hiểu đó là cái gì. Nhưng trong tiếng Việt thì đó là một từ không đến nỗi xa lạ. Từ điển từ và ngữ Hán Việt của Nguyễn Lân giải thích như sau: THẠCH TÍN : Hợp chất của asen, chứa nhiều độc tố. Chất thạch tín thường được gọi là nhân ngôn. Còn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì viết: thạch tín: xem: nhân ngôn, nghĩa là: thạch tíncũng lànhân ngôn. Xem từ nhân ngôn thì được biết: nhân ngôn, cùng nghĩa với thạch tín, là Hợp chất của arsenic, màu vàng, vị đắng, rất độc, dùng làm thuốc. Các từ tố thạch, tín, nhân, ngôn đều lấy ở Hán ngữ, chưa hề chuyển thành tiếng Việt như các từ thánh, thần, ma, quỷ, bệnh, tật, v.v. Nhưng không thể nói rằng thạch tín là một từ của Hán ngữ, vì người Hán không thể hiểu nó là cái gì. Từ nhân ngôn trong Hán ngữ không phải là tên một chất nào cả, mà có nghĩa là lời bàn tán của người đời; tục ngữ Trung Hoa có câu; “nhân ngôn khả úy”, nghĩa là, “lời bàn tán của thiên hạ thật là đáng sợ”.
Trong Hán ngữ không có từ thạch tín, mà chỉ có từ tín thạch信石. Đó là một khoáng vật dạng bột, chứa arsenic (nguyên tố hóa học số 33, ký hiện là As), rất độc, được sử dụng trong Đông y từ xa xưa để tiêu diệt các ổ ung nhọt, nhiễm trùng, thối rữa. Nó vốn có tên là tỳ sương砒霜hay tỳ thạch砒石, là arsenic trioxid (As2O3) không thuần chất, thường găp ở vùng Tín Châu (dải đất Thượng Nhiêu thuộc tỉnh Giang Tây ngày nay) nên được gọi là tín thạch, hoặc gọi tắt là tín信, rồi người Việt Nam chuyển thành thạch tín. Người ta còn “chiết tự”, bẻ chữ tín 信thành hai phần là亻(biến thể của chữ nhân人) và chữ ngôn言rồi đọc là nhân ngôn 人言.
Các nhà khoa học Việt nam dùng từ môi sinh để chỉ “môi trường sống của sinh vật” (theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên), tưởng như đó là một từ trong Hán ngữ. Tuy nhiên, Hán ngữ chỉ có thể chấp nhận từ sinh môi 生媒mang nghĩa ấy, chứ không thể có từ môi sinh. Trên bàn thờ tổ tiên ở các gia đình, thường có một chiếc bàn nhỏ, trên đó bày hương và đèn để thờ cúng, gọi là hương án 香案. Gọi như thế là đúng theo Hán ngữ. Nhưng cái bàn nhỏ để đặt sách vở giấy bút, để đọc sách hoặc ghi chép, đáng lẽ phải gọi là thư án書案thì người Việt Nam lại gọi là án thư, một từ mà người Hán không thể hiểu đó là cái gì. Loại vật liệu rắn, trong suốt, có thành phần là thạch anh (SiO2) không tinh khiết, vô định hình (không có cấu trúc tinh thể), rẻ tiền, dùng để làm các tấm kính hoặc chai lọ, mà tiếng Anh gọi là glass, tiếng Pháp gọi là verre, thì người Hán gọi là pha lê玻璃nhưng ở Việt Nam thì gọi là thủy tinh. Ngược lại, loại vật liệu rắn trong suốt, có thành phần là thạch anh thuần chất, có cấu trúc tinh thể, rất cứng, rất đẹp, rất đắt tiền, mà tiếng Anh gọi là crystal, tiếng Pháp gọi là cristal (các từ này còn có nghĩa là tinh thể), người Hán gọi là thủy tinh nhưng ở Việt Nam lại gọi là pha lê.
