Những góc nhìn Văn hoá

Khởi nghĩa Mai Thúc Loan, năm khởi đầu và năm kết thúc

 

 

1. Đặt vấn đề tiếp tục nghiên cứu, xác minh

Cuộc Hội thảo khoa học “Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu” do Viện sử học Việt Nam và Đại học Vinh tổ chức ngày 8 và 9-11-2008 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, đã đi đến kết luận xác định khởi nghĩa Mai Thúc Loan không phải chỉ bùng nổ và thất bại trong năm 722 như ghi chép của chính sử và các công trình nghiên cứu trước đây.

 Bằng vào sự phân tích nhiều cứ liệu mới phát hiện, hội thảo cho rằng cuộc khởi nghĩa Hoan Châu thất bại vào cuối năm 722 nhưng khởi đầu từ năm 713, trước đó gần 10 năm[1]. Nhiều nhà sử học đánh giá đó là một thành tựu có giá trị trong nghiên cứu cổ sử nói chung và thời chống Bắc thuộc nói riêng trong thập kỷ gần đây. Nhưng một phát hiện khoa học mới thường phải qua một số thử thách, thường là sự hoài nghi, phản biện, thậm chí phủ định của một số người. Đó là chuyện thường tình trong khoa học miễn là sự tranh luận diễn ra trong tinh thần học thuật với mục tiêu vì chân lý, tôn trọng sự thật và trong môi trường văn hóa. Trong báo cáo tham gia hội thảo năm 2008, tôi vừa khẳng định khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm Khai Nguyên sơ tức năm 713 và thất bại năm 722, nhưng cũng nhận thấy “các tư liệu, phần lớn là truyền thuyết, thần phả,, chưa hội đủ thông tin khoa học để làm sáng tỏ một số vấn đề như công việc chuẩn bị khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, diễn biến của cuộc khởi nghĩa thắng lợi cũng như cuộc kháng chiến thất bại cùng hoạt động của chính quyền họ Mai”[2]. Đó là hạn chế về mặt tư liệu cần tiếp tục sưu tầm và làm sáng rõ dần. Tuy nhiên trên tạp chí Văn hóa Nghệ An năm 2012 đã đăng vài bài không chỉ hoài nghi mà còn bài bác, phủ nhận hoàn toàn kết luận của hội thảo năm đó[3]. Trong hội thảo này, tôi muốn phân tích thêm một số cứ liệu và lập luận để tiếp tục củng cố kết luận của hội thảo năm 2008, đồng thời đưa ra một nhận thức chung về quá trình chuẩn bị, phát triển, thắng lợi và thất bại của khởi nghĩa Mai Thúc Loan trên cơ sở những tư liệu đã được tiếp cận.

Hai vấn đề chủ yếu được mọi người quan tâm là năm khởi đầu và kết thúc của khởi nghĩa Mai Thúc Loan.

Theo Cựu Đường thư (Q.8) và Tân Đường thư (Q.5), phần Bản kỷ, tháng 7 hay tháng 8 năm Khai Nguyên 10 (722), triều đình nhà Đường được tin báo Mai Thúc Loan “làm phản” và sai tướng đem quân đánh dẹp[4]. Nếu hiểu đó là thời điểm thực hiện chủ trương đàn áp và cuộc đàn áp hoàn thành trong năm đó, tức chỉ diễn ra trong vòng 4 - 5 tháng hay nhiều nhất là 5-6 tháng. Từ khi nhận tin báo cho đến khi đánh bại nghĩa quân có bao nhiêu công việc phải thực hiện như bàn luận trong triều, điều động đại quân, chuẩn bị lương thực, huy động dân phu phục dịch, hành quân từ kinh đô Trường An đến Lĩnh Biểu, dừng lại chiêu mộ thêm 10 vạn binh mã, rồi tiến quân vào An Nam, cả một cuộc viễn chinh từ kinh đô Trường An của nhà Đường đến phủ thành An Nam với dặm đường dài như vậy, mà chỉ gói gọn trong 4-5 tháng hay 5-6 tháng thì làm sao có thể biện giải được? Báo cáo của ThS Phạm Lê Huy và một số báo cáo khác đã nghiên cứu và đưa ra các chứng cứ khá đầy đủ để chứng minh cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan không thể nổ ra và thất bại chỉ trong năm 722. Cuộc đàn áp của quân nhà Đường cũng không thể diễn ra nhanh gọn bằng một trận tấn công phủ thành An Nam như Đường thư chép vì Mai Hắc Đế lúc đó đã làm chủ cả nước và lực lượng nghĩa quân còn tồn tại ở nhiều vùng trọng yếu, trong đó có trung tâm thành Vạn An (Nam Đàn, Nghệ An). Tuy nhiên, có thể coi với cuộc đàn áp năm 722, khởi nghĩa Mai Thúc Loan về cơ bản bị thất bại. Như vậy năm 722 cuộc khởi nghĩa về cơ bản đã kết thúc dù rằng cuộc chiến đấu có thể còn tiếp diễn sau đó trên một số vùng.

 Vì vậy trong hai mốc mở đầu và kết thúc của cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan thì mốc mở đầu là vấn đề đang tồn tại một số hoài nghi cần được nghiên cứu và xác định rõ ràng. Trong bài này tôi tập trung bàn về năm khởi đầu của cuộc khởi nghĩa và từ đó nhận thức về quá trình thành bại của sự nghiệp chống Đường do Mai Thúc Loan cầm đầu.

2. Tư liệu về năm khởi đầu của khởi nghĩa Mai Thúc Loan

Trước hết tôi lược trích các sử liệu chép khởi nghĩa Mai Thúc Loan khởi đầu năm Khai Nguyên sơ hay năm Khai Nguyên nguyên niên:

(1) Cựu Đường thư do Lưu Hú biên soạn vào đời Hậu Tấn (936-947), phần liệt truyện-truyện Dương Tư Húc-chép[5]: 開元初安南首領梅玄成叛自稱黑帝與林邑真臘國通謀陷安南府詔思朂將兵討之思至嶺表鳩募首領子弟兵馬十餘萬取伏波故道以進出其不意玄成遽聞兵至惶惑計無所出竟為官軍所擒臨陣斬之盡誅其黨與積屍為京觀而還。(Khai Nguyên sơ, An Nam thủ lĩnh Mai Huyền Thành bạn, tự xứng Hắc Đế, dữ Lâm Ấp, Chân Lạp quốc thông mưu, hãm An Nam phủ. Chiếu Tư Húc tương binh thảo chi. Tư Húc chí Lĩnh Biểu cưu mộ thủ lĩnh tử đệ binh mã thập dư vạn, thủ Phục Ba cố đạo nhi tiến xuất kỳ bất ý. Huyền Thành cự văn binh chí, hoàng hoặc kế vô sở xuất, cánh vi quan quân sở cầm, lâm trận trãm chi, tận tru kỳ đảng dữ tích thi vi kình quán nhi hoàn)

Dịch: “Năm Khai Nguyên sơ, thủ lĩnh An Nam Mai Huyền Thành làm phản, tự xưng Hắc Đế, cùng nước Lâm Ấp, Chân Lạp thông mưu hãm An Nam phủ. Sai Tư Húc đem binh đánh dẹp. Tư Húc đến Lĩnh Biểu, chiêu mộ con em các thủ lĩnh được binh mã hơn 10 vạn, theo đường cũ của Phục Ba mà tiến đánh xuất kỳ bất ý. Huyền Thành nghe tin quân đến sợ hãi, không kịp đề ra mưu kế, nên bị quan quân bắt, chém tại trận, giết hết bọn chúng và chất thây làm kình quán rồi rút về”.

