
Một tăng lữ chép lại “Halotti beszéd és könyörgés” (1192-1195) - văn bản xưa nhất được viết hoàn toàn bằng tiếng Hungary - tại nhà thờ nhỏ mang tên Thánh István
Trên cơ sở định nghĩa rộng đó, nền văn học Hungary đã có chừng một ngàn năm lịch sử, phù hợp với lịch sử hình thành, lập quốc và phát triển của dân tộc Hungary ở vùng lòng chảo Carpathian (Kárpát).
Khởi đầu (thế kỷ 11-14)
Sự hình thành của ngôn ngữ Hungary được các nhà nghiên cứu ấn định là vào cuối thiên kỷ thứ hai trước CN, khi tiếng Hungary được tách khỏi “người anh em” gần gũi nhất của nó là hệ ngôn ngữ Ugor (ugrian), tuy nhiên, ngôn ngữ cổ Hungary thì chỉ khởi đầu từ thời lập quốc của dân tộc Hungary (cuối thế kỷ 9, đầu thế kỷ 10). Cho dù không còn giữ được những văn bản của Hungary trước thế kỷ XI, nhưng căn cứ những di tích chữ khắc cổ sơ trên đá của Hungary, có thể giả định rằng vào thời lập quốc hoặc thậm chí trước đó, dân tộc Hungary đã có chữ viết, và có lẽ đã có một nền văn học.
Sau khi vua István Đệ nhất đăng quang vào năm 1.000 và thành lập Vương quốc Hungary Công giáo, nền văn học Hungary thoạt tiên được viết bằng tiếng Latin và có liên quan mật thiết đến giới tăng lữ, được coi là những người đi đầu trong sự phát triển văn hóa và khoa học của đất nước. Mốc khởi đầu của nền văn học Hungary là tác phẩm “Libellus de institutione morum ad Emericum” (khoảng 1015), là những lời dặn dò, khuyên nhủ của vua István viết gửi con, hoàng tử Imre.
Trong những thế kỷ sau của thời Trung cổ, nền văn học Hungary được đánh dấu bởi những huyền thoại về các vị Thánh có xuất xứ Hungary (như István, Imre, Gellért, László, András...), những cuốn biên niên sử, mà đáng kể nhất là “Gesta Hungarorum” (cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13), cuốn sử viết đầu tiên còn giữ lại được của một tác giả vô danh (Anonymus, có lẽ là thư ký của vua Béla Đệ tam) và những cuốn sách ghi chép du hành, ký sự đi đường, mà khởi đầu là tác phẩm “De facto Ungariae Magnae” (1237) của một tăng lữ nổi tiếng thuộc dòng Dominican tên là Julianus, người đã thực hiện hai chuyến du hành về phương Đông để tìm thủy tổ của dân tộc Hungary.
Mặc dù trong nhiều thế kỷ, chữ viết chính thức được sử dụng tại Vương quốc Hungary là Latin, nhưng nhiều khả năng là văn học tiếng Hungary đã tồn tại từ rất sớm. Dấu vết của một vài từ ngữ Hungary được tìm thấy trong văn kiện thành lập tu viện Tihany (1055), viết bằng tiếng Latin, được coi là văn bản Hungary cổ nhất còn được lưu lại cho đến nay. Văn bản xưa nhất được viết hoàn toàn bằng tiếng Hungary là “Halotti beszéd és könyörgés” (Văn điếu và khẩn cầu, 1192-1195), bản dịch một bài giảng tiếng Latin, hàm chứa khoảng 130 từ tiếng Hungary. Cần ghi nhận bài thơ đầu tiên bằng tiếng Hungary là “Ómagyar Mária-siralom” (Cung oán Mária Hungary cổ, thế kỷ 13), cũng là bản dịch khá tự do của một văn bản tiếng Latin.
Những thế kỷ phát triển (thế kỷ 15-19)
Sau những thế kỷ đầu, văn học Hungary đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển như Phục hưng (thế kỷ 15-17), Baroc (thế kỷ 17-18), Khai sáng (1772-1800), Cổ điển và Lãng mạn...(đầu thế kỷ 19), với nhiều tác gia quan trọng như Janus Pannonius (1434-1472, giám mục, nhà thơ viết bằng tiếng Latin, được coi là thi sĩ Hungary đầu tiên mà tên tuổi được biết đến một cách chính xác), Bornemisza Péter (1535-1584, linh mục Tin lành, người khởi động và đại diện đầu tiên của văn xuôi cổ điển Hungary), Balassi Bálint (1554-1594, thi sĩ, đại diện xuất sắc đầu tiên của thi ca Hungary, được coi là tác gia kinh điển đầu tiên của nền văn học Hungary), Mikes Kelemen (1690-1761), Csokonai Vitéz Mihály (1773-1805, một trong những thi sĩ quan trọng nhất của văn học Hungary)...
