Những góc nhìn Văn hoá

Một tự sự khác về sự chuyển mình tới cái hiện đại Tây hoá ở Việt Nam đầu thế kỉ XX

Khi tôi bắt đầu học về Việt Nam, tôi được dạy cho một “tự sự” nhất định về quá khứ Việt Nam. Tự sự đó cho rằng ở đầu thế kỉ XX, Phan Bội Châu dẫn các học sinh sang Nhật để nghiên cứu các vấn đề “hiện đại” trong một phong trào được gọi là “Đông Du” (đi sang phương Đông).

Dự án đó không kéo dài, khi người Pháp gây áp lực lên người Nhật để trục xuất các du học sinh Việt Nam ra khởi nước Nhật, nhưng một số trong đó được cho là đã trở về Hà Nội nơi họ tham gia vào một ngôi trường tồn tại rất ngắn ngủi là Đông Kinh Nghĩa Thục, thường được dịch sang tiếng Anh là “Trường Tự do Đông Kinh” (“Đông Kinh Free School.”).

Trường này được ca ngợi trong diễn ngôn về lịch sử Việt Nam mà tôi học như là một nơi các vấn đề hiện đại, như những gì các du học sinh trong phong trào Đông Du đã được học ở Nhật Bản, được giảng dạy, và đặc biệt nó được ca ngợi vì đã cổ vũ việc sử dụng mẫu tự Latinh để viết tiếng Việt, tức là chữ quốc ngữ.

Đi kèm với nhau, phong trào Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục được tái hiện trong tự sự về lịch sử Việt Nam mà tôi được học như là những bước đi có tính phê phán hướng tới việc cải cách Việt Nam từ mộg xã hội “truyền thống” sang một xã hội “hiện đại”, và như là những bước đi tiên phong trong khuynh hướng chống thực dân.

Gần đây tôi đã có mặt ở một hội thảo nơi một học giả Hàn Quốc đã trình bày một tham luận thú vị về “những gì thực sự xảy ra ở Nhật Bản” trong suốt giai đoạn của phong trào Đông Du. Điều mà học giả này tìm thấy trong khi khảo sát các trước tác tiếng Nhật/ của người Nhật là phong trào Đông Du được tổ chức hết sức thảm hại, nhiều du học sinh quá trẻ (thậm chí mới ở độ tuổi tiểu học), một số trong đó đã thất bại trong việc đăng kí vào trường, họ đánh lộn lẫn nhau, họ không tương tác gì với người Nhật, và họ chẳng học hành gì nhiều cả.

Kết luận của học giả này theo đó là: phong trào Đông Du về cơ bản đã thất bại (nếu như mục tiêu của nó là học tri thức “hiện đại”), khi mà hầu hết các du học sinh có vẻ như học hành rất ít khi ở Nhật Bản.

Với tất cả điều đó với tư cách là bối cảnh, hôm nay tôi nhận ra điều thú vị khi tìm được giữa các tư liệu Hán Nôm mà Thư viện Quốc gia Việt Nam đã số hoá một văn bản bằng chữ Hán có tên là Ấu học phổ thông thuyết ước (幼學普通說約). Đây là một cuốn sách giáo khoa cho trẻ em được soạn bởi một học giả kiêm quan chức triều Nguyên tên là vào năm 1908 (Ghi chép của thư viện quốc gia là “維新戊申1888”. Điều đó không chính xác. “維新戊申là năm 1908).

Văn bản này là một dịch bản chữ Hán của một văn bản quốc ngữ có tên. Tại sao một văn bản quốc ngữ lại được dịch sang chữ Hán năm 1908, cái năm mà Đông Kinh Nghĩa thục theo hướng hiện đại hoá bị đóng cửa?