(2) Tân Đường thư do Âu Dương Tu và Tống Kỳ biên soạn vào đời Tống (960-1279), phần liệt truyện-Truyện Dương Tư Húc- chép[6]開元初安南蠻渠梅叔鸞叛號黒帝舉三十二州之衆外結林邑眞臘金隣等國據海南衆號四十萬思朂請行詔募首領子弟十萬與安南大都護光楚客繇馬援故道出不意賊駭眙不暇謀遂大敗封尸為京觀而還。(Khai Nguyên sơ, An Nam man cừ Mai Thúc Loan bạn, hiệu Hắc Đế, cử tam thập nhị châu chi chúng, ngoại kết Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân đẳng quốc, cứ Hải Nam, chúng hiệu tứ thập vạn. Tư Húc thỉnh hành chiêu mộ thủ lĩnh tử đệ thập vạn dữ An Nam đại đô hộ Quang Sở Khách, dao Mã Viện cố đạo xuất bất ý, tặc hãidị bất hạ mưu, toại đại bại, phong thi vi kinh quán nhi hoàn. 

Dịch: “Năm Khai Nguyên sơ, cừ súy người man ở An Nam là Mai Thúc Loan làm phản, hiệu là Hắc Đế, dấy dân chúng 32 châu, bên ngoài liên kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân, chiếm cứ Hải Nam (ngờ là Nam hải tức biển Nam? -PHL), quân chúng nói có 40 vạn. Tư Húc xin cho chiêu mộ con em các thủ lĩnh được 10 vạn, cùng An Nam đại đô hộ Quang Sở Khách theo đường cũ của Mã Viện, đánh bất ngờ, giặc sợ hãi, không kịp mưu tính, bị đại bại, chất thây làm kình quán rồi rút về”.   

(3) Sách phủ nguyên quy là một công trình biên soạn lớn vào đời Tống Chân Tông (997-1022)thực hiện trong 8 năm từ năm Cảnh Đức thứ 2 (1005) đến năm Đại Trung Tường Phù thứ 6 (1013). Bộ sách gồm 1.000 quyển được coi là một trong “Tống đại tứ đại bộ thư” tức là bốn bộ sách lớn đời Tống (ba bộ kia là Thái Bình ngự lãm, Thái Bình quảng ký và Văn uyên anh hoa). Đoạn chép về Dương Tư Húc như sau[7]:開元初安南首領梅玄成叛自稱黒帝與林邑眞臘國通謀陷安南府詔思朂將討之。(Khai Nguyên sơ, An Nam thủ lĩnh Mai Huyền Thành bạn, tự xứng Hắc Đế dữ Lâm Ấp Chân Lạp thông mưu hãm An Nam phủ, chiếu Tư Húc tương thảo chi).

Dịch: “Năm Khai Nguyên sơ, thủ lĩnh An Nam là Mai Huyền Thành làm phản, tự xưng là Hắc Đế, cùng nước Lâm Ấp, Chân Lạp thông mưu hãm An Nam phủ. Hạ chiếu sai Tư Húc đánh dẹp”.

(4) An Nam chí lược do Lê Tắc biên soạn trong thời gian sống lưu vong trên đất Nguyên, có thể viết trong khoảng 1285-1307, sau đó bổ sung cho đến năm 1339[8]. Tác phẩm có nhiều truyền bản và vào thời Thanh đã được đưa vào Tứ khố toàn thư, phần “Sử bộ, tải ký loại”. An Nam chí lược có hai đoạn chép về khởi nghĩa Mai Thúc Loan[9].

Đoạn 1: 元楚客江陵人開元初遷安南都護同楊思朂平蠻渠梅叔鸞之叛 (Nguyên Sở Khách Giang Lăng nhân Khai Nguyên sơ thiên An Nam đô hộ đồng Dương Tư Húc bình man cừ Mai Thúc Loan chi bạn).

Dich: “Nguyên Sở Khách người Giang Lăng, năm Khai Nguyên sơ đổi làm An Nam đô hộ, cùng Dương Tư Húc dẹp loạn của cừ súy người man Mai Thúc Loan”.

Đoạn 2: 玄宗開元初渠師梅叔鸞叛號為帝外結林邑真蠟等眾號三十萬據安南詔左監門衞將軍楊思勉都護元楚客討之由馬援故道大破賊眾封尸為京觀而還(Huyền Tông Khai Nguyên sơ, cừ súy Mai Thúc Loan bạn, hiệu vi Hắc đế, ngoại kết Lâm Ấp, Chân Lạp đẳng chúng, hiệu tam thập vạn, cứ An Nam, chiếu tả giám môn vệ tướng quân Dương Tư Húc, đô hộ Nguyên Sở khách thảo chi, do Mã Viện cố đạo đại phá tặc chúng, phong thi vi kình quán nhi hoàn)

Dịch: “Đời Huyền Tông, năm Khai Nguyên sơ, cừ súy Mai Thúc Loan làm phản, hiệu là Hắc đế, ngoài kết với quân Lâm Ấp, Chân Lạp, nói là ba mươi vạn, chiếm cứ An Nam. Hạ chiếu cho tả giám môn vệ tướng quân Dương Tư Húc, đô hộ Nguyên Sở Khác đánh dẹp, theo đường cũ của Mã Viện, phá tan quân giặc, đắp thây làm kình quán rồi rút về”.   

(5) Quảng Tây thông chí do Hoàng Tá soạn và Lâm Phú tham tu vào đời Gia Tĩnh (1522-1567) thời Minh (1368-1644), đến thời Thanh (1644-1912) Tuần phủ Quảng Tây là Toàn Cung giám tu, hoàn thành năm Ung Chính thứ 11 (1733)  gồm 128 quyển. Đoạn chép về Dương Tư Húc gần như trong Tân Đường thư[10]:開元初安南首領梅叔鸞叛號黒帝結林邑真臘金隣等國據海南詔思朂討之思至嶺表糾募首領子弟與安南大都護光楚客取伏波故道進出不意賊愕眙不暇謀遂大敗積尸為京觀。(Khai Nguyên sơ An Nam thủ lĩnh Mai Thúc Loan bạn hiệu Hắc Đế kết Lâm Ấp Chân Lạp Kim Lân đẳng quốc cứ Hải Nam chiếu Tư Húc thảo chi Tư Húc chí Lĩnh Biểu củ mộ thủ lĩnh tử đệ dữ An Nam đại đô hộ Quang Sở Khách thủ Phục Ba cố đạo tiến xuất bất ý tặc ngạc dị bất hạ mưu toại đại bại tích thi vi kình quán.