Có thể tìm thấy rất nhiều từ khác nữa, trong đó, các thành tố của Hán ngữ dược lắp ghép sai quy tắc của Hán ngữ, nên người Hán không thể hiểu nổi. Thứ “chữ Hán của người Việt” ấy không hề tồn tại trong Hán ngữ. Bởi vậy, không thể dựa vào các tài liệu bằng chữ Hán ở Việt Nam để tìm hiểu và giải thích các từ ngữ hoặc các khái niệm trong Hán ngữ. Phải tra cứu ở các tài liệu của Trung Quốc mới có thể hiểu đúng nghĩa các từ ngữ, các khái niệm được sử dụng ở nước này. Tiếc thay, GS Phan Huy Lê chỉ dựa vào thứ “chữ Hán của người Việt” để giải nghĩa các từ ngữ của Trung Quốc, mà rõ ràng nhất là trong việc giải nghĩa từ Khai Nguyên sơ. Tuy ban đầu ông có đụng đến từ điển Từ hải nhưng vì tra từ điển chưa thạo nên ông bỏ qua nghĩa thích hợp nhất, hơn nữa, ông không nghĩ đến việc tra cứu ở rất nhiều từ điển khác, cuối cùng lại dựa vào tài liệu của người Việt, vừa ít ỏi, vừa dễ bị nhầm lẫn.
Hẳn là GS Phan Huy Lê chưa quên rằng, sau khi tôi công bố bài Lược khảo về các tên gọi “viện hàn lâm” và “viện sĩ” cùng những nhầm lẫn tai hại (tạp chí Nghiên cứu và Phát triển đã công bố hồi tháng 10/2012 rồi được phổ biến rộng rãi trên mạng Internet) thì chỉ có một người duy nhất là GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc phản bác qua bài Về những “sai lầm tai hại” của ông Lê Mạnh Chiến, bằng cách mò mẫm trong vài quyển từ điển Nga - Việt hay Pháp - Việt nho nhỏ gì đó dùng cho học sinh trung học và tiểu học, rồi dựa vào cách dịch sai ở các từ điển này (mà ông ta không thể biết là sai) để kết tội tôi một cách tùy tiện. Nhưng chỉ khoảng 10 ngày sau đó thì có bài Danh hiệu viện sĩ viện hàn lâm Pháp của GS Phan Huy Lê: một sự mạo xưng liều lĩnh? của Nguyễn Hưng vạch rõ sai lầm nghiêm trọng và ác ý của GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc khiến ông ta hết đường chối cãi. Sai lầm nghiêm trọng của ông ta là ở chỗ, ông ta đã dựa vào tiếng Việt trong từ điển song ngữ của người Việt (nghèo nàn, có nhiều sai sót) để cãi lại quy chế bằng tiếng Nga của Viện hàn lâm khoa học Nga và quy chế bằng tiếng Pháp của Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn ở Pháp, kèm theo lời giải thích rấ rõ rang mà tôi đã trích dẫn nguyên văn và dựa vào đó để dịch sang tiếng Việt.
Lần này,“hiện tượng Nguyễn Quang Ngọc” lại tái hiện GS Phan Huy Lê. Ngoài khuyết điểm không nhìn thấy ảnh hưởng của sự kỵ húy đối với các bài văn bia thời Mạc, GS Phan Huy Lê cũng mắc phải cănbệnh của GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc, đó là sử dụng sách của người Việt (có lúc đúng, có lúc sai, chưa đủ độ tin cậy) để xác minh nghĩa của chữ Hán trong sử liệu của Trung Quốc. Tuy nhiên, hoàn cảnh của hai thầy trò này cũng có khác nhau. Ông Ngọc sử dụng sách tiếng Việt sai để cãi lại quy chế của người Nga viết bằng tiếng Nga và của người Pháp viết bằng tiếng Pháp. Còn ở trường hợp của GS Phan Huy Lê thì hơi khác một chút. Về chữ sơ初, tôi nghĩ là quá đơn giản nên không muốn lôi nhiều sách vở ra làm gì nhưng ông ngỡ là tôi không biét gì, thế là ông bèn dùng thứ “chữ Hán của người Việt” để phán xét chữ Tàu trong sách Tàu, nghĩ rằng tôi sẽ “hết đường chối cãi”. Mong rằng, GS Phan Huy Lê sẽ bác biò được mọi luận cứ trên đây của tôi.