Phạm Quang Sán viết một số lời bình luận có tính giới thiệu cho văn bản này trong đó ông khẳng định rằng mặc dù một thời đại học thuật mới đã hé rạng, nhiều người vẫn theo những lối cũ. Phạm Quang Sán khẳng định rằng điều này có vẻ như do một sự thực là người ta đã hoạt động trong thế giới văn bản Hán hàng nghìn năm, và rằng những bài học từ thế giới văn bản đó đã “được in sâu vào đầu óc của quốc dân” (ấn ư quốc dân chi não trung 印於國民之腦中).

Nhiều người vẫn không biết chữ quốc ngữ và sự thiếu hiểu biết đó, theo Phạm Quang Sán, là một trở ngại trên đường hướng tới sự tiến bộ.

Tuy nhiên, điều thú vị là thay bằng việc buộc mọi người “hiện đại hoá” bằng cách học chữ quốc ngữ, Phạm Quang Sán lại tạo ra phiên bản Hán của cuốn Ấu học quốc ngữ tân thư này để nhiều người không biết chữ quốc ngữ có thể tiếp cận được với những ý tưởng trong văn bản này.

Vậy cuốn Ấu học quốc ngữ tân thư chính xác là sách gì? Tôi không chắc, nhưng khi tìm kiếm nó trong danh mục của Thư viện Quốc gia Việt Nam tôi thấy rằng nó được xuất bản bởi một nhà xuất bản Pháp.

Khi xem xét phiên bản Hán văn bản này của Phạm Quang Sán, rõ ràng nó giới thiệu nhiều tư tưởng mới từ phương Tây. Chẳng hạn, trang trên đây nói về 3 bước tiến hoá mà loài người đã trải qua – dã man, bán-khai sáng và văn minh – và 4 tôn giáo chính của thế giời – Đạo Phật, Đạo Hồi, Đạo Do Thái và Đạo Thiên Chúa.

Đây là những tư tưởng mới triệt để. Và chúng được giới thiêu trong cuốn sách này không phải bằng một “nhà cách mạng” như Phan Bội Châu mà bởi một thành viên của “giới đương quyền”.

Đây là chỗ mà tự sự tôi học lúc ban đầu về lịch sử Việt Nam đã thất bại trong việc lí giải quá khứ. Có những sự thay đổi lớn lao đã bắt đầu xảy ra ở đầu thế kỉ XX tại Việt Nam. Tuy nhiên, những thay đổi đó không được khơi dậy bởi Phan Bội Châu, phong trào Đông Du hay Đông Kinh Nghĩa Thục. Thay vào đó, chúng được khơi dậy bằng chữ Hán bởi những quan chức hiện đại hoá của nhà Nguyễn. Đó là một câu chuyện mà, trong phạm vi tôi biết, chưa bao giờ được kể, và là câu chuyện mà tự sự hiện tồn không tính đến.

Điều này dĩ nhiên không có nghĩa là một người như Phan Bội Châu không phải là một nhân vật quan trọng hay anh hùng. Hầu như chắc chắn ông vừa anh hùng vừa quan trọng. Nhưng ông đã không làm thay đổi thế giới quan của người Việt Nam. Quá trình đó được khơi dậy bởi những người khác, những người chưa được chúng ta nhận thức đầy đủ về những thành tựu của họ.

Nguồn: http://leminhkhai.wordpress.com/2013/11/17/an-alternative-narrative-of-the-transition-to-westernized-modernity-in-early-twentieth-century-vietnam/

Bonus:

Kuching:

Khá thú vị. Cảm ơn ông! Tôi có một ít câu hỏi cho ông:

1. Ông có biết các du học sinh tham gia phong trào Đông Du có bất kỳ sự chuẩn bị về tiếng Nhật và về việc nghiên cứu của họ ở Nhật trước khi họ được gửi sang đó hay không?

2. Ông có nghĩ có lẽ có những nhà cung cấp giáo dục ở Nhật đưa ra những khoá học bằng tiếng Trung cho những du học sinh Việt Nam, mặc định rằng các học sinh đó biết tiếng Trung, hay không?

