Học giả Phạm Quỳnh (30.1.1893– 7.9.1945), còn có các bút danh Thượng Chi, Hoa Đường, Hồng Nhân; sinh tại Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc, tổng Ngọc Cục, phủ Bình Giang (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương).
Học giả Phạm Quỳnh (30.1.1893– 7.9.1945), còn có các bút danh Thượng Chi, Hoa Đường, Hồng Nhân; sinh tại Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc, tổng Ngọc Cục, phủ Bình Giang (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương).
Tên tuổi nhà văn hóa Phạm Quỳnh đã được khẳng định trong nhiều bộ từ điển danh nhân văn hóa, từ điển văn học, công trình nghiên cứu, chuyên khảo, luận văn; đặc biệt từ giai đoạn Đổi mới (1986) đến nay, nhiều tác phẩm quan trọng của ông đã lần lượt được sưu tập, công bố trở lại và được nghiên cứu ngày một sâu sắc hơn: Mười ngày ở Huế(2001), Luận giải văn học và triết học(2003), Pháp du hành trình nhật ký(2004), Du ký Việt Nam– Tạp chí Nam phong (1917-1934), ba tập(2007), Thượng Chi văn tập (2007),Phạm Quỳnh - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp(2007), Hoa Đường tùy bút và 51 bản dịch thơ Đỗ Phủ (2011),Phạm Quỳnh – một góc nhìn, Tập I (2011), Tập II (2012), Phạm Quỳnh trong dòng chảy văn hóa dân tộc (2012),v.v…
Công trình Phạm Quỳnh – Tuyển tập du ký sưu tập các bài viết của học giả Phạm Quỳnh thuộc phạm vi thể tài du ký trên Nam phong Tạp chí qua suốt 17 năm tồn tại (1917-1934)… Thực tế cho thấy các tác phẩm du ký của Phạm Quỳnh khá đa dạng về hành trình, mục đích chuyến đi và mức độ thể hiện tiếng nói trữ tình ngoại đề của chủ thể tác giả. Mặc dù có sự đan xen, giao thoa các sắc thái khác nhau nhưng vẫn có thể chỉ ra những tâm thế, những điểm nhấn, những bảng màu khác nhau trong du ký của ông chủ bút, ký giả, nhà văn hóa, nhà chính trị Phạm Quỳnh. Ở đây có một dòng du ký mang tính quan phương, sự vụ, công vụ. Kiểu du ký này thường do các trí thức, ký giả quan lại ghi chép. Mặt khác, vì Namphong Tạp chí chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của chính quyền đương thời nên buộc phải phát ngôn tiếng nói quan phương cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, các trang du ký này vẫn thể hiện được niềm tự hào dân tộc và cảm xúc chân thành trước vẻ đẹp non sông đất nước. Hơn nữa, từ quan điểm lịch sử mà đánh giá sẽ thấy nhiều trang du ký của Phạm Quỳnh nhưCùng các phái viên Nam Kỳ (ký Thượng Chi);Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, Pháp du hành trình nhật ký, Du lịch xứ Lào... lại thực sự có giá trị sử liệu để xem xét nhiều sự kiện văn hoá - xã hội và định vị hoạt động tổ chức hành chính của giai tầng công chức thượng lưu dưới thời thực dân phong kiến. Từ rất sớm, Phạm Quỳnh đã viếtdu ký vừa thể hiện sự hiếu kỳ, niềm vui khi khám phá một điểm di tích danh lam thắng cảnh in đậm sắc màu “vị nghệ thuật”, vừa sớm có những ý kiến đề xuất về cách thức thức tổ chức, điều hành hoạt động văn hoá lễ hội, du lịch như bài Trảy chùa Hương (ký Thượng Chi)…Lại có một dòng du ký viễn du - những chuyến du hành vượt biên giới, đòi hỏi cả nguồn kinh phí, yêu cầu công việc và ý chí của người ham hoạt động, ham xê dịch. Đặt trong bối cảnh văn hoá - xã hội đương thời thì các du ký này quả đã mở ra những chân trời nhận thức mới, đưa lại niềm phấn khích bởi những trang ghi chép, miêu tả sống động của người trong cuộc, người trải nghiệm, chứng nghiệm. Trên thực tế việc phân chia các phương thức, kiểu loại, nội dung du ký của Phạm Quỳnh chỉ có ý nghĩa tương đối. Song dù có khác nhau thế nào thì các tác phẩm du ký của ông vẫn hướng tâm ở phương thức ĐI và XEM, đặt cược vào tính tích cực chủ thể là người trực tiếp Chứng Nghiệm - Trải Nghiệm và vươn tới phẩm chất “vị nghệ thuật” chân - thiện - mỹ cao đẹp, ít nhiều gián cách với thế tục lầm than.
