Cả hai giai tầng trên đều hy vọng vào học vấn của mình. Các quý tộc-điền chủ cũ thì tin rằng học vấn tạo điều kiện cho họ giữ được địa vị, còn những người nông dân tự do thì tin rằng học vấn sẽ tạo điều kiện cho họ nâng cao được địa vị của mình. Nhưng đa phần đều buộc phải hòa tan vào đám đông các thông ngôn ký lục và tầng lớp quan chức cấp thấp chẳng có tí bản sắc nào. Dĩ nhiên là có cả các luật sư, bác sĩ, nhà văn, nhà khoa học, kỹ sư và nghệ sĩ nữa. Ở châu Âu những người như thế được gọi là người làm nghề tự do hay các nghệ sĩ hoặc văn nghệ sĩ. Ở đấy những nghề này xuất hiện là do nhu cầu của sự phát triển kinh tế và xã hội. Nước Nga thì lại khác, ở đây, những người thông thái, bị, một bên là sự lì lợm sắt đá của chính quyền độc đoán truyền thống và bên kia là sức ỳ cũng sắt đá không kém của xã hội Nga, chèn ép; thực chất là họ đã di cư vào “khu ngụ cư[1]dành riêng cho giới trí thức-sa lông”, rồi tự đặt cho mình biệt danh là tầng lớp trí thức [intelligentia].
Bản thân cái từ này đã thể hiện tham vọng độc quyền tri thức của những người sống trong khu định cư này rồi, chính quyền chưa bao giờ hạ cố bài bác cái tham vọng đó. Trên thực tế, chẳng cần phải đối xử một cách nghiêm túc với những người mà khi ở trong khuôn viên “câu lạc bộ những người cùng cánh” thì gây náo động bầu không khí bằng những lời chỉ trích gay gắt cái chính phủ phi nhân tính hoặc là say sưa thảo luận những phương án “cải tạo xã hội” đầy lý tưởng khác nhau, nhưng trong cuộc sống hàng ngày thì thực ra lại chỉ là những kẻ đã khuất phục hoàn toàn. Dĩ nhiên là có một vài ngoại lệ. Một số trí thức Nga đã thực hiện được những kỳ tích. Người thì tham gia ám sát các nhà độc tài và phải lên đoạn đầu đài, người thì “đi vào quần chúng”, hy vọng làm gương cho quần chúng trong việc thực hành vệ sinh và đòi hỏi các quyền tự do công dân. Dù rất kính trọng sự hy sinh của họ, phải nói rằng thành tích của những người trí thức đó đã là những hành động vô nghĩa a priori[2], chẳng khác gì ý định dùng mấy hòn đá đề giết khủng long hoặc là dạy nó nghệ thuật cưỡi ngựa vậy. Chính điều đó đã tố cáo sự kém cỏi trong việc đánh giá cái xã hội mà họ đang sống, sự kém cỏi này còn được gia cố bởi lòng tự tin không ai có quyền bác bỏ nữa.
Chính những người trí thức Nga, với cái khát vọng “đánh bùn sang ao” mang tính di truyền của họ, vào năm 1917 đã chuyển giao một cách vụng về nhất chính quyền vào tay một nhóm những kẻ cuồng tín-phiêu lưu, những người có ưu điểm vượt trội duy nhất là nắm được những bản năng sơ đẳng nhất của quần chúng Nga, khối quần chúng này đã vui vẻ hưởng ứng khẩu hiệu: “Cướp lại những thứ đã bị cướp”. Sau đó giới trí thức Nga lại một lần nữa khẳng định rằng sự dốt nát về các vấn đề chính trị-xã hội cùng với chủ nghĩa tối đa [maximalism] và thái độ khuất phục là những đặc trưng mang tính di truyền của họ. Những người trí thức lưu vong khỏi nước Nga đã trở thành các đồ đệ hung hăng nhất của chế độ chuyên chế, những người ở lại thì đã trở thành người ủng hộ cộng sản nhiệt tình nhất, họ tự động thuyết phục mình rằng tầng lớp trí thức Nga đã đấu tranh cho chính quyền Xô-viết trong suốt cả giai đoạn tồn tại của mình.