Dịch: “Năm Khai Nguyên sơ, thủ lĩnh An Nam Mai Thúc Loan làm phản, xưng Hắc Đế, liên kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân, chiếm cứ Hải Nam (ngờ là Nam hải tức biển Nam? -PHL). Hạ chiếu Tư Húc đánh dẹp. Tư Húc đến Lĩnh Biểu chiêu mộ con em các thủ lĩnh, cùng An Nam đại đô hộ Quang Sở Khách theo đường cũ của Phục Ba tiến đánh bất ngờ, giặc kinh ngạc, không kịp mưu tính, liền bị đại bại, chất thây làm kình quán”.

(6) Khâm định tục thông chí gồm 527 quyển được biên soạn trong khoảng năm Càn Long 32 (1767) đến Càn Long 54 (1789). Đoạn chép về Mai Hắc đế trong truyện Dương Tư Húc như sau[11]: 開元初安南蠻渠楊叔鸞叛舊書作安南首領楊元戍號黑帝舉三十二州之衆外結林邑真臘金鄰等國據海南衆號四十萬詔思朂討之思朂至嶺表募首領子弟十萬與安南大都護光楚客繇馬援故道出其不意賊遂大敗斬叔鸞封尸為京觀而還。(Khai Nguyên sơ, An Nam man cừ Dương Thúc Loan bạn -Cựu thư tác An Nam thủ lĩnh Dương Nguyên Tuất (chép nhầm: Thành-PHL) -hiệu Hắc đế, cử tam thập nhị châu chi chúng, ngoại kết Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân đẳng quốc, cứ Hải Nam, chúng hiệu tứ thập vạn. Chiếu Tư Húc thảo chi. Tư Húc chí Lãnh Biểu mộ thủ lĩnh tử đệ thập vạn dữ An Nam đại đô hộ Quang Sở Khách dao Mã Viện cố đạo xuất kỳ bất ý, tặc toại đại bại, trạm Thúc Loan, phong thi vi kình quán nhi hoàn). 

Dịch: “Năm Khai Nguyên sơ, thủ lĩnh người man ở An Nam là Dương Thúc Loan làm phản -Cựu thư (tức Cựu Đường thư -PHL) chép thủ lĩnh An Nam Dương Nguyên Tuất (chép nhầm: Thành -PHL)- xưng hiệu Hắc đế, dấy dân chúng 32 châu, bên ngoài liên kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân, chiếm giữ Hải Nam (ngờ là Nam hải tức biển Nam? - PHL), có quân chúng nói là bốn mươi vạn. Hạ chiếu cho Tư Húc đi đánh. Tư Húc đến Lĩnh Biểu mộ con em các thủ lĩnh được mười vạn cùng với An Nam đại đô hộ Quang Sở Khách theo đường cũ của Mã Viện đánh xuất kỳ bất ý, giặc bị đại bại, chém Thúc Loan, chất thây làm kình quán rồi rút về”.

(7) Hương Lãm Mai đế ký trong Tân đính hiệu bình Việt điện u linh do Chư Cát thị bổ sung với Bài tựa viết năm Cảnh Hưng thứ 35 tức năm 1774. Tác giả chép rõ cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ như sau[12]:遂引兵進據州城分兵拒守群臣稱賀請即真位帝乃即位于香覽之陽自以水德號為黑帝焉是歲也 時唐玄宗之也(Đế toại dẫn binh tiến cứ Châu thành, phân binh cự thủ. Quần thần xứng hạ thỉnh tức chân vị. Đế nãi tức vị ư Hương Lãm chi dương tự dĩ thủy đức, hiệu vi Hắc Đế yên. Thị tuế Quý Sửu chi hạ tứ nguyệt giả, thời Đường Huyền Tông chi Khai Nguyên nguyên niên giả).

Dịch: “Vua bèn đem quân chiếm Châu thành, chia quân đóng giữ. Quần thần đến mừng, đều xin lên ngôi báu. Vua bèn lên ngôi ở phía nam Hương Lãm, tự cho mình thuộc về đức thủy, xưng là Hắc Đế[13]. Đó là năm Quý Sửu mùa hạ, tháng tư, vào thời Đường Huyền Tông niên hiệu Khai Nguyên thứ nhất[14].

Trong 7 sử liệu trích dẫn trên, có 5 tài liệu trong thư tịch cổ Trung Quốc do các tác giả Trung Quốc biên soạn (1,2,3,5,6) và 2 tư liệu do tác giả người Việt biên soạn (4,7). Sáu tài liệu đầu đều chép khởi nghĩa Mai Thúc Loan khởi đầu vào năm Khai Nguyên sơ, riêng tài liệu thứ 7 chép rõ năm Khai Nguyên nguyên niên kèm theo năm can chi là năm Quý Sửu. Khi nghiên cứu đoạn 1 tài liệu 4 tức An nam chí lược của Lê Tắc, có người ngờ rằng năm Khai Nguyên sơ là năm Nguyên Sở Khách “đổi làm An Nam đô hộ”, còn năm Mai Thúc Loan khởi nghĩa phải sau đó[15]. Nhưng đoạn 2 đã chép rõ “năm Khai Nguyên sơ, cừ súy Mai Thúc Loan làm phản, hiệu là Hắc Đế”. Trong tình trạng sử liệu rất hiếm hoi, lại chép ghép nhiều sự kiện vào một câu, dưới một niên đại chung, thì cần so sánh, đối chiếu nhiều sử liệu mới có thể bóc tách từng sự kiện và có cách giải thích thỏa đáng.                 

Xin lưu ý trong thư tịch Trung Quốc, từ Đường thư, đã có ghi chép khác nhau về tên Mai Thúc Loan, có chỗ chép Mai Nguyên Thành hay Mai Huyền Thành (có khi nhầm là Tuất) hay Dương Thúc Loan; Quang Sở Khách cũng có chỗ chép Nguyên Sở Khách. Tân Đường thư Q.207 đã có phần khảo chứng về các nhân danh này.         

3. Khai Nguyên sơ là năm nào?

Vấn đề quan trọng bậc nhất là hiểu và giải thích như thế nào về năm Khai Nguyên sơ. Trong bài viết trước đây, tôi cho rằng năm Khai Nguyên sơ là năm đầu niên hiệu Khai Nguyên tức năm 713 và nếu hiểu là những năm đầu Khai Nguyên thì đã có thêm tư liệu Hương Lãm Mai Đế ký chép rõ năm Khai Nguyên nguyên niên kèm theo năm can chi là năm Quý Sửu để xác nhận.