Trong số các du ký viết về Huế hồi đầu thế kỷ thì tiểu loại khảo cứu có ý nghĩa cung cấp thêm tư liệu lịch sử, ghi lại được chính xác các chi tiết, cảnh quan văn hoá xưa mà nhiều mảng màu ngày nay đã phôi pha hoặc không còn nữa. Khác với Hà Nội và Sài Gòn có dân số đông, nền kinh tế phát đạt thì xứ Huế vẫn trang trọng như là một nơi bảo lưu được vẻ cổ kính, truyền thống xưa cũ, xứng đáng là nơi đế đô, đất "thần kinh". Học giả Phạm Quỳnh trong bài Mười ngày ở Huế đã không chỉ phác thảo cảnh quan xứ Huế mà còn cảm nhận lại được cái "cữ thời gian" hợp lý nhất để đi du lãm lăng miếu, thắng cảnh: "Có người Pháp rất mến cái cảnh những nơi lăng tẩm của ta đã từng nói, muốn đi xem lăng phải đi vào những ngày gió thu hiu hắt, giời đông u ám thì mới cảm được hết cái thú thâm trầm"… Tác giả không chỉ xem cảnh ngắm đền, miêu tả tỉ mỉ ngày lễ Tế giao đích nhật đêm 12 rạng 13 tháng 2 năm Mậu Dần, tức 24 và 25-3-1918 (cũng có đủ cả múa Bát dật, hát Võ thiên uy, Văn thiên đức) mà gắng tìm hiểu chiều sâu phong hoá xứ Huế. Rồi tác giả dành hơn một trang dẫn chứng về Nữ sử Đạm Phương và dòng văn Nguyễn Khoa, lại đặc cách giới thiệu hai bài thơ Nhớ cảnh núi và thêm bài Nhớ bạn theo lối liên hoàn của bà. Vào khoảng cuối xuân 1918, Phạm Quỳnh gặp Đạm Phương ở Huế đã hết lời ngợi ca bà là bậc “Nữ sử”, “hay thơ”, “Có lắm bài làm theo lối liên hoàn, lối hồi văn khéo lắm. Phu nhân lại có làm thơ Nôm và biết chữ Pháp nữa, hiện đương tập lược dịch một bộ tiểu thuyết Tây”, “Đức ông không được người con giai nào, nhưng được người con gái như phu nhân tưởng cũng là xứng đáng lắm vậy”, “Chính phu nhân cũng có hai cô con gái học Pháp văn đã thông lắm”…
Vào cuối thập niên thứ hai của thế kỷ XX, học giả Phạm Quỳnh đã đến Sài Gòn - Gia Định và để lại những trang du ký sinh động qua tác phẩm Một tháng ở Nam Kỳ.Trong những ngày ở Sài Gòn, Phạm Quỳnh thấy phấn chấn, tin tưởng: "Cho nên cái cảm giác của người mới bước chân tới đây là cái cảm giác vui, vui mà tin cậy ở cái tương lai, chớ không phải buồn mà thương tiếc cho sự ký vãng"... Trước hết là niềm vui và sự tin cậy nơi con người, những bậc trí giả đầy năng lực, những đồng nghiệp cần mẫn, năng động, những người cùng chí hướng mới lần đầu gặp mặt mà như quen thân tự bao