Ngay cả khi không phát hiện ra hiện tượng kỵ húy thì chúng ta vẫn không thẻ thừa nhận giá trị của từ sơ niên trong 16 bâì văn bia mà GS Phan Huy Lê đã trưng ra. Vì sao? Thứ nhất là vì, GS Phan Huy Lê đã nêu ra 23 bài văn bia để làm bằng chứng nhưng có đến 7 bài không ăn khớp với lời khẳng định của ông. Nhưng điều quan trọng hơn hết là không thể chấp nhận phương pháp làm việc sai nguyên tắc của ông, như tôi vừa phân tích. Ông Phan Huy Lê chỉ ngó qua từ điển Từ hải nhưng ông đã đọc sai, chép sai, chọn nghĩa sai, không thể coi như ông đã căn cứ vào từ điển Từ hải. Trên thực tế, ông không sử dụng được một quyển từ điển Hán ngữ nào cả, và chỉ dựa vào một quyển sách dịch từ bản chữ Hán của người Việt, còn tôi thì đã tra cứu hơn 16 bộ từ điển, trong đó có hầu hết các từ điển lớn nhất của Trung Quốc như Hán ngữ đại từ điển gồm 12 tập, Hiện đại Hán ngữ đại từ điển gồm 6 tập, Hán Anh đại từ điển (gần 3500 trang khổ to), Hán Anh tổng hợp đại từ điển (gồm 6562 trang khổ to), Từ hải, Từ nguyên, v.v. Trong việc tìm nghĩa của một khái niệm bằng chữ Hán, 16 bộ từ điển của Trung Quốc phải có giá trị gấp hàng vạn lần so với 1 quyển sách tiếng Việt dịch từ bản chữ Hán của người Việt mà GS Phan Huy Lê đã sử dụng.
IX. Về năm bùng nổ và năm thắng lợi của khởi nghĩa Mai Thúc Loan
Ở cuối bài Phải chăng khởi nghĩa Mai Thúc Loan nổ ra năm 713 như “phát hiện mới” của GS Phan Huy Lê? tôi đã viết, nguyên văn như sau:
【Mai Thúc Loan bị Dương Tư Húc đánh bại vào năm 722, như các sách chính sử đã ghi là điều đáng tin... Hẳn là lực lượng của người anh hùng họ Mai đã được gây dựng và tồn tại trước đó một thời gian, nhưng là thời gian bao lâu thì chúng ta không biết. Những gì chúng ta biết được về Mai Thúc Loan và về các anh hùng chống giặc phương bắc khác đều rất ít ỏi, chỉ là những mẩu nhỏ nằm trong các bản ghi chép về hành trạng của các hoàng đế, các công thần, các võ tướng của Trung Quốc, được ghi lại trong sách vở của họ. Nhưng không thể vì thiếu sử liệu, thiếu bằng chứng mà chúng ta bịa đặt ra những sự kiện vẻ vang để tô vẽ cho mình và lừa dối cả dân tộc, hiện tại và mai sau. Việc các sách lịch sử Trung Quốc ghi thời gian khởi nghĩa của Mai Thúc Loan là “Khai Nguyên sơ”, nghĩa là “trong những năm đầu niên hiệu Khai Nguyên”, tuy không chỉ rõ cụ thể năm nào, nhưng là hoàn toàn đúng, bởi vì chính năm 722 vẵn thuộc khoảng một phần ba đầu tiên của niên hiệu này. Các nhà sử học tiền bối đã làm việc một cách nghiêm túc và thận trọng.】
Mọi người đều có thể đọc lại bài của tôi trên mạng Intenet, tại đại chỉ đã nêu ở trên.
Tôi không hề xác quyết rằng, Khởi nghĩa Mai Thúc Loan nổ ra trong năm 722 và bị dập tắt ngay trong năm ấy. Thế nhưng, trên bản điện tử của tạp chí Văn hóa Nghệ An, ngày 27/02/2013 xuất hiện bàiMột số vấn đề về phương pháp luận sử học và vấn đề thời điểm bùng nổ của khởi nghĩa Mai Thúc Loan, trong đó, tác giả Phạm Lê Huy đã cố ý xuyên tạc ý kiến của tôi để “phê phán”. Phạm Lê Huy viết:
【Quay lại với cuộc tranh luận về thời điểm bùng nổ của khởi nghĩa Mai Thúc Loan, chúng ta thấy rằng một số tác giả, mà tiêu biểu là Lê Mạnh Chiến, đã căn cứ vào các ghi chép của chính sử đưa ra nhận định rằng "khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm 722 và cũng bị dập tắt trong năm đó", hay "hai bộ chính sử của Việt Nam và cả hai bộ chính sử của Trung Quốc về thời nhà Đường đều ghi chép một cách thống nhất: Khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm Nhâm Tuất, Khai Nguyên thứ 10, tức là năm 722."】
Tôi rất ngạc nhiên khi thấy tác giả này đã cố ý xuyên tạc ý kiến của tôi, vì các đoạn trong ngoặc kép kia của Phạm Lê Huy là tôi nói về hai bộ chính sử của nước ta chứ đâu phải là ý kiến của tôi, như tôi vừa nhắc lại. Cả hai ông Phạm Lê Huy và Phan Huy Lê đều có thể kiểm chứng ngay lập tức.