Theo Từ hải, chữ “sơ” có 4 nghĩa và có người sử dụng nghĩa thứ 4 “chỉ vài ngày hoặc mười ngày đầu mỗi tháng” để cho rằng Khai Nguyên sơ là những năm đầu niên hiệu Khai Nguyên có thể kéo dài từ năm 713 đến năm 722, và năm 722 vẫn là Khai Nguyên sơ. Theo tôi, nghĩa này dùng để tính ngày trong một tháng, không phù hợp và không thể sử dụng để giải thích niên hiệu các đời vua tính bằng năm.

Để tính niên hiệu trước hết cần sử dụng nghĩa thứ nhất của Từ hải là: 初: 起興.剛開始.第一次(Sơ: khởi hưng, cương khai thủy, đệ nhất thứ) tức là: Sơ: bắt đầu nổi lên, mới bắt đầu, lần thứ nhất. Vậy Khai Nguyên sơ (開元初)là năm đầu niên hiệu Khai Nguyên. Để làm sáng rõ nghĩa chữ “sơ” trong cách tính niên hiệu, tôi có thể đưa ra nhiều dẫn chứng trong các văn bia đã được nhiều nhà khoa học dịch và nghiên cứu. Tôi lấy hai sách đã được xuất bản gồm cả nguyên bản chữ Hán với ký hiệu bảo quản văn bia và bản dịch:

Thứ nhất là sách Văn bia thời Mạc do PGS.TS. Đinh Khắc Thuân sưu tầm, khảo cứu và dịch chú[16].

VĂN BIA THỜI MẠC

 

TT

Tên bia và ký hiệu

Địa điểm

Niên đại

Tr.

1

Bảo thiết hoa đăng kính bi (2225-6)

Từ Liêm-Hà Nội

Quảng Hòa sơ niên thập nhị nguyệt quý đông cốc nhật (1541)

111

2

Đại bi tự bi ký (13331)

Hải Dương

Quảng Hòa vạn vạn niên chi sơ mạnh xuân cốc nhật (1541)

 

113

3

Bảo Chẩm tự bi (7569-70)

Bất Bạt-Hà Nội

Cảnh Lịch sơ niên (1548)

130

4

Hiển khảo Thái bảo Giáp phủ quân mộ chí

Lạng Giang-Bắc Giang

Vĩnh Định sơ (1547)

131

5

Đệ nhị xã bi (7898)

Mỹ Lộc-Nam Định

Quang Bảo sơ niên (1555)

138

6

Đống Quất tự bi ký (13180)

Tứ Kỳ-Hải Dương

Thuần Phúc vạn vạn niên chi sơ  bát nguyệt cốc nhật (1565)

181

7

Kim Lô Trung thôn Kỳ Lân tự bi (16926)

Gia Viễn-Ninh Bình

Thuần Phúc sơ niên (1565)

183

8

Kỳ Lân tự bi

Gia Viễn-Ninh Bình

Thuần Phúc vạn vạn niên chi sơ Ất Sửu tuế trọng thu (1565)

184

9

Trùng tu Thụy Ứng quán ký (18455-6)

Tiên Lữ-Hưng Yên

Thuần Phúc vạn vạn niên chi sơ tuế tại Chiên mông Xích phấn nhược, trọng thu tiết cốc nhật (1656)

186

10

Tu tạo Bà Đanh tự chi bi (10060-1)

Kiến Thụy-Thái Bình

Thuần Phúc sơ niên bát nguyệt nhị thập lục nhật (1656)

190

11

Tiêu Sơn từ bi (19445)

Gia Viễn-Ninh Bình

Mậu Thìn Thuần Khang sơ niên (1568)

228

12

Dương Tân tự bi (8447)

Thụy Nguyên-Hải Phòng

Diên Thành sơ niên tuế tại Mậu Dần bát nguyệt sơ thập nhật (1578)

269

13

Hoa Nghiêm tự bi (1935)

Quốc Oai-Hà Nội

Diên Thành sơ niên  lục nguyệt sơ ngũ nhật (1578)

271

14

Phúc Lâm Hoằng Thệ tự bi (7273-4)

Tiên Phong-Hà Nội

Diên Thành sơ ngũ nguyệt sơ nhất nhật (1578)

274

15

Tam giáo tượng minh bi (4662)

Thụy Anh-Thái Bình

Diên Thành sơ niên nhị nguyệt cốc nhật (1578)

288

16

Sùng Quang tự bi (4886-7)

Vĩnh Bảo-Hải Phòng

Diên Thành sơ niên nhị nguyệt thập bát nhật (1578)

364

17

Đông Phao tự tân tạo thiêu hương tiền đường bi (4580)

Gia Bình-Bắc Ninh

Đoan Thái sơ niên cửu nguyệt sơ bát nhật  (1585)

373

18

Hồng Phúc tự hồng chung bi (5287-8)

Võ Giàng-Bắc Ninh

Đoan Thái vạn vạn niên chi sơ thập nguyệt nhị thập ngũ nhật  (1585)

377

19

Phủ huyện sãi vãi đồng tạo lập thạch bi

Quỳnh Phụ-Thái Bình

Đoan Thái sơ niên bát nguyệt (1586)

382

20

Đại Đồng tự bi (5901-2)

Yên Lạc-Vĩnh Phúc

Hưng Trị sơ niên (1588)

435

21

Sãi vãi doanh tạo Khánh Đức tự bi

Thái Thụy-Thái Bình

Hưng Trị vạn vạn niên chi sơ thập nhất nguyệt (1588)

438

22

Chân Thánh quán bi

Văn Lâm-Hưng yên

Hồng Ninh sơ niên (1591)

505

23

Tam Giáo tự (2696-7)

Đan Phượng-Hà Nội

Tân Mão Hồng Ninh sơ niên (1591)

510

 

Thứ hai là sách Tuyển tập văn khắc Hán Nôm của Hà Nội do PGS TS Phạm Thị Thùy Vinh chủ trì[17].

TUYỂN TẬP VĂN KHẮC HÁN NÔM CỦA HÀ NỘI

 

TT

Tên bia và ký hiệu

Địa điểm

Niên đại

Tr.