3. Ông có biết tí nào về một số người Việt Nam đã và đang sống ở Nhật Bản lúc bấy giờ đã giúp các học sinh đó bằng sự dàn xếp của họ ở Nhật hay không? Còn ai nữa họ có thể dựa vào trong khi sống ở Nhật?

Cảm ơn ông!

Leminhkhai:

Câu hỏi hay! Tôi dành thời gian xem lại bài viết đó một lần nữa và đây là điều tôi có thể nói:

Không có người Việt Nam nào ở Nhật Bản từ trước. Phan Bội Châu là người đã tổ chức mọi thứ, nhưng ông đã làm không tốt, và rồi một ngày, một “nhà cung cấp giáo dục” người Nhật, như bạn nói, phải can thiệp vào và giúp tháo gỡ.

Và vâng, nhà cung cấp giáo dục đó chính xác là cái mà bạn đã hoài nghi, nó được tập trung vào Trung Quốc/ Trung Hoa. Nó được gọi là Đông Á Đồng văn thư viện. Thông tin dưới đây lấy từ trang Wikipedia về Hoàng tử Konoe Atsumaro giải thích nó là cái gì ((http://en.wikipedia.org/wiki/Konoe_Atsumaro):

“Ông thiết lập một khuynh hướng chính trị Pan-Asian gọi là Đông Á Đồng Văn hội (東亜同文会Toa Dobunkai?), nơi cổ xuý cho sự hiểu biết lẫn nhau và sự tiến bộ trong các mối quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc sau chiến tranh Trung Nhật lần thứ nhất. Hiệp hội mở một trường cao đẳng ở Nam Kinh gọi là Đông Á Đồng văn thư viện (東亜同文書院Toa Dobun Shoin) vào năm 1900, trường được chuyển đến Thượng Hải năm 1901. Ngôi trường tuyển mộ các sinh viên từ Nhật Bản có mong muốn học tiếng Trung và văn hoá Trung Quốc, và đỡ đầu cho một trường ở Tokyo dành cho các sinh viên Trung Quốc đang cố gắng học cao hơn ở Nhật”.

Tức là, du học sinh Việt Nam không học cùng với các sinh viên khác ở ngôi trường này. Thay vào đó, những lớp học đặc biệt được lập ra dành cho họ, và họ sống riêng biệt (và họ ít hay nhiều bị ‘quản chế’ trong phòng ở của họ – vì vậy họ có vẻ như không được nhìn thấy nhiều ở Tokyo). Có lẽ những có một số bài học bằng tiếng Nhật, nhưng khi mà đây là một trường “chuyên về Trung Quốc”, tôi nghĩ tiếng Trung là ngôn ngữ quan trọng hơn cho việc học hỏi các thông tin mới.

Về việc học tiếng Nhật trước khi họ đến đó, tôi chưa nghe bao giờ. Rõ ràng một số đã cố gắng học tập sau khi họ đến đó, song không có ai tỏ ra đã tiến xa trong việc học tập ngôn ngữ đó.

Phạm Hoàng Quân:

Trao đổi với Le Minh Khai
về một góc nhìn đối với phong trào Đông Du.