Đến lượt mình, chính quyền Xô-viết đã biến khái niệm “tầng lớp trí thức” trở thành phi lý, khi chia nó ra thành “công nhân trí thức”, “trí thức khoa học”, “trí thức sáng tạo”, “trí thức nông trang”, thậm chí có cả “trí thức nhân dân” nữa. Thật là tức cuời rằng chính dưới chế độ cộng sản, lần đầu tiên tầng lớp trí thức có một chức năng xã hội, dù chỉ trên danh nghĩa, tức là trở thành một giai tầng nằm giữa công nhân và nông dân. Trong những điều kiện như thế, truyền thống tự do tư tưởng trong các phòng khách được chuyển vào gian bếp của giới trí thức văn nghệ sĩ. Trong bếp, người ta thì thầm với nhau những tư tưởng bạo loạn trong tiếng ồn ào của những vòi nước được mở hết cỡ, theo ý của những người có tư tưởng bạo loạn thì đấy chính là biện pháp bảo vệ an toàn nhất. Chủ nghĩa tối đa về mặt đạo đức đã không cho phép họ nghĩ rằng trong số những người trí thức đang đàm đạo với mình đó không có một tên chỉ điểm nào. Song le, gần như một trăm phần trăm đều là những kẻ hai mang như thế cả.
Dĩ nhiên là cũng có ngoại lệ. Hàng chục người bất đồng chính kiến đã đứng lên công khai phản đối, nhưng đằng sau các vụ phản đối đó, cũng giống như dưới thời Sa hoàng, chẳng có gì ngoài lòng dũng cảm xuất chúng và khao khát tự khẳng định vô bờ bến của chính các tác giả của chúng. Những người trí thức còn lại cảm thấy hài lòng khi nhắc lại với một tinh thần tận tuỵ lời kêu gọi chân thành và ngây thơ của Bulat Okudzhva: “Cùng nắm tay nhau, bạn ơi, để không gục ngã từng người”. Hoặc là hài lòng với hy vọng mờ nhạt như chính thế giới quan của họ, cái hy vọng được thể hiện trong một bài hát thời đó: “Một lúc nào đó chúng ta sẽ trở lại đâu đó”. Sau khi chế độ toàn trị ở nước Nga sụp đổ, ý thức điều độ đã phản bội lại giới trí thức Nga, họ là những người thực sự nghĩ rằng tư tưởng bất tuân của mình đã dẫn đến sự sụp đổ của chế độ. Đấy chính là chất xúc tác làm cho nó biến mất khỏi đời sống của nước Nga.
Không có một tí khái niệm nào về bản chất của dân chủ, trí thức Nga là những người đầu tiên cảm thấy thất vọng vì họ cũng là những người đầu tiên hiểu rằng dân chủ đòi hỏi, trước hết, những nỗ lực kiên trì và lâu dài của toàn xã hội và trách nhiệm của từng cá nhân. Vì vậy, ngay sau khi chính quyền phát ra tín hiệu là họ lập tức cảm thấy như trút được gáng nặng và đồng loạt chạy về phía mà mới cách đây chưa lâu còn bị coi là kẻ thù không đội trời chung của họ. Nhưng dù sao cũng phải công nhận rằng đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga, chính phủ, tức là kẻ thù của giới trí thức đã trả thù lao hào phóng cho những cựu trí thức vì họ đã từ bỏ vai trò chẳng mang lại lợi lộc gì và đã làm họ chán ngấy từ lâu. Vâng, xin hãy quên đi. Giới trí thức Nga đã chết rồi. Dĩ nhiên là những “cựu” trí thức vẫn có những gian bếp như xưa, thường là rất sang nữa, và sa lông cũng sang trọng không kém. Nhưng người ta không còn bàn về tự do và khai minh cho nhân dân nữa, mà thường nói về món paté gan ngỗng và những kỳ nghỉ ở trên những bãi tắm ở Ba-ha-mát hơn.
Bài đăng trên tờ Geopolitika của Latvia,
ra ngày 1 tháng 9 năm 2008
Boris Tumanovlà nhà báo chuyên về các vấn đề quốc tế. Ông từng là phóng viên của tờ Tin tức và Hãng thông tấn TASS ở các nước nói tiếng Pháp thuộc châu Phi xích đạo và Tây Phi, từng làm biên tập viên tờ Thời mới. Hiện là phóng viên tờ La Libre Belgique của Bỉ ở Moskva, cộng tác với tờ Gazeta Wyborcza của Ba Lan và với Radio France Internationale và France Culture của Pháp.
________________________
Chú thích:
[1]Nguyên văn: ghetto (ND).
[2] Ngay từ đầu (tiếng Latin - ND).