Tất cả đã tạo nên một tiền đề để khi Hungary bước vào thời kỳ Đổi mới ngôn ngữ và Cải cách (1825-1849) - cùng với sự hứng khởi trong phong trào yêu nước, mộng ước giành độc lập khỏi đế chế Áo (vương triều Habsburg), xây dựng một nước Hungary độc lập, dân chủ, phú cường về văn hóa, khoa học - đời sống tinh thần Hungary nói chung và nền văn học Hungary đã có những bước tiến mạnh mẽ. Năm 1825, Viện Hàn lâm Khoa học Hungary được thành lập, nhiều tờ báo ra đời truyền bá tư tưởng cải cách, các nhà văn trước đó thường sáng tác đơn độc, co cụm, ít có sự liên hệ thì giờ đây có điều kiện trao đổi, thảo luận cùng nhau những vấn đề lớn tại các trung tâm văn hóa của đất nước, mà địa điểm chính là Pest.
Có thể kể đến ở đây những gương mặt xuất chúng nhất ở giai đoạn này như Kazinczy Ferenc (1759-1831, nhà thơ, nhà văn, thủ lĩnh phong trào đổi mới ngôn ngữ Hungary), Katona József (1791-1830, tác gia xuất chúng của nền kịch nghệ Hungary, tác giả vở kịch “Bánk bán” (1)), Kölcsey Ferenc (1790-1838, nhà thơ, nhà đổi mới ngôn ngữ, tác giả thi phẩm “Hymnus, a' Magyar nép zivataros századaiból”, sau được nhạc sĩ Erkel Ferenc phổ nhạc thành bản Quốc ca Hungary), Vörösmarty Mihály (1800-1855, nhà thơ, nhà văn, đại diện lớn của trường phái Lãng mạn Hungary, tác giả bài thơ “Szózat” lừng danh ngợi ca tình yêu quê hương đất nước), Arany János (1817-1882, nhà thơ với tác phẩm nổi tiếng “Toldi”), Petőfi Sándor (1822-1849)...
Trong số đó, Petőfi Sándor nổi lên với cương vị thi hào vĩ đại nhất của Hungary thế kỷ 19, như nhận định của nhà phê bình văn học Hegedűs Géza: “Nếu ai đó nói bằng tiếng Hung từ “thi sĩ”, người đó trước hết đã nghĩ đến Petőfi. Kể từ khi bước chân vào văn đàn, ông hiện diện không ngừng ở đó. Ông là tấm gương và là thước đo” (2). Tên tuổi Petőfi được thế giới đánh giá cao và xếp ngang hàng những văn sĩ lớn của Châu Âu thời bấy giờ, như Byron (Anh), Pushkin (Nga), Heiné (Đức), Mickiewicz (Ba Lan) và Viktor Hugo (Pháp).
Nhận định về cuộc đời và sự nghiệp của Petőfi, GS. VS. Németh G. Béla đã có một đánh giá ngắn gọn và chuẩn xác: “Ở nước ngoài, cho đến nay, Petőfi là nhà thơ được biết đến nhiều nhất của Hungary. Ông là người Hungary được thánh thần sủng ái. Ông được nhận tất cả để trở thành một thi hào lớn: tài năng, lịch sử và số phận. Sống hai mươi sáu năm, ông để lại một sự nghiệp mang tầm kích thế giới, đánh dấu bước biến chuyển thời đại trong nền văn học của xứ sở ông”. (3)
Không chỉ là một nhà thơ lớn, Petőfi còn được biết tới như nhà anh hùng dân tộc và điều này đã để lại dấu ấn đặc biệt trong thi nghiệp của ông với hai mảng thơ đề tài tiêu biểu - tình yêu lứa đôi và hồn dân tộc, bổn phận ái quốc của người trượng phu thời ly lạc. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, ông còn là người đổi mới thi ca Hungary bằng cách đưa nhiều đề tài mới vào thơ: thơ ngợi ca tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa, vợ chồng, ngợi ca những miền đất, phong cảnh của quê hương đất nước...