Vấn đề Le Minh Khai nêu ra trên đây khiến tôi nghĩ đến 2 việc, một là thành quả thực sự của phong trào Đông Du, và hai là các nhân tố/ thành phần tham dự vào công cuộc cải cách xã hội Việt Nam và tinh thần của giới trí thức người Việt hồi đầu thế kỷ XX. Ở đây chỉ trao đổi mấy ý về vấn đề thứ nhất.
Tôi chưa được đọc bài viết của vị học giả Hàn Quốc mà Le Minh Khai nói đến, nhưng tôi có thể nhận định rằng: uy tín học thuật của người viết và độ tin cậy của các nguồn tài liệu cho dù ở mức cao nhất thì nó vẫn chỉ phản ánh một mặt nào đó, hoặc có thể nhiều mặt của một sự kiện lịch sử. Sự kiện ở đây là phong trào Đông Du, thực tế thảm hại của nó qua kết quả nghiên cứu tư liệu Nhật Bản của vị học giả Hàn Quốc ấy có thể đúng, nhưng không hẳn đúng hoàn toàn.
Đối với người Việt Nam, sử gia của cả hai phe đối chọi nhau về tư tưởng chính trị đều có cảm tình đặc biệt với Phan Bội Châu và xem phong trào Đông Du mà ông khởi xướng như là một bước ngoặt quan trọng cho sự chuyển biến cũ sang mới. Vì vậy, vấn đề mà Le Minh Khai nêu ra thật là shock!
Nhưng vấn đề này đối với tôi lại thật hấp dẫn, không phải vì tính nhạy cảm mà vì nó đã gợi nhớ lại một suy nghĩ của tôi trước đây. Tám năm trước, khi làm thư mục phần chữ Hán tạp chí Nam Phong, đối diện với những danh mục dày dặn các bài nghiên cứu của Lê Dư và Nguyễn Bá Trác tôi nghĩ rằng họ- những nhà nho cựu học- có thể phải được xếp kế Phạm Quỳnh, trong lĩnh vực xông vào nền học thuật mới.
Sở Cuồng Lê Dư và Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác là nhân vật Đông Du, tôi phải dùng từ “nhân vật Đông Du” hoặc “người Đông Du” để phân biệt với “phong trào Đông Du”. Lịch sử Việt Nam viết về “phong trào Đông Du” bi tráng nhưng thật tròn trịa, thành ra những người góc cạnh có lẽ nên đặt một chiếu riêng. Trong những người Đông Du, nói về lý lịch khoa học thì hai người này (Lê và Nguyễn) có lẽ được xếp trước Phan Bội Châu. Viết đến đây, để bớt đi phiền nhiễu buộc tôi phải copy ý của Le Minh Khai: “Điều này dĩ nhiên không có nghĩa là một người như Phan Bội Châu không phải là một nhân vật quan trọng hay anh hùng”.
Theo ghi chép của Phan trong Phan Bội Châu niên biểu thì Lê và Nguyễn là 2 nhân vật “có vấn đề” đối với phong trào. Nhưng về phương diện học thuật, qua những công trình nghiên cứu về lịch sử, văn học và giáo dục cụ thể, tôi thấy họ đã bước đầu tiếp cận được với phương pháp và tác phong nghiên cứu của giới học thuật Nhật Bản. Đây là một ý tưởng mà có lẽ tôi phải phát triển nó theo chiều hướng hứng thú trong những ngày mát mẻ nào đó, tuy nhiên không phải làm việc này để biện minh cho kết luận: “họ không tương tác gì với người Nhật, và họ chẳng học hành gì nhiều cả.”.
Cho dù đúng hay sai, đúng nhiều hay đúng ít, vấn đề mà Le Minh Khai đặt ra lớn đến độ các sử gia chính thống ở Việt Nam phải xem lại chất lượng và nội dung thu hoạch được qua các kỳ hội thảo Việt Nam học, có phải nên bớt dần đi các tham luận mang tính “giao hữu” và tăng dần thêm các nghiên cứu gây sốc giống như của vị học giả Hàn Quốc nói trên. Việc những thanh niên trong phong trào Đông Du đánh lộn nhau ở Nhật cũng mang mùi vị cay đắng không kém gì việc một số thành viên đoàn ngoại giao Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vừa đến Pháp đã vội vã tách đoàn đi thăm bà con thay vì phải dự họp nội bộ để thống nhất chương trình làm việc (ngày 13/6/1946, theo Hồi ký của Phạm Khắc Hoè). Từ Đông Du đầu thế kỷ XX đến năm 1946, tính vô tổ chức và việc xem trọng quốc quyền quốc thể của một số người Việt tinh hoa hình như chưa có dấu hiệu thay đổi.
22- 11- 2013
Phạm Hoàng Quân