Trong bài mà quý vị đang đọc ở đây, một lẩn nữa, tôi đã chứng minh rất cặn kẽ rằng, Khai nguyên sơ nghĩa là những năm đầu niên hiệu Khai Nguyên chứ hoàn toàn không phải là năm thứ nhất của niên hiệu Khai Nguyên. Nếu GS Phan Huy Lê cho rằng cách dịch của tôi là sai thì ông hãy bám theo từng luận cứ của tôi mà vạch rõ cho mọi người thấy tôi sai ở chỗ nào.
Nếu quả thật tôi đã hiểu sai mấy chữ Khai nguyên sơ và đã dịch sai, mà phải theo lời dạy của GS Phan Huy Lê mới đúng, nghĩa là, phải hiểu rằng, Khai Nguyên sơ nghĩa là năm thứ nhất của niên hiệu Khai Nguyên, tức là năm713 thì tôi phải thừa nhậnmình làmột thằng cực kỳ ngu dốt. Nhưng, ngay cả trong trường hợp ấy, sự hiểu biết về Khởi nghĩa Mai Thúc Loan cũng không thay đổi đáng kể. Bởi vì, nếu hiểu rằng Khai Nguyên sơ là những năm đầu niên hiệu Khai Nguyên, nghĩa là giai đoạn đầu của những năm từ 713 đến 741, cứ cho là một phần ba của thời gian ấy (tương tự như “nguyệt sơ” vậy) thì thời gian bùng nổ cuộc khởi nghĩa này chưa được xác định rõ, có thể là ngay từ năm 713 cho đến vài ba năm hoặc bảy - tám năm sau đó. Còn nếu Khai Nguyên sơ đích xác là năm thứ nhất của niên hiệu Khai Nguyên (như lời của GS Phan Huy Lê) thì Khởi nghĩa Mai Thúc Loan nổ ra năm 713, một mốc thời gian rất cụ thể nhưng cũng không làm đảo ngược nhận thức về cuộc khởi nghĩa này. Về năm toàn thắng của cuộc khởi nghĩa này thì chưa tìm thấy một sử liệu nào nói đến nên không thể biết là nó có dẫn đến một ngày toàn thắng hay không. Lẽ nào chỉ vừa mới nói năm nổ ra khởi nghĩa là năm 713, thế mà chỉ sau một nháy mắt, năm 713 ấy liền trở thành năm toàn thắng của cuộc khởi nghĩa này?
Ở bài Một số vấn đề phương pháp luận sử học và vấn đề thời điểm bùng nổ của khởi nghĩa Mai Thúc Loan, Phạm Lê Huy cố ý xuyên tạc luận cứ của tôi, tìm cớ để gán ghép cho tôi những sai làm ngớ ngẩn. Phạm Lê Huy viết:
.......【Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần trước, bản thân các ghi chép trong các bộ chính sử của cả Việt Nam và Trung Quốc về khởi nghĩa Mai Thúc Loan đều được gắn với một mốc thời điểm rất cụ thể là ngày 17 (Bính Tuất) tháng 7 năm Khai Nguyên 10. Rõ ràng khởi nghĩa Mai Thúc Loan không thể gói gọn được trong một ngày duy nhất đó. Nói cách khác, ngày 17 tháng 7 chỉ là một thời điểm gắn liền với một sự kiện nằm trong chuỗi các sự kiện liên quan đến khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Việc lấy tư liệu của một ngày duy nhất - ngày 17 tháng 7 làm mốc thời điểm khởi nghĩa bùng nổ và kết thúc là một sai lầm, ít nhất là về mặt phương pháp luận. Điều này tương tự việc lấy tư liệu về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để kết luận cuộc kháng chiến chống Mỹ của chúng ta khởi đầu và kết thúc trong cùng năm 1975. Sai lầm nêu trên bắt nguồn từ nhận thức không đầy đủ về cách thức ghi ngày can chi trong các sách Cựu - Tân Đường thư.】
Theo Phạm Lê Huy thì các bộ chính sử của cả Việt Nam và Trung Quốc đều gắn cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan với một mốc thời điểm rất cụ thể là ngày 17 (Bính Tuất) tháng 7 năm Khai Nguyên và đều gói gọn trong một ngày duy nhất đó. Nếu các sử gia của Việt Nam và của Trung Quốc đều dốt như thế thì Phạm Lê Huy đã đưa ra nhận xét rất đúng: “Việc lấy tư liệu của một ngày duy nhất - ngày 17 tháng 7 (Khai Nguyên 10, tức là năm 713) làm mốc thời điểm khởi nghĩa bùng nổ và kết thúc là một sai lầm... Điều này tương tự việc lấy tư liệu về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để kết luận cuộc kháng chiến chống Mỹ của chúng ta khởi đầu và kết thúc trong cùng năm 1975”.