Thơ Petőfi mang sức mạnh biểu cảm mạnh mẽ vì ông đi thẳng vào nhân dân, sử dụng thứ ngôn ngữ tinh tế, nhưng dễ hiểu và đơn giản của người dân. Petőfi chủ trương coi trọng nội dung, xem phần tư tưởng như trung tâm của các thi phẩm, coi nó quan trọng hơn sự hoàn thiện hình thức thi ca. Tuy nhiên, có thể coi rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông như những viên ngọc toàn bích cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện, như “Az alföld” (Vùng bình nguyên, 1844), “A Tisza” (Sông Tisza, 1847), “Reszket a bokor, mert…” (Bụi cây run rẩy, vì…, 1846), “Szeptember végén” (Cuối tháng chín, 1847), “Szabadság, szerelem...” (Tự do và ái tình, 1847), “Minek nevezzelek?” (Anh biết gọi em là gì?, 1848), “Nemzeti dal” (Bài ca Dân tộc, 1848), “Föltámadott a tenger…” (Biển thét gào, 1848), “Európa csendes, újra csendes…” (Châu Âu lại tĩnh lặng…, 1849)... (4)
Qua đời khi mới 27 tuổi, Petőfi để lại hàng ngàn bài thơ và một di sản tinh thần lớn lao cho các thế hệ thi sĩ Hungary mà “bất cứ một nhà thơ nào viết bằng tiếng Hungary, không thể tránh được mối tương giao tinh thần với ông” (5). Thi nghiệp và con người của thi sĩ - người đã thổi lửa vào những vần thơ - còn có ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà thơ - chiến sĩ Việt Nam thông qua những bản dịch Việt ngữ giữa thế kỷ 20, cho thấy sự đồng điệu giữa tình cảm và tâm thế của những nhà thơ, những dân tộc cách nhau một khoảng rất xa về địa lý.
*
Sau khi cuộc cách mạng dân chủ tư sản 1848 thất bại, Hungary phải chịu ách thống trị độc đoán của Áo cho đến năm 1867, khi Đế chế Áo - Hungary (hay chính xác hơn là Nền Quân chủ Áo - Hungary) ra đời như kết quả của sự thỏa thuận giữa triều đình Áo không đủ lực để biến Hungary thành một phần của đế chế Áo đơn độc, và Hungary luôn có ý muốn giành độc lập nhưng cũng không đủ sức mạnh để thực hiện ý nguyện đó.
Trong những thập niên cuối của nửa sau thế kỷ 19, Hungary có những bước phát triển vượt bậc về kinh tế, đặc biệt là nền công nghiệp. Thủ đô Budapest sau khi được hợp nhất từ các thành phố Buda, Pest và Óbuda, được hình thành và hoàn chỉnh với những đại lộ và công trình kiến trúc nổi bật, nhiều nhà hát, tòa soạn báo xuất hiện, các nhà xuất bản cũng mọc lên hàng loạt. Tinh thần tự tôn dân tộc và ái quốc vẫn được gìn giữ trong lòng giới trí thức, văn nghệ sĩ - đặc biệt, được gia tăng trong dịp kỷ niệm một ngàn năm Vương quốc Hungary (896-1896) - và tiếp tục được duy trì trong các sáng tác của họ.
Trên đà ấy, sau thi ca một bước, nhưng nền văn xuôi và kịch nghệ Hungary đã sản sinh nhiều tên tuổi lớn như Kemény Zsigmond (1814-1875, tiểu thuyết gia lớn của trường phái Lãng mạn Hungary), Madách Imre (1823-1864, nhà văn, nhà thơ, tác giả vở kịch được coi là kinh điển nhất trong nền kịch nghệ Hungary, “Az ember tragédiája” (6)), Jókai Mór (1825-1904, tiểu thuyết gia, tác giả “A kőszívű ember fiai” (7), tác phẩm lớn ca ngợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc 1848-49), Mikszáth Kálmán (1847- 1910, nhà văn, ký giả), Gárdonyi Géza (1863-1922, nhà văn, tác gia nổi bật của văn học Hungary đầu thế kỷ 20 với những tác phẩm lớn đề tài lãng mạn lịch sử như “Egri csillagok”, “Láthatatlan ember”, “Ido regénye”... (8)).
“Trăm hoa đua nở” (1900-1945)
Sự thăng hoa của đời sống tinh thần và việc giới thị dân, tiểu thị dân có điều kiện phát triển trong hòa bình trong những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 là những yếu tố khiến nền văn học Hungary đã có chừng hơn 4 thập niên rạng rỡ đầu thế kỷ 20 với nhiều nhóm văn bút, văn đoàn và trường phái văn học với những tên tuổi xuất sắc.
Đại diện cho nền văn học mới với tiêu chí đưa nền văn học Hungary lên tầm Phương Tây (và thế giới) là các tác giả quy tụ bên tờ tạp chí “Nyugat” (Phương Tây, 1908-1941), được coi là nơi bảo trợ và đảm bảo “đất dụng võ” cho những hướng đi mới, phong cách mới trong văn học Hungary, đồng thời, giới thiệu những nỗ lực mới nhất của văn học Phương Tây đương thời.
Dưới sự chủ trì của Osvát Ernő (1876-1929, nhà văn, nhà phê bình văn học danh tiếng, nhà tổ chức đại tài của nền văn học hiện đại Hungary), với một chương trình xuất phát nhấn mạnh vào các yếu tố Dân tộc Hungary - Chất lượng sáng tác - Tự do sáng tạo -, tạp chí “Nyugat” đã liên kết các thành viên thuộc ba thế hệ để trở thành địa chỉ sáng tác nổi bật nhất của văn học Hungary thế kỷ 20.