1

Hưng tạo từ miếu ngật bi (49553/  49556/  459/460)

 

Tây Hồ-Hà Nội

Hoàng triều Cảnh Trị vạn vạn niên chi nguyên trọng xuân tiết cốc nhật (1663)

333

2

Vĩnh Phúc thiền tự thạch bi lưu ký (6591/6592)

Sóc Sơn-Hà Nội

Hoàng triều Vinh Thịnh vạn vạn niên chi nguyên tuế tại Ất Dậu trọng đông cốc nhật  (1705)

589

3

Bùi Đông thôn Thọ Ông từ (50820/50821)

Hoàng Mai-Hà Nội

Chiêu Thống vạn vạn niên chi nguyên Đinh Mùi tuế bát nguyệt cơ vọng (1787)

862

4

Hỏa thần miếu bi (49205)

Hoàn Kiếm-Hà Nội

Hoàng triều Thiệu Trị vạn vạn niên chi nguyên tuế Tân Sửu thu thất nguyệt cốc nhật (1841)

1006

 

Tổng hợp và hệ thống 27 văn bia trên, có thể xếp thành ba mẫu ghi niên đại theo niên hiệu các đời vua có dùng chữ “sơ” như sau:

Mẫu 1: [niên hiệu] – [vạn vạn niên chi sơ] hay [vạn vạn niên chi nguyên] -  [năm, tháng, ngày]

Mẫu 2: [niên hiệu] – [sơ niên] – [năm, tháng, ngày]

Mẫu 3: [niên hiệu] – [sơ]

Trong mẫu 1 thì chữ “sơ” cũng như chữ “nguyên” đều có nghĩa là năm đầu và kèm theo năm (có trường hợp ghi thêm năm can chi), tháng, ngày nghĩa là một năm cụ thể, không thể hiểu là những năm đầu. Người dịch đều thống nhất dịch là năm đầu hay năm thứ nhất. Lại có trường hợp ghi: [niên hiệu] – [vạn vạn niên chi ngũ] (sách 1, tr.152) hay [vạn vạn niên chi cửu] (sách 1, tr.174) hay [vạn vạn niên chi thất] (sách 1, tr. 236)…]. Điều đó càng khẳng định chữ “sơ” là chỉ năm thứ nhất của niên hiệu.

Trong mẫu 2 thì chữ “sơ niên” đều được dịch là năm đầu, cũng kèm theo năm, tháng, ngày, nghĩa là không thể hiểu là những năm đầu.

Trong mẫu 3 gần với niên đại “Khai Nguyên sơ” đang cần xác định rõ. Có hai trường hợp cụ thể:

Trường hợp “Vĩnh Định sơ”, người dịch ghi rõ năm 1547 tức năm đầu niên hiệu Vĩnh Định của vua Mạc Phúc Nguyên. Năm 1546 vua Mạc Phúc Hải mất ngày 8 tháng 5, con trưởng là Mạc Phúc Nguyên kế vị và năm sau mới cải nguyên nên Vĩnh Định năm thứ nhất là năm 1547. Năm sau, năm 1548 vua Mạc Phú Nguyên lại cải nguyên, đổi niên hiệu Vĩnh Định thành Cảnh Lịch. Niên hiệu Vĩnh Định chỉ có một năm và Vĩnh Định sơ chỉ có thể là năm Vĩnh Định thứ nhất tức năm 1547, không thể là những năm đầu niên hiệu Vĩnh Định.

Trường hợp “Diên Thành sơ ngũ nguyệt, sơ nhất nhật”, niên hiệu sơ kèm theo tháng và ngày cụ thể thì rõ ràng là năm Diên Thành thứ nhất, chứ không thể là những năm đầu niên hiệu Diên Thành.

Có thể nêu thêm một trường hợp nữa để xác minh [niên hiệu] + [sơ] là năm đầu của niên hiệu đó. Bia Ngưỡng sơn Linh Xứng tự bi minh, ký hiệu Viện Hán Nôm là 20954-55, vốn ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, đã  đưa về Bảo tàng lịch sử (nay Bảo tàng lịch sử quốc gia). Văn bia do Hải Chiếu đại sư soạn, khắc năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7 (1126) đời vua Lý Nhân Tông. Văn bia có câu: “Thái Ninh sơ, kim thượng Minh Hiếu hoàng đế, ác đồ tức vị, công toại dĩ Y, Hoắc chi lượng, sử nhiếp đại chính, khả chúc xã tắc” nghĩa là “Đầu niên hiệu Thái Ninh, đức kim thượng Minh Hiếu hoàng đế lên ngôi, ông (Thái úy) lấy tư cách là Y Doãn, Hoắc Quang được nhà vua giao phó nhiếp chính và gửi gắm công việc xã tắc”[18]. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, mùa xuân tháng giêng năm Nhâm Tý (1072) vua Lý Thánh Tông mất, thái tử Càn Đức lên nối ngôi, đổi niên hiệu là Thái Ninh năm thứ nhất. Thái hậu Thượng Dương “buông rèm cùng nghe chính sự, Thái sư Lý Đạo Thành giúp đỡ công việc”[19]. Theo Đại Việt sử lược, ngày 8 tháng 4 năm Nhâm Tý (1072), “vua ngự điện Thiên An coi chầu. Ngày đó lấy Nguyễn (Lý) Thường Kiệt làm Kiểm hiệu Thái úy, Nguyễn (Lý) Nhật (Đạo) Thành làm Binh bộ thị lang”[20]. Như vậy là hai sự kiện: vua Lý Nhân Tông lên ngôi và Lý Thường Kiệt thay thế Lý Đạo Thành (sách viết thời Trần nên họ Lý đổi thành họ Nguyễn theo lệnh Trần Thủ Độ và Nhật thành đổi ra Đạo Thành vì kiêng húy Trần Hưng Đạo) làm Thái úy cùng xẩy ra trong năm Thái Ninh thứ nhất-1072[21]. Thái Ninh sơ với hai sự kiện xẩy ra trong cùng một năm thuộc niên hiệu Thái Ninh thứ nhất thì rõ ràng Thái Ninh sơ là Thái Ninh năm đầu.

Từ những ví dụ về cách viết niên đại theo niên hiệu đã trình bày trên, có thể rút ra kết luận “Khai Nguyên sơ” là năm đầu niên hiệu Khai Nguyên tức năm 713. Chữ “sơ” trong những trường hợp trên phù hợp với nghĩa “lần thứ nhất” theo Từ hải.

Trong tính niên đại theo niên hiệu, chữ sơ còn có nghĩa thứ hai theo Từ hải: “初:當初本来“[22](sơ: đương sơ, bản lai) nghĩa là: Sơ: buổi đầu, chỗ khởi đầu. Khai Nguyên sơ còn có nghĩa là đầu niên hiệu Khai Nguyên (713-742) bao gồm không chỉ năm thứ nhất mà cả vài ba năm tiếp theo. Nhưng về ngữ nghĩa, không có cơ sở nào để hiểu Khai Nguyên sơ có thể kéo dài cho đến năm Khai Nguyên thứ 10 nghĩa là bao gồm cả 10 năm từ 713 đến 722. Đối với các vương triều tồn tại lâu dài hàng trăm năm với nhiều đời vua, một số nhà sử học cũng theo nghĩa thứ hai  dùng cụm từ [vương triều] + [sơ] để chỉ thời đầu, giai đoạn đầu của vương triều với những đời vua đầu như Trần sơ, Lý sơ, Nguyễn sơ. Riêng cụm từ “Lê sơ” mà người dùng đầu tiên có lẽ là GS Đào Duy Anh trong Lịch sử Việt Nam[23] lại mang nội dung không phải để chỉ  thời đầu của vương triều Lê (1428-1527) tức khoảng những đời vua đầu như Lê Thái Tổ (1428-1433), Lê Thái Tông (1433-1442), Lê Nhân Tông (1442-1459), mà để chỉ cả vương triều này và để phân biệt với vương triều Lê Trung hưng tái lập sau một thời gian tồn tại của vương triều Mạc. Trong trường hợp này nhà Lê sơ hay triều Lê sơ hay thời Lê sơ là chỉ triều Lê đầu phân biệt với triều Lê Trung hưng sau đó. Cũng theo nghĩa là buổi đầu, người ta thường dùng từ “sơ” trong phân kỳ các giai đoạn của một thời kỳ lớn như sơ kỳ, trung kỳ, hậu kỳ…

Khai Nguyên sơ theo cách hiểu là đầu niên hiệu Khai Nguyênbao gồm vài ba năm đầu, nghĩa là có thể năm 713 hay cả năm 714, 715,... thì không có gì mâu thuẫn với ý kiến cho rằng khởi nghĩa Mai Thúc Loan khởi đầu năm Khai Nguyên sơ tức năm 713.