giờ. Trong khoảng một tháng, Phạm Quỳnh đã gặp các ông chủ bút Nam Kỳ tân báo (Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phú Khai), gặp cha con chính khách Diệp Văn Cương - Diệp Văn Kỳ và nhiều vị quan chức khác. Nhân thăm các bạn nhà báo, Phạm Quỳnh nêu rõ quan niệm và chức phận nghề làm báo cùng tình bằng hữu Bắc Nam: "Mấy bữa sau đi thăm các bạn "đồng nghiệp", tức là các anh em làm báo ở Sài Gòn. Gặp ông nào cũng được chuyện trò vui vẻ lắm, mới biết kẻ Nam người Bắc tuy ít dịp gần nhau thân nhau, mà mỗi lần biết nhau, thật là dễ nên cái tình thân ái vậy. Cho hay người một nước một nhà, dẫu xa cách mà cũng là anh em, miễn là đối với nhau lấy lòng thành thực, đừng có cái thói ghẻ lạnh người thường, thì khó gì mà chẳng nên thân mật được? Huống bọn mình lại cùng theo đuổi một nghề, tức là cái nghề khua chuông gõ mõ trong quốc dân, đem những lời hay lẽ phải mà bàn bạc với bạn đồng bào, mong gây lấy một mối tư tưởng cảm tình chung, mưu cho nước nhà giống nhà sau này được cường mạnh vẻ vang, có ngày được mở mặt mở mày với thế giới, thì cái mục đích cao xa ấy há lại không đủ khiến cho ta đồng tâm hiệp lực mà cùng nhau đạt cho tới ru?"... Quan sát hoạt động báo chí, Phạm Quỳnh xác định: "Báo giới trong Nam Kỳ thạnh lắm, phát đạt hơn ngoài Bắc nhiều. Hiện có đến mười tờ báo bằng quốc ngữ... Cứ lấy cái "lượng" (quantité) mà xét thì thật đủ khiến cho Bắc Kỳ, Trung Kỳ phải thẹn với Nam Kỳ rằng về đường ngôn luận còn chậm kém xa quá"... Không chỉ ở Sài Gòn - Gia Định, Phạm Quỳnh còn hăng hái đi thăm mấy tỉnh miền tây, trải khắp Mỹ Tho, Cái Bè, Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên, Cần Thơ và thức nhận biết bao điều mới mẻ về đời sống xã hội, cảnh quan, cư dân, ngôn ngữ, phong tục, tập quán con người nơi đây... Sau cuộc du ngoạn, sau tất cả những điều tai nghe mắt thấy và trở về xứ Bắc, nhà văn hóa Phạm Quỳnh đi đến đoạn kết như một lời ước nguyện: "Tôi càng đi du lịch trong Nam Kỳ lại càng thấy cái cảm giác rõ ràng rằng người Nam người Bắc thật là con một nhà, nếu biết đồng tâm hiệp lực thì cái tiền đồ của nước Nam ta không thể nào hạn lượng cho được. Tôi xin đốt lửa thắp hương mà cầu nguyện cho cái mối đồng tâm ấy ngày một bền chặt, thật là may mắn cho nước nhà lắm lắm"...