Các nhà văn, nhà thơ thuộc “thế hệ Phương Tây”, hoặc đơn thuần đã có những gắn bó với tờ tạp chí, như Ady Endre (1977-1919), Krúdy Gyula (1878-1933), Kaffka Margit (1880-1918), Csáth Géza (1887-1919), Juhász Gyula (1883-1937), Kosztolányi Dezső (1885-1936), Babits Mihály (1883-1941), Tóth Árpád (1886-1928), Móricz Zsigmond (1879-1942), Tamási Áron (1897-1966), Márai Sándor (1900-1989), Szabó Lőrinc (1900-1957), Németh László (1901-1975), Illyés Gyula (1902-1983), Déry Tibor (1894-1977), Weöres Sándor (1913-1989)..., trong sự nghiệp sáng tác cá nhân, đều đã trở thành những bậc thày của văn xuôi và thi ca hiện đại Hungary thế kỷ 20.
“Nyugat” cũng đã nâng đỡ và trân trọng nhiều ngòi bút có quan điểm sáng tác không nhất thiết tương đồng với “Thế hệ Phương Tây”, mà József Attila (1905-1937), gương mặt lớn nhất của thi ca Hungary nửa đầu thế kỷ 20 là một ví dụ điển hình. Là người nối tiếp truyền thống thi ca Hungary từ Petőfi Sándor, qua Ady Endre và người bạn, người thày Juhász Gyula, “người con của đường phố và ruộng đồng” (az utca és a föld fia) József Attila đã có ảnh hưởng vô cùng lớn đến nền thi ca Hung nửa đầu thế kỷ trước.
Với toàn bộ thi nghiệp của mình, József Attila đã đề cập - một cách thiên tài - đến toàn bộ những chủ đề chính của thơ ca và con người: cuộc sống, tình yêu, cái chết, tình mẫu tử, thân phận con người, Tổ quốc, thế giới… và bao trùm lên tất cả, là vẻ đẹp trong trăn trở của kiếp người. Đáng nói là ngoài những đề tài “vĩnh cửu”, thi sĩ còn đưa vào thi ca nhiều đề tài mới, cấp thời (về phong trào lao động, giới công nhân lao khổ, nhà máy, công xưởng…) và khi thể hiện chúng, ông đã tránh được những mô-típ sáo mòn, thiên về tuyên truyền, cổ động mà thế hệ các nhà thơ “vô sản” cùng thời với ông thường phạm phải.
Cho dù qua đời khi còn rất trẻ ở tuổi 32, József Attila đã để lại một thi nghiệp đồ sộ về số lượng và bao la về phạm vi đề tài được ông đề cập, gồm trên dưới 600 tác phẩm, trong đó có những thi phẩm lớn đã được độc giả Việt Nam biết tới và yêu thích như “Tiszta szívvel” (Trái tim trong trắng, 1925), “Juhász Gyulához” (Gửi Juhász Gyula, 1922), “Mẹ” (Mama, 1934), (“Anyám”, 1931), “Bús magyar éneke” (Bài ca của người Hung buồn, 1922), “Kertész leszek” (Thành thợ làm vườn, 1925), “Tedd a kezed…” (Hãy đặt tay em…, 1928), “Óda” (Tụng ca, 1933)... (9)
Xứng đáng ngôi vị thi bá Hungary thế kỷ 20, ngày sinh của József Attila (11-4) đã được chọn làm Ngày Thi ca Hungary. Nhà phê bình László Zoltán (mạng Literatura.hu) đã có lời đánh giá trân trọng về ông: “Tất cả những gì đã tồn tại trong nền thi ca của chúng ta đến lúc bấy giờ, đều hội tụ vào József Attila; tất cả những gì có từ hồi ấy, đều bắt đầu từ ông. Ông là tác gia kinh điển của “tinh thần và tình yêu”, của chủ nghĩa nhân văn, của người Hungary ở châu Âu. Ông đã trở thành một tác gia kinh điển, của dân tộc và của văn đàn thế giới”.
Ngoài tầm ảnh hưởng của “Nyugat”, thời kỳ 1900-1945 còn chứng kiến sự hiện diện của những cây bút độc lập trên văn đàn Hungary, trong đó đáng kể nhất là Móra Ferenc (1879-1934, một trong vài nhà văn Hungary được biết đến nhiều nhất trên thế giới), Kassák Lajos (1887-1967, thủ lĩnh trường phái avant-garde Hungary), Radnóti Miklós (1909-1944, nhà thơ gốc Do Thái bị sát hại trong Đệ nhị Thế chiến), Molnár Ferenc (1878-1952, tác giả tiểu thuyết thiếu nhi “A Pál utcai fiúk” (10), tác phẩm văn học Hungary được dịch và biết đến nhiều nhất trên thế giới), Wass Albert (1908-1998, nhà văn, nhà thơ Hungary sống tại vùng Transylvania (Erdély))...