Tôi đã đọc các sách chính sử bị Phạm Lê Huy chê cười ấy (ở những đoạn liên quan đến Khởi nghĩa Mai Thúc Loan) nhưng không thấy ở đâu nói rằng khởi nghĩa Mai Thúc Loan nổ ra và kết thúc trong một ngày 17 tháng 7 năm Khai Nguyên 10. Nhưng tôi đã thấy GS Phan Huy Lê cố sức giải nghĩa mấy chữ Khai Nguyên sơ một cách khác thường, cho đó là năm thứ nhất của niên hiệu Khai Nguyên tức là năm 713 để xác nhận rằng Khởi nghĩa Mai Thúc Loan nổ ra năm 713, rồi từ đó “phát hiện” năm 713 là năm mà Mai Thúc Loan giành được thắng lợi, mở ra một thời kỳ độc lập kéo dài gần 10 năm (713 - 722). Nếu lấy lời của Phạm Lê Huy: “Điều này tương tự việc lấy tư liệu về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để kết luận cuộc kháng chiến chống Mỹ của chúng ta khởi đầu và kết thúc trong cùng năm 1975” để áp dụng cho “phát hiện mới” của GS Phan Huy Lê thì thích hợp vô cùng.
Tác giả xin dừng bút tại đây, Cảm ơn quý vị độc giả đã chịu khó đọc hết bài này
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
-
Hán ngữ đại từ điển (bộ 12 tập)
-
Hiện đại Hán ngữ đại từ điển (bộ 6 tập)
-
Từ hải (bản 1936)
-
Từ hải (bản 1989)
-
Từ hải (bản 1999)
-
Từ nguyên
-
Cổ kim Hán ngữ từ điển, Thương vụ ấn thư quán, Băc Kinh, 2000
-
Cố kim Hán ngữ thực dụng từ điển, Tứ Xuyên nhân dân xuất bản xã, Thành Đô, 1989
-
Hiện đại Hán ngữ từ điển (bản thứ 5), Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2005
-
Tân hiện đại Hán ngữ từ điển, (Kiêm tác Hán Anh từ điển), Hải Nam xuất bản xã, 1996
-
Hán Anh đại từ điển,Thượng Hải Giao thông Đại học xuất bản xã, 1999
-
Hán Anh tổng hợp đại từ điển, Đại Liên Lý Công Đại học xuất bản xã, 2004
-
Tinh tuyển Pháp Hán Hán Pháp từ điển, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2003
-
Hán Anh song giải Tân Hoa tự điển, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2000
-
Tân Hoa tự điển, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 1998
-
Tân biên tự điển, Cát Lâm Đại học xuất bản xã, Cát Lâm, 2000
-
Hán Việt từ điển, Đào Duy Anh, Nhà xuất bản Trường Thi, Sài Gòn, 1957
-
Từ điển Hán Việt. Phan Văn Các chủ biên, Nhà xuất bản Tp Hồ Chí Minh, 2001
-
Nghiên cứu chữ húy ở Việt Nam qua các triều đại (của PGS Ngô Đức Thọ, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1997).
Ghi chú: Vì lí do kỉ thuật nên bản chụp các trang từ điển tác giả Lê Mạnh Chiến sử dụng trong bài này chúng tôi chưa đưa lên được. Mong thông cảm. Quý vị nào cần tra cứu chúng tôi sẽ gửi bằng email.