Theo tuyến biên ải phía Bắc, Phạm Quỳnh có thiên du ký Chơi Lạng Sơn, Cao Bằng. Mở đầu bài viết, tác giả dẫn giải kỹ lưỡng phương thức lựa chọn tư liệu và cách thức viết du ký... Sau khi kể chuyện đoạn đường xe lửa từ Lạng Sơn qua Đồng Đăng, tới Na Sầm (còn gọi là Na Cham), tác giả thuật tiếp chuyến đi bằng ô tô đến Thất Khê và Cao Bằng, đồng thời với việc thuật lại cảnh đón tiếp, diễn thuyết trong hội Trí Tri; việc đi thăm sở nuôi ngựa lai giống Phi châu bên phủ lỵ Hòa An, đi thăm miếu vua Lê ở địa hạt làng Na Lữ và mô tả chi tiết, đánh giá cao hình thức sinh hoạt hát Then… Có thể nói nhờ những trang du ký của học giả Phạm Quỳnh như thế mà chúng ta hiểu rõ thêm phần nào tình hình đời sống xã hội, mức độ phát triển giao thông, vài nét phong tục tập quán và những thắng cảnh tiêu biểu ở vùng núi Lạng Sơn - Cao Bằng vào thập kỷ hai mươi của thế kỷ trước, cách ngày nay đã gần cả trăm năm.
Với Pháp du hành trình nhật ký và Thuật chuyện du lịch ở Paris, Phạm Quỳnhđã có những đóng góp đặc biệt quan trọng ở thể tài du ký viết về nước Pháp và mối quan hệ Việt - Pháp hồi đầu thế kỷ XX. Trên thực tế Thuật truyện du lịch ở Pais chính là bản tóm tắt trên nền tảng nội dung ghi chép Pháp du hành trình nhật ký và được Phạm Quỳnh trình bày trong buổi diễn thuyết tại Nhạc hội Tây Hà Nội, do Hội Khai Trí Tiến Đức tổ chức vào ngày 15-10-1922… Theo ghi chép của Phạm Quỳnh trong Pháp du hành trình nhật ký, chuyến đi khởi hành từ ngày 9-3-1922 tại cảng Hải Phòng và trở về vào ngày 11-9, vừa đủ sáu tháng. Năm ấy Phạm Quỳnh tròn ba mươi tuổi. Trong nửa năm ở Pháp, ông chủ ý đi - xem - nghe càng nhiều càng tốt, từ đó suy nghĩ, so sánh, đối sánh văn minh và thế cuộc xứ sở Việt Nam với nước Pháp. Tại nước Pháp, ông đã trở đi trở lại Marseille, qua Lyon, Versailles, Verdun và thăm thú khắp các công sở, di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh ở Paris... Đến đâu ông cũng ghi chép, bình luận, liên hệ, so sánh với cuộc sống bên nước nhà và phát biểu cảm tưởng về những điều tai nghe mắt thấy.
Tới nước Pháp, Phạm Quỳnh ngỡ ngàng bởi nền khoa học, kỹ thuật và đời sống vật chất vượt trội của chính quốc. Ông khâm phục trước cung điện Le Louvre tráng lệ, tháp Eiffel có thang máy, những tòa nhà cao rộng, những khách sạn, nhà hàng tiện nghi, những cây cầu bắc qua sông Seine uy nghiêm, những công viên, đường phố, biệt thự sang trọng... Hiện đại và ấn tượng thêm nữa là dòng xe ô tô tấp nập qua lại, những chuyến tắc xi cơ động và đường xe điện ngầm có lúc chạy trên cầu, có lúc đi dưới đất, có lúc chạy ngầm dưới lòng sông, "nghe nói lạ lắm", "đi đâu cũng tiện lắm", "chạy mau vùn vụt như tên bắn vậy"... Phạm Quỳnh chịu khó mua sách, đọc sách, nghe giảng và trực tiếp tham gia diễn thuyết tại nhiều trung tâm văn hóa, khoa học, viện nghiên cứu, trường đại học. Từ góc độ nhà hoạt động xã hội, nhà văn hóa, nhà chính trị, ngay khi ở Marseille, Phạm Quỳnh đã tới nghe một nữ bác sĩ diễn thuyết về "cái phong trào cách