Ghi chú (đối với các tác phẩm chưa được dịch ra tiếng Việt, các tựa đề sách chỉ mang tính tham khảo):
(1) “Nhiếp chính bang”, Lê Xuân Giang dịch.
(2) “Bảng chân dung của nền văn học Hungary” (A magyar irodalom arcképcsarnoka).
(3) “Lịch sử Văn học Hungary” (A magyar irodalom története, NXB Kossuth, năm 1982).
(4) Các thi phẩm của Petőfi đã được nhiều dịch giả chuyển ngữ ra tiếng Việt.
(5) Hegedűs Géza, sđd.
(6) “Tấn thảm kịch con người”, Vũ Ngọc Cân dịch (sắp xuất bản).
(7) “Con trai người có trái tim đá”, Lê Xuân Giang dịch.
(8) “Những ngôi sao thành Eger”, Lê Xuân Giang dịch; “Tâm hồn bí ẩn” và “Nàng Iđo”, Hà Anh My dịch.
(9) Xin tham khảo bản dịch các thi phẩm nói trên trong tập “Gió trắng” (thơ và thơ dịch của Nguyễn Thụ).
(10) “Những cậu con trai phố Pál”, Vũ Thanh Xuân dịch.

Kertész Imre, Nobel Văn chương 2002, “người chuyển giao tinh thần Auschwitz”
Phát triển ở tầm thế giới (1945 cho tới nay)
Về căn bản, tính chất của nền văn học Hungary trong hơn 4 thập niên từ sau Đệ nhị Thế chiến được xác định bởi những biến cố lịch sử và thể chể xã hội - chính trị tại đất nước này.
Đầu năm 1945, theo hình mẫu của Liên Xô, Hội Nhà văn Hungary được thành lập theo đề xuất (và được đặt dưới sự chỉ đạo) của Đảng Cộng sản. Năm 1949, theo chỉ thị của Đảng Lao động Hungary (tức Đảng Cộng sản, khi đó đổi tên), Hội Nhà văn đã tiến hành một đợt thanh lọc mà kết quả là nhiều nhà văn có uy tín bị tước hội tịch, và điều kiện căn bản để được là thành viên Hội là yếu tố trung thành với đảng. Từ biến cố đó, các nhà văn gắn bó với đời sống văn học rơi vào vòng kiềm tỏa và phụ thuộc của nhà nước, một nền nghệ thuật bị chỉ đạo được hình thành mà mối quan tâm hàng đầu của người cầm bút không phải là độc giả, mà là làm sao thỏa mãn được yêu cầu của nhà nước, bên “đặt hàng”, đồng thời giữ quyền kiểm tra và giám sát.
Cũng từ thời điểm đó, không ít tên tuổi lớn của nền văn học Hungary buộc phải im lặng - hoặc bị đưa khỏi đời sống văn học - trong những khoảng thời gian dài ngắn khác nhau, như Kassák Lajos, Füst Milán (1888-1967), Hamvas Béla (1897-1968), Vas István (1910-1991), Ottlik Géza (1912-1990), Weöres Sándor, Mándy Iván (1918-1995), Mészöly Miklós (1921-2001), Nemes Nagy Ágnes (1922-1991), Pilinszky János (1921-1981) và Szabó Lőrinc.
Xu hướng sáng tác theo trường phái hiện thực xã hội chủ nghĩa được coi là “chính thống” và được tập trung khuyến dụ. Ngoại trừ một số không nhiều các tác gia thực sự sáng tác theo trường phái này và đôi lúc, đạt được một số thành tựu nhất định, như Illés Béla (1895-1974) với “Kárpáti rapszodia” (1), thì một phần sự nghiệp sáng tác của các nhà văn, nhà thơ khác cũng được giới chức văn nghệ liệt vào đây một cách khiên cưỡng, như thi nghiệp của József Attila, những thi phẩm cách mạng của Illyés Gyula, nhiều truyện ngắn của Nagy Lajos (1883-1954), tác phẩm “A befejezetlen mondat” (Câu nói dang dở) của Déry Tibor, tiểu thuyết “Húsz óra” (2) của Sánta Ferenc (1927-2008), phần 1 cuốn “Egy ember élete” (Đời một con người) của Kassák Lajos, hoặc một phần đáng kể các sáng tác của Radnóti Miklós...
Tuy nhiên, nền văn học Hungary trong những năm của hậu bán thế kỷ 20 vẫn để lại những tác phẩm lớn với các tác gia lớn, một phần, là bởi tài năng, bản lĩnh và nỗ lực của giới cầm bút, phần khác, vì sau biến cố 1956, chính sách quản lý văn nghệ của Hungary đã nhiều lần phải nới lỏng và phải từ bỏ những biện pháp siết chặt trước đó. Sự phân loại Cấm đoán - Chấp nhận - Ủng hộ (Tilos, tűrt, támogatott) được đặt ra (và đi vào thực hiện đối với các văn nghệ sĩ từ giữa thập niên 60), nhưng càng ngày, giới cầm bút bị coi là “có vấn đề” thường được liệt vào hàng “tạm chấp nhận” (với những hạn chế nhất định), chứ ít khi bị cấm đoán nghiêm ngặt và độc đoán như thời trước. Mặt khác, Hungary vẫn được coi là quốc gia thuộc hàng “dễ thở” nhất về cả vật chất lẫn tinh thần trong khối XHCN tại Châu Âu và điều này cũng là một nguyên nhân khiến giới cầm bút Hungary vẫn có những sáng tác tầm châu lục và thế giới trong những năm tháng ấy.