Thứ nhất, theo nghĩa Khai Nguyên sơ là những năm đầu niên hiệu Khai Nguyên thì cũng bao hàm cả năm thứ nhất tức năm 713 như đã chứng minh ở trên là Khai Nguyên sơ có nghĩa là năm Khai Nguyên thứ nhất. Nghĩa này phù hợp với Hương Lãm Mai đế ký chép rõ Mai Thúc Loan chiếm được Châu thành, xưng Mai Hắc đế, "đó là năm Quý Sửu, mùa hạ tháng tư, thời Đường Huyền Tông năm Khai Nguyên thứ nhất”.

Thứ hai, sau khi bùng nổ, chiếm giữ Hoan Châu cho đến lúc vận động được 32 châu trong nước hưởng ứng, liên kết với các nước láng giềng phương nam Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân để tiến lên vây hãm và chiếm giữ An Nam, cuộc khởi nghĩa phải có một thời gian phát triển lực lượng và chuẩn bị các mặt. Thời gian đó không thể chỉ giới hạn trong năm 713 mà phải kéo dài một vài năm hay vài ba năm, nghĩa là vẫn nằm trong những năm đầu niên hiệu Khai Nguyên. Hương Lãm Mai đế ký phần nào phản ảnh quá trình khởi nghĩa này, từ tập hợp lực lượng, gây dựng nghĩa quân đến chiếm Châu thành, xưng đế vào tháng 4 năm Quý Sửu-713, rồi năm sau, năm Giáp Dần-714, vua Lâm Ấp, Chân Lạp cho quân sang phối hợp, sau đó quan quân nhà Đường mới bỏ trốn về nước[24]. Theo tư liệu này, cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan từ khi bùng nổ ở Hoan Châu cho đến lúc chiếm được phủ thành An Nam ít nhất cũng kéo dài trong khoảng vài năm 713-714.  

Cũng có người muốn phủ nhận giá trị sử liệu của Hương Lãm Mai đế ký trong Tân hiệu bình Việt điện u linh tập, nhưng không đưa ra được chứng cứ khoa học nào. Việt điện u linh do Lý Tế Xuyên biên soạn năm 1329 và sau đó được một số tác gia “tục biên”, “trùng bổ”, “hiệu đính”, “hiệu bình”… Truyện Hương Lãm Mai đế ký nằm trong Tân hiệu đính bình Việt điển u linh tập do Chư Cát thị biên tập, bổ sung với Lời bạt viết năm Cảnh Hưng 35 (1774). Trong Lời bạt, ông nói rõ là đã “ để tâm rộng tìm các bậc ẩn dật, rộng nhặt khắp bách gia, đem đối chiếu so sánh, tìm ra phần chủ chốt…”[25].

Tác giả có dựa vào truyền thuyết dân gian, tham khảo một số sách nào đó và có “đem đối chiếu so sánh” mà hiện nay chúng ta không thể biết xuất xứ. Nhưng trong truyện Mai Hắc Đế có một số thông tin cần quan tâm xác minh như: công việc chuẩn bị khởi nghĩa, việc cử người vào liên kết với Lâm Ấp, Chân Lạp, năm khởi nghĩa xưng đế là “năm Quý Sửu, mùa hạ tháng 4", "niên hiệu Khai Nguyên thứ nhất” …Sách chép tay qua nhiều lần nên không tránh khỏi sai nhầm như viết năm nhà Đường đàn áp là năm Nhâm Thìn, năm vua Mai chết là năm Nhâm Dần (có thể nhầm với năm Nhâm Tuất ?). Tất nhiên chỉ bằng vào Hương Lãm Mai đế ký thì những thông tin mới đó chưa đủ cơ sở để khẳng định giá trị khoa học nhưng nếu đem đối chiếu với những thư tịch và tư liệu đáng tin cậy khác mà có sự phù hợp thì không thể phủ nhận một cách chủ quan. Truyền thuyết cũng như thần tích, ngọc phả…không phải là lịch sử nhưng có mối quan hệ mật thiết với lịch sử và cần được khai thác trên cơ sở phương pháp luận sử học. Ít nhất có đủ cơ sở để kết luận Hương Lãm Mai đế ký chép Mai Thúc Loan khởi nghĩa năm Khai Nguyên nguyên niên tức năm 713 là có cơ sở khoa học như đã chứng minh ở trên. Về điều này, xem qua sự ghi chép của Chư Cát thị có vẻ sai trái nhưng nghiên cứu, đối chiếu với nhiều tư liệu liên quan thì lại rất xác đáng.

Vua Đường Huyền Tông cải nguyên đổi niên hiệu Tiên Thiên (712-713) sang Khai Nguyên (713-741) vào ngày 1 tháng 12 năm Quý Sửu. Vua Đường Huyền Tông có ba niên hiệu, ngoài hai niên hiệu trên còn có niên hiệu Thiên Bảo (742-756). Riêng năm Quý Sửu có 11 tháng thuộc niên hiệu Tiên Thiên thứ 2 và 1 tháng thuộc niên hiệu Khai Nguyên thứ 1. Đối chiếu với dương lịch, tháng 12 năm Quý Sửu có 10 ngày nằm trong năm 713, từ ngày 22 đến ngày 31 tháng 12 năm 713. Chính vì vậy mà trong các niên biểu của Trung Quốc, niên hiệu Khai Nguyên được tính từ năm 713 đến năm 741. Chư Cát thị chép Mai Thúc Loan khởi nghĩa vào mùa hạ, tháng tư năm Khai Nguyên niên, có vẻ sai trái vì niên hiệu Khai Nguyên mới bắt đầu từ ngày 1 tháng 12 năm Quý Sửu và trước đó còn thuộc niên hiệu Tiên Thiên thứ 2.  Tôi chưa rõ vì lý do gì nhưng qua thư tịch cổ của Trung Quốc thì năm Khai Nguyên nguyên niên có nhiều trường hợp được ghi chép bao gồm cả những tháng trước tháng 12 tức trước lúc cải nguyên. Tôi liệt kê được hàng chục trường hợp, sau đây là một số ví dụ:

Khai Nguyên nguyên niên, thập nhất nguyệt (Cựu Đường thư, Q.48)

Khai Nguyên nguyên niên, chính nguyệt (Tân Đường thư, Q.5)

Khai Nguyên niên, thất nguyệt nhất nhật (Cựu Ngũ đại sử. Q.141)

Khai Nguyên nguyên niên, xuân chính nguyệt (Tư trị thông giám, Q. 210)

Khai Nguyên nguyên niên, xuân chính nguyệt (Đại sử ký tục biên, Q. 57)

Quý Sửu Khai nguyên niên, xuân nhị nguyệt (Ngự phê lịch đại thông giám tập lãm, Q. 54)

Khai Nguyên nguyên niên, thu bát nguyệt (Thông giám kỷ sự bản mạt, Q. 29 hạ)

Khai Nguyên nguyên niên, thu bát nguyệt (Khâm định tục thông chí, Q. 6)

Khai Nguyên nguyên niên, ngũ nguyệt (Nguyên Hòa quận huyện chí, Q. 14)

Khai Nguyên nguyên niên, lục nguyệt (Lịch đại danh thần tấu nghị, Q. 164)…

Những ví dụ trên cho thấy Hương Lãm Mai đế ký chép “năm Quý Sửu mùa hạ tháng tư’ vào “niên hiệu Khai Nguyên nguyên niên” không có gì trái với việc ghi chép trong thư tịch cổ Trung Quốc, trong đó có cả Cựu Đường thư,  Tân Đường thư. Theo tôi chính điều có vẻ bất bình thường này càng cho thấy tác giả Hương Lãm Mai đế ký không phải ghi chép tùy tiện mà có dựa vào một số tư liệu đáng tin cậy nào đó.

4. Nhận thức về quá trình khởi nghĩa, giành thắng lợi và thất bại

Sau khi xác định cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm Khai Nguyên sơ hay Khai Nguyên nguyên niên tức năm 713, nhận thức về quá trình chuẩn bị rồi bùng nổ và phát triển, thắng lợi của khởi nghĩa Mai Thúc Loan cũng cần được nhìn nhận lại. Trong hội thảo trước, vấn đề này đã được nêu lên và đưa vào Tổng kết: “Xung quanh cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan như quá trình chuẩn bị, công việc vận động nhân dân và thủ lĩnh các vùng, việc liên kết với Chiêm Thành, Chân Lạp, Kim Lân thực hiện như thế nào và bằng phương thức nào…còn phải tiếp tục thu thập thêm tư liệu”[26].

Trên cơ sở tư liệu đã thu thập cho đến nay, tôi muốn nêu lên mấy nội dung sau:

Năm Khai Nguyên sơ hay Khai Nguyên nguyên niên hay cụ thể hơn như Hương Lãm Mai đế ký “năm Quý Sửu, mùa hạ, tháng 4” là thời điểm khởi sự quan trọng như “đem quân chiếm giữ Châu thành,… xưng là Hắc đế”. Có thể coi đó như thời điểm khởi đầu cuộc khởi nghĩa Hoan Châu.

Nhưng trước đó, phải có sự chẩn bị như vận động dân chúng nổi dậy, tập hợp lực lượng cần thiết để có thể khởi nghĩa thắng lợi trên địa bàn quê hương.

Sau đó còn phải tiếp tục phát triển lực lượng trên qui mô rộng lớn, tổ chức liến kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân.

Từ đó mới có thể “vây đánh châu huyện” (Cựu Đường thư, Q.8), “dấy dân chúng 32 châu”, “có quân chúng nói là 40 vạn”, “chiếm giữ Hải Nam (hay Nam hải tức biển Nam?)” (Tân Đường thư, Q.207), rồi “mưu hãm An Nam phủ” (Cựu Đường thư, Q.184), Sách phủ nguyên qui (Q.667), “chiếm giữ An Nam” (An Nam chí lược, Q.4).

Tất cả công việc chuẩn bị lực lượng để khởi nghĩa trên một địa bàn thuận lợi và phát triển lực lượng, mở rộng cuộc khởi nghĩa rồi tiến lên vây hãm phủ thành An Nam, giành thắng lợi trên qui mô cả nước, không thể chỉ thu gọn trong mấy tháng năm 713 và chắc hẳn phải có một thời gian dài hơn. Tư liệu chưa cho phép xác định thời gian cụ thể, song có thể phỏng đoán ít ra cũng phải một vài năm.

Nói chung trong thời thịnh Đường, đầu niên hiệu Khai Nguyên là một thời cơ thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi. Võ Tắc Thiên sau khi thoái vị và chết, triều Chu (690-705) kết thúc, nhưng triều đình nhà Đường lại lâm vào cảnh rối loạn vì những xung đột quyền lực. Đường Trung Tông Lý Hiển nối ngôi (705-710), bị Hoành hậu họ Vi thao túng triều chính và giết hại, lập Lý Trọng Mậu lên ngôi tức Thiếu đế (710). Hoàng tử Lý Long Cơ khôi phục ngôi vua cho cha là Lý Đán tức Đường Duệ Tông (710-712) và liên kết với công chúa Thái Bình để trừ khử thế lực họ Vi. Năm 712 Lý Long Cơ lên ngôi vua, phải đối phó với cuộc nội loạn của công chúa Thái Bình. Cuối năm 713, những cuộc chiến tranh giành giật quyền lực mới chấm dứt, nhưng hậu quả để lại nặng nề và những năm đầu, Đường Huyền Tông (712-756) phải lo củng cố bộ máy quyền lực, ổn định tình hình đất nước. Chính đó là bối cảnh bùng nổ của khởi nghĩa Mai Thúc Loan và điều kiện khách quan để giành thắng lợi và giữ chính quyền trong một thời gian. Sau khi đế chế Đường được củng cố, trở lại thịnh đạt, Đường Huyền Tông mới phát đại quân tổ chức cuộc chinh phạt chiếm lại An Nam năm 722.

Theo tôi, tư liệu phát hiện và thu thập cho đến nay, mới cho phép xác nhận cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm 713 và về cơ bản bị thất bại cuối năm 722. Đó là hai mốc mở đầu và kết thúc của khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Còn công việc chuẩn bị trước lúc khởi nghĩa và quá trình phát triển, giành thắng lợi cũng như cuộc chiến đấu chống cuộc đàn áp của quân đội nhà Đường diễn ra như thế nào, còn là những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu. Trong thời gian tồn tại chính quyên Mai Hắc Đế có những hoạt động gì cũng là khoảng trống cần bổ sung dần. Một số kết quả điều tra khảo sát di tích đền Dục Anh ở Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội; đình miếu ở Điều Yêu Thượng, xã Quốc Tuấn, huyện An Dương, Hải Phòng…hé mở khả năng phát hiện và thu thập thêm tư liệu về Mai Hắc đế.