mệnh và cái chủ nghĩa quá khích ở nước Nga". Điều này cho thấy không khí tương đối tự do, dân chủ trong sinh hoạt chính trị, học thuật ở nước Pháp bấy giờ và được Phạm Quỳnh tán đồng, thậm chí còn liên hệ trở lại với tư tưởng xã hội phương Đông: "Ta thường đọc sách đọc báo chỉ thấy công kích cái phong trào quá khích ở nước Nga; cũng nên nghe có người tán dương cổ đãng cái phong trào ấy, mới có thể chiết trung mà phán đoán cho đúng được. Ở đời này muốn quan niệm về một sự gì cho chánh đáng, thật là khó quá; tỉ như một cái chủ nghĩa quá khích đó, người nói xấu biết bao nhiêu mà kể, mà người nói tốt cũng nói tốt quá; nghe bọn trên thời tưởng nước Nga bây giờ là nơi âm ti địa ngục gì, chớ không phải cõi nhân thế trần gian nữa; nghe bọn dưới thời ngờ là chốn bồng lai lạc địa. Đến khi mối lợi quyền đã mâu thuẫn, lòng tham dục đã xung đột nhau, thời công lý, công nghĩa không biết đâu mà dò nữa. Gặp những khi như thế mà lại càng tiếc cái đạo "trung dung" của đấng Thánh nhân phương Đông ta đời xưa. Nhưng đạo ấy đời nay có dùng được nữa không? Ngoài sự lý tưởng, đạo ấy có thể đem ra thực dụng ở cái thế giới cạnh tranh này không? Tưởng cũng khó quá"... Tham dự một buổi thảo luận về chính sách giáo dục, Phạm Quỳnh rút ra kết luận: "Ở một nước tự do có khác, bất cứ việc gì cũng có thể đem ra công chúng mà nghị luận được. Kẻ nói đi người nói lại, quốc dân đứng giữa mà phán đoán, Chính phủ ở trên mà chiết trung, tưởng còn hơn là cái chính sách "bịt bung", rút lại chẳng có lợi cho ai hết"... Ông từng tham dự diễn thuyết, từng "vào xem" một cuộc thảo luận, nghe các ông nghị viên chất vấn Chính phủ ở Thượng viện và đi đến suy xét: "Nghe người ta diễn thuyết mà hồi tưởng đến người mình, không những nghề diễn thuyết chưa biết, mà đến nói câu chuyện cho có đầu đuôi manh mối, cũng ít người nói được... Người mình cần tập nói lắm"... Đồng thời, trong bài Thuật chuyện du lịch ở Paris, Phạm Quỳnh tiếp tục chỉ rõ sự lợi hại của các cuộc phản biện, trao đổi, tranh luận công khai, dân chủ và hài hước nhấn mạnh: "Hoặc giả nói: Nếu như thế thì làm việc chính trị chẳng là chán lắm ru? Và nơi nghị trường chẳng là giống như chợ hàng rau ư? Nếu như thế thì các ông nghị ta mỗi năm về Hà Nội chơi mấy ngày, xin Chánh phủ cho đi xem hát chèo chớp bóng, há lại chẳng có tư cách hơn các ông nghị Tây kia cứ ngày ngày đem nhau ra chỗ công đồng mà cãi nhau như mổ bò ru?... Đã có nghị viện phải có chính đảng, đã có chính đảng tất phải có cạnh tranh, có cạnh tranh mới hoạt động; cái phép tiến hóa của các dân tộc như thế. Dân tộc mình còn chưa tới trình độ đó, ta nên đáng mừng hay là đáng tiếc? Điều đó xin chất vấn ở quốc dân"...Ngòi bút Phạm Quỳnh cũng khá tự do khi viết về đức vua: "Gần bốn giờ thì Hoàng thượng xuống tầu, kèn trống thổi mừng, quân quan đứng tiễn. Ngài đi Tây chuyến này sắm được vô số đồ, chở xuống tầu từ hai giờ đến bốn giờ, hết kiện ấy đến kiện khác, cái cần máy trục cứ giơ lên hạ xuống hoài mà không dứt"...