Sau ba thế hệ của “Nyugat”, đã xuất hiện nhiều thế hệ mới trong nền văn học Hungary 50 năm cuối thế kỷ 20. Đó là những Mészöly Miklós, Sarkadi Imre (1921-1961), Pilinszky János, Nemes Nagy Ágnes, Nagy László (1925-1978), Juhász Ferenc (1928-), Sütő András (1927-2006), Sánta Ferenc... (thế hệ thứ tư, trưởng thành trong vài thập niên sau 1945); Hajnóczy Péter (1942-1981), Nádas Péter (1942-), Spiró György (1946-), Oravecz Imre (1943-), Petri György (1943-2000)... (thứ hệ thứ năm, “làn sóng mới” của thời kỳ sau 1965); Eszterházy Péter (1950-), Szilágyi Ákos (1950-), Grendel Lajos (1948-)... (thế hệ thứ sáu, xuất hiện từ nửa cuối thập niên 70)... Cho đến những năm gần đây nhất, văn học Hungary vẫn có nhiều tài năng như Darvasi László (1962-), Márton László (1959-), Petőcz András (1959-)..., những cây bút mà theo đánh giá của giới phê bình, còn có thể gây nhiều đột phá và bất ngờ với giới thưởng ngoạn văn học.
Xét về tổng thể, nếu chia nền văn học Hungary sau 1945 thành những thể loại và những trào lưu, có thể thấy tính liên tục và kế thừa những thành tựu của thời gian trước đó.
Trong hơn 5 thập niên, thi ca vẫn chiếm ưu thế, các thành viên thuộc thế hệ thứ hai và ba của “Nyugat” đóng vai trò hàng đầu, với đặc trưng cho các tác phẩm của họ là tính khách quan theo trường phái kinh viện mới đặc thù. Đại diện nổi bật trong thi ca thời kỳ này là Weöres Sándor, nhưng cũng cần nhắc đến Nagy László và Juhász Ferenc, các thủ lĩnh xuất sắc nhất của thi ca tượng trưng - huyền ảo theo hướng dân tộc mới. Ngoài tính nghệ thuật cao, các tác phẩm của Németh László và Illyés Gyula theo xu hướng tân hiện thực còn được chú ý bởi những thông điệp ngầm ám chỉ các sự kiện chính trị. Đầu thập niên 70, các thi phẩm của Tandori Dezső (1938-) đưa ra một lối đi hoàn toàn mới: có thể coi nhà thơ là nhân vật trung tâm của xu hướng tân avant-garde Hungary, và về sau, ông cũng đã trở thành một tên tuổi lớn của thi ca hậu hiện đại nước này.
Trong thập niên 60, xu hướng nghịch dị (grotesque) rất phổ biến trong các nền văn học Đông Trung Âu. Tại Hungary, đại diện của trường phái đó là Örkény István (1912-1979) với tác phẩm mở đầu là vở kịch “Tóték” (Gia đình nhà Tót, 1964). Sau thời gian bị cấm đăng tải do tham gia biến cố 1956, Örkény được in sách trở lại năm 1964 và các tác phẩm lớn như “Macskajáték” (Trò mèo, truyện vừa, 1963), “Egyperces novellák” (Những truyện ngắn một phút, 1968) đều có tiếng vang trên thế giới. Điểm đặc biệt trong nhiều tác phẩm của Örkény là sự nghịch dị trào lộng - thậm chí phi lý - đã được đẩy đến mức đậm đặc.
So với thi ca và cả kịch nghệ, văn xuôi là thể loại được coi là “chín chậm” trong văn học Hungary, nhưng cũng đã đạt những thành tựu đáng kể từ thập niên 60 với các nỗ lực đổi mới của Déry Tibor, Ottlik Géza, Mészöly Miklós, Mándy Iván, Sarkadi Imre... Thành công nhất trong hai thập niên 70-80 trên địa hạt văn xuôi, đồng thời, được coi là những tác gia đương đại nổi tiếng nhất của Hungary trên trường quốc tế, là Nádas Péter và Esterházy Péter, với những tác phẩm đỉnh cao của trào lưu hậu hiện đại Hungary.