Nói chung cần nhìn nhận cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan như một quá trình: quá trình chuẩn bị và khởi sự, quá trình phát triển tiến lên giải phóng cả nước, quá trình tồn tại và thất bại. Dù còn một số vấn đề cần tiếp tục thu thập thêm tư liệu và nghiên cứu, nhưng mốc thời gian khởi đầu và thất bại cùng nội dung cơ bản của cuộc khởi nghĩa đã cho phép nhận định, đây là một trong những cuộc khởi nghĩa lớn nhất thời Bắc thuộc, đã giải phóng cả nước, giành và giữ chính quyền độc lập trong khoảng gần 10 năm. Thủ lĩnh khởi nghĩa cũng tự xưng đế, hiệu Mai Hắc đế, tiếp nối ý thức độc lập của Lý Nam đế, khẳng định chủ quyền quốc gia bình đẳng với Bắc triều. Đặc biệt Mai Hắc đế liên kết thành công với các nước làng giềng phương Nam như Lâm Ấp, Chân Lạp và cả nước Kim Lân, để cùng liên minh chống họa bành trướng của đế chế Đại Đường, một đế chế cường thịnh của phương Bắc và trên thế giới thời đó. Khởi nghĩa Hoan Châu và vai trò của Mai Hắc đế cần được tôn vinh xứng đáng với vị trí, ý nghĩa lịch sử trọng đại của nó trong thời chống Bắc thuộc và trong lịch sử dân tộc nói chung.

 

 


[1]Trường Đại học Vinh-Viện Sử học: Kỷ yếu hội thảo khoa học toàn quốc-Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2009.

[2]Phan Huy Lê: Cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan, những vấn đề cần xác minh, Kỷ yếu, Sđd, tr. 46.

[3]Chu Trọng Huyến: Có phải khởi nghĩa Mai Thúc Loan diễn ra trong mười năm (713-722), trong Văn hóa Nghệ An 2-2012

Lê Mạnh Chiến: Phải chăng khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm 713? Văn hóa Nghệ An số 230, 10-10-2012.

[4]Cựu Đường thư, Q. 8, Bản kỷ, Huyền Tông, năm Khai Nguyên 10, ghi:秋八月丙戌嶺南按察使裴伷先上言安南賊帥梅叔鸞等攻圍州縣遣驃騎將軍兼內侍楊思勗討之(Ngày Bính Tuất, tháng 8 mùa thu, Lĩnh Nam án sát sứ Bùi Trụ Tiên tâu: tướng giặc An Nam là bọn Mai Thúc Loan vây đánh các châu huyện. Sai phiêu kỵ tướng quân kiêm nội thị Dương Tư Húc đánh dẹp)

   Tân Đường thư, Q.5, Bản kỷ, Huyền Tông, năm Khai Nguyên 10, tháng 7, ghi: 丙戌安南人梅叔鸞反伏誅(Ngày Bính Tuất, người An Nam là Mai Thúc Loan làm phản, bị giết chết)

 

[5]Lưu Hú: Cựu Đường thư, bản Tứ khố toàn thư, Q.184, Liệt truyện, Hoạn quan-Dương Tư Húc.

[6]Âu Dương Tu, Tống Kỳ: Tân Đường thư, bản Tứ khố toàn thư, Q. 207, Liệt truyện-Hoạn giả: Dương Tư Húc.

[7]Sách phủ nguyên quy, Trung Hoa thư cục xuất bản xã, Bắc Kinh 1989, Đệ tam sách,  Q.667, tr. 2243.

[8]Theo giám định của Trần Kinh Hòa: Soạn niên, tài liệu và truyền bản của An Nam chí lược,  trong Lê Tắc: An Nam chí lược, Viện Đại học Huế 1961.

[9]Lê Tắc: An Nam chí lược, NXB Thuận Hóa 2002: Đoạn 1, chữ Hán tr. 452, tiếng Việt tr. 193; Đoạn 2, chữ Hán tr. 414 , chữ Việt tr.417-418.

[10]Quảng Tây thông chí, bản Tứ khố toàn thư, Q. 97.

[11]Khâm định tục thông chí, bản Tứ khố toàn thư, Q.574.

[12]Hương Lãm Mai Đế ký trong Tân định hiệu bình Việt điện u linh tập, Thư viện Viện Hán Nôm, ký hiệu A. 335

[13]Mai Thúc Loan tự cho thuộc đức thủy tức nước, tượng trưng màu đen nên xưng là Hắc Đế.

[14]Việt điện u linh, NXB Văn học, Hà Nội 1972, tr. 129.

[15]Chu Trọng Huyến: Có phải khởi nghĩa Mai Thúc Loan diễn ra trong mười năm (713-722), trong Văn hóa Nghệ An 2-2012

[16]Văn bia thời Mạc do PGS.TS. Đinh Khắc Thuân sưu tầm, khảo cứu và dịch chú, Nxb Hải Phòng, 2010.

[17]Tuyển tập văn khắc Hán Nôm của Hà Nội trong bộ Tư liệu văn hiến Thăng Long-Hà Nội, do PGS TS Phạm Thị Thùy Vinh chủ trì, NXB Hà Nội, 2010.

[18]Văn bia chùa Phật thời Lý, Sđd, chữ Hán: tr.251 và dịch: tr.262

[19]Đại Việt sử ký toàn thư, Q. 3, 6a

[20]Đại Việt sử lược, Q. 2, 15a, bản dịch Nxb Văn Sử Địa, 1960, tr. 107

[21]Xin lưu ý là Đại Việt sử lược chép năm sau “Quý Sửu nhị niên” tức năm 1073 (Quý Sửu) là  niên hiệu Thái Ninh thứ hai, nhưng ngay sau đó lại viết “Tháng giêng cải nguyên là Thái Ninh nguyên niên”[21]. Đây là một sai sót và mâu thuẫn mà người dịch đã đính chính theo Đại Việt sử ký toàn thư chép năm Quý Sửu là niên hiệu Thái Ninh thứ 2. Đại Việt sử ký toàn thư chép rõ: “Nhâm Tý [Thần Vũ] năm thứ tư (1072) (Từ tháng giêng về sau là Nhân Tông Thái Ninh năm thứ nhất)”[21]. Vua Lý Thánh Tông mất ngày 10 tháng giêng, ngày hôm sau tức ngày 11, thái tử Càn Đức nối ngôi trước linh cữu và đổi niên hiệu.

[22]Từ hải: mục từ sơ, nghĩa thứ hai

[23]Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, in lần thứ nhất năm 1955, tái bản năm 1957, in lại gần đây, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 2002, tr. 335.

[24]Hương Lãm Mai đế ký, trong Việt điện u linh, Sđd, tr. 129-130

[25]Việt điện u linh,Sđd, tr. 36.

[26]Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu, Kỷ yếu hội thảo, Sđd, tr. tr. 227.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574429

Hôm nay

227

Hôm qua

2317

Tuần này

21975

Tháng này

221486

Tháng qua

130677

Tất cả

114574429