Điều quan trọng hơn, Phạm Quỳnh đi đến những nhận xét tổng quan, bày tỏ chính kiến về xã hội, về mối quan hệ Việt - Pháp, về tương quan Đông - Tây và xác định con đường tiến hóa, tiến bộ xã hội. Không có gì phải nghi ngờ việc Phạm Quỳnh thực sự bị thuyết phục bởi nước Pháp "quả tim thế giới", "khối óc văn minh", "tinh hoa của văn hóa"... Nhìn về nước Pháp, ông thấy đây là mối quan hệ tòng thuộc, cần hướng theo nền kỹ nghệ và cơ cấu chính trị - văn hóa kiểu Pháp. Ông mong muốn dân tộc mình tiến hóa nhưng cũng thấy rõ những hạn chế, thiếu hụt bởi một nền kinh tế tiểu nông, lạc hậu, trì trệ. Có một điều cần chú ý là Phạm Quỳnh không dập khuôn máy móc một chiều mà luôn cố gắng tìm ra phương hướng canh tân thích hợp, coi trọng nền văn hóa Pháp nhưng vẫn bảo tồn truyền thống dân tộc, đề cao việc học tiếng Pháp nhưng vẫn đề xuất việc học thành thục tiếng An Nam "nhiên hậu có thì giờ sẽ học đến tiếng ngoài"... Trước sau ông vẫn nhận mình thuộc hàng trí thức, chú trọng rung lên tiếng chuông trước quốc dân đồng bào và trước các nhà chức trách. Tất cả những điều đó cho thấy học giả Phạm Quỳnh thực sự xứng đáng là một nhà văn hóa, nhà hoạt động truyền bá văn hóa xuất sắc nửa đầu thế kỷ XX.
Cuối cùng, trong thiên du ký Du lịch xứ Lào, học giả Phạm Quỳnh giới thiệu đủ các vấn đề về địa lý tự nhiên, chính trị, xã hội, tình hình dân số, tổ chức chính quyền, dân tộc học, ngôn ngữ học và đặc biệt là chủ trương di dân. Từ quan điểm lịch sử có thể nhận ra những suy nghĩ khá bình dị, đơn giản và thật sự chân thành của Phạm Quỳnh liên quan đến lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, dân tộc. Tất nhiên, trước sự thật “Ai Lao hiện nay là một xứ trong năm xứ họp lại thành ra cõi Đông Dương thuộc Pháp. Bờ cõi rất rộng mà dân số thì ít ỏi lắm” đang là nhận thức phổ biến thì việc Phạm Quỳnh có những quan niệm, suy tính và đề xuất in đậm tính chủ quan, mơ mộng, xuôi chiều cũng là điều dễ hiểu.
Về phong cách nghệ thuật, du ký của Phạm Quỳnh hòa quyện được phẩm chất, tư thế học giả, nhà khảo cứu, bản lĩnh trí thức, nhà văn và nhà nghệ sĩ. Trong mỗi trang viết, ông thường mở rộng liên hệ, so sánh, đối sánh các mối quan hệ kinh tế - chính trị - văn hóa giữa truyền thống với hiện đại, cá nhân và cộng đồng, dân tộc và thời đại, Đông và Tây, thủ cựu và tiến bộ xã hội… Nhìn chung trên địa hạt du ký, có thể khẳng định Phạm Quỳnh không chỉ đứng đầu Nam phong Tạp chí mà cũng là nhà viết du ký xuất sắc trong suốt cả thế kỷ XX.
[Kỳ sau VHNA sẽ đăng các tác phẩm du ký của Phạm Quỳnh. Mời quý vị đón đọc].
2271
2317
22219
221730
130677
114574673