Cũng không thể bỏ qua nền văn học lưu vong Hungary, trải qua những làn sóng di tản lớn nhất của đất nước trong thế kỷ 20 (1948, 1956), với những tên tuổi tiêu biểu nhất như Márai Sándor, Cs. Szabó László (1905-1984), Faludy György (1910-2006), Határ Győző (1914-2006)... Theo một thống kê (3) do PGS. TS Vasy Géza đưa ra, thập niên 70 thế kỷ trước, có chừng 300 nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình văn học Hungary cư trú tại nước ngoài. Sau biến chuyển 1989, đa số đều hồi hương hoặc thường xuyên về thăm nhà, tham dự đời sống văn nghệ của Hungary. Cho dù trong một thời gian dài, các tác phẩm mới và cũ của các nhà văn di tản bị cấm đoán, tên tuổi của họ bị đưa vào quên lãng, nhưng dòng văn học di tản được coi là đã đóng vai trò quan trọng trong hơn bốn thập niên từ năm 1945, kể cả trên góc độ tự do tư tưởng, ý thức hệ lẫn giá trị nghệ thuật.
Một trong số họ, nhà văn Márai Sándor - người mà trong năm 2010, Hungary đã long trọng kỷ niệm 110 năm ngày sinh - , mặc dù không bao giờ có dịp trở lại quê hương, nhưng vẫn được đánh giá là một trong số các nhà văn lớn nhất của Hungary thế kỷ trước. Các tác phẩm lớn của ông như “A négy évszak” (Bốn mùa, 1938), “A gyertyák csonkig égnek” (Những ngọn nến cháy tàn, 1942), “Ég és föld” (Trời và đất, 1942)... (4) được in với lượng ấn bản lớn tại nước ngoài, trong số đó, nhiều đầu sách sau khi được “tái phát hiện” sau gần nửa thế kỷ ở Phương Tây, đã gây nên sự ngạc nhiên và khâm phục sâu sắc của độc giả và giới phê bình với văn tài của nhà văn.
Nền văn học Hungary sau 1945 còn được hỗ trợ bởi một đội ngũ phê bình cứng cáp, những nhóm nghiên cứu văn học uyên thâm, để lại nhiều tác phẩm nghiên cứu văn học sử, các bộ tự điển, bách khoa toàn thư đồ sộ mà trong số đó, phải nhắc đến các công trình lớn như “Magyar irodalmi lexikon” (Bách khoa toàn thư văn học Hungary), “A magyar nyelv értelmező szótára” (Tự điển giải nghĩa tiếng Hungary), “A magyar irodalom története a kezdetektől 1945-ig” (Lịch sử văn học Hungary từ thuở khởi đầu đến năm 1945), “A magyar irodalom története (1945-1975)” (Lịch sử văn học Hungary (1945-1975), “Új magyar irodalmi lexikon” (Bách khoa toàn thư mới văn học Hungary) và đặc biệt là bộ “Világirodalmi lexilkon” (Bách khoa toàn thư văn học thế giới) - được coi như bộ đại tự điển văn học đồ sộ nhất thế giới - gồm 19 tập, hơn 15 ngàn trang khổ lớn, được viết ròng rã trong vòng 30 năm (1966-1996) với sự tham gia của chừng 1.500 chuyên gia, đứng đầu là hai TBT Király István và Szerdahelyi István.
Trên cái nền ấy, việc một văn hào Hungary là Kertész Imre (1929-) được Giải Nobel Văn chương năm 2002 là không có gì khó hiểu, nhất là nếu chúng ta biết rằng trước ông, đã có không ít tác giả Hungary được đề cử cho giải thưởng cao quý này. Là người gốc Do Thái, trải qua những năm tháng kinh hoàng tại hai trại tập trung phát-xít Đức (Auschwitz và Buchenwald) khi mới 15 tuổi, suốt cuộc đời sáng tác, Kertész Imre chú tâm khai thác đề tài holocaust theo cách riêng của mình, và đạt được thành công lớn với tiểu thuyết “Sorstalanság” (1975) mà ông đã thai nghén ròng rã trong vòng 13 năm, giữa những điều kiện hết sức gian nan, cùng nhiều tác phẩm sau đó, đặc biệt là “Kaddis a meg nem született gyermekért” (1990). (5)
Lò thiêu người Đức quốc xã đã trở thành một trải nghiệm, một ấn tượng khắc sâu trong nhà văn, như ông chia sẻ ở tác phẩm “Gályanapló” (Nhật ký Gálya, 1992): “Tôi nghe mọi người bảo tôi đã chậm chân với “đề tài” này. Rằng nó không còn mang tính thời sự. Rằng lẽ ra tôi phải đề cập tới “đề tài” ấy sớm hơn nữa, ít nhất là từ 10 năm trước, v.v... Tuy nhiên, giờ đây tôi mới nhận ra rằng, tôi không quan tâm đến gì khác ngoài huyền thoại Auschwitz. Nếu viết tiểu thuyết mới, tôi lại suy tưởng đến Auschwitz. Dù suy ngẫm gì đi nữa, tôi cũng lại hướng về Auschwitz. Dù bề ngoài tôi có nói về điều gì khác hoàn toàn đi nữa, thì cũng vẫn là về Auschwitz.
Tôi là người chuyển giao tinh thần Auschwitz. Auschwitz phát ngôn trong tôi. Và chắc chắn, hoàn toàn chắc chắn là không chỉ vì những lý do cá nhân. Auschwitz và những gì có liên quan (nhưng giờ đây có lẽ cả những gì không liên quan?) là tấn thảm kịch lớn nhất của người châu Âu kể từ những cuộc thánh chiến, cho dù có lẽ cần nhiều thập kỷ hoặc thế kỷ để ý thức được điều đó. Còn nếu không, thì sao cũng được. Nhưng vậy thì viết làm gì? Cho ai?”.
Mang trong lòng quyết tâm phải khắc họa được thảm cảnh holocaust và Lò thiêu người Auschwitz - “sự thật cuối cùng về sự sa đọa của con người trong đời sống hiện đại” -, Kertész Imre đã làm nhiều hơn bất cứ cây bút nào khác để lên án sự phi nhân và nhục nhã của nhân loại và giải thưởng Nobel Văn chương giành cho “sự nghiệp ăn chương nói lên kinh nghiệm dễ tổn thương của cá nhân chống lại sự chuyên chế bạo tàn của lịch sử” (đánh giá của Ủy ban Giải thưởng Nobel) của nhà văn là hoàn toàn xứng đáng với ông, và với cả nền văn học Hungary, một quốc gia đã trải qua vô vàn khổ đau trong hai cuộc Thế chiến, bị cắt 2/3 đất đai và gần 2/3 dân số bởi Hòa ước Trianon (1920), nhưng đã làm tất cả để có được nền độc lập dân tộc, dân chủ và tự do trong những cuộc cách mạng ở nửa sau thế kỷ trước.
*
Là hai xứ sở xa nhau nửa vòng trái đất, nhưng đã có mối giao tình từ 60 năm nay, văn học Hungary không xa lạ tại Việt Nam và ngược lại, cho dù con số các tác phẩm được dịch của hai nền văn học chưa thật nhiều.
Bên cạnh đó, do vấn đề ngôn ngữ, văn học Hungary cũng gặp phải khó khăn khi truyền bá những tác phẩm lớn của mình ra nước ngoài, bởi lẽ “ngôn ngữ Hungary xa lạ với mọi ngôn ngữ khác, và nó tồn tại trong cảnh đơn lẻ không họ hàng đã một thiên niên kỷ nay bên lề những đại gia đình ngôn ngữ Châu Âu”, như diễn đạt của tác giả Bödők Zsigmond trong cuốn “Nobel díjas magyarok” (6). Cho dù, cũng như khẳng định của tác giả, “để dân tộc Hung trường tồn qua những thế kỷ máu lửa tới hôm nay, ngôn ngữ đóng một vai trò hết sức quan trọng, trong nhiều trường hợp và giai đoạn kéo dài nó là giá trị lưu truyền và chốn nương náu duy nhất của dân tộc”.
Cũng như tiếng Việt, tiếng Hungary - ngôn ngữ của chừng 15 triệu dân trên thế giới - cho dù là một thứ tiếng “có khả năng diễn tả một cách linh hoạt tuyệt vời, nhạy cảm, tinh tế, có vốn từ phong phú hiếm thấy, đồng thời cô đọng và nhịp điệu dồn dập” (vẫn theo Bödők Zsigmond), nhưng chỉ người Hungary mới biết rõ và cảm nhận được điều đó. Ấy thế mà, bằng bản lĩnh và tài năng của các nhà văn, bằng những nỗ lực phổ biến và truyền bá văn hóa của các cá nhân và nhà nước, văn học Hungary đã có một vị trí xứng đáng trong kho tàng văn học nhân loại, đã có những tác gia được vinh danh ở tầm thế giới - phải chăng, đó cũng là những kinh nghiệm và Việt Nam có thể chia sẻ, học hỏi?
Ghi chú (đối với các tác phẩm chưa được dịch ra tiếng Việt, các tựa đề sách chỉ mang tính tham khảo):
(1) “Bản hùng ca Các-pát”, Lê Xuân Giang dịch.
(2) “Hai mươi giờ”, Lê Xuân Giang dịch.
(3) “Các tác giả văn học Hungary sau năm 1945” (Az 1945 utáni magyar irodalom alkotói).
(4) “Những ngọn nến cháy tàn”; “Bốn mùa”; “Trời và đất”, Giáp Văn Chung dịch.
(5) “Không số phận” và “Kinh cầu hồn cho đứa trẻ không được ra đời”, Giáp Văn Chung dịch.
(6) “Những người Hungary đoạt giải Nobel”, Giáp Văn Chung dịch.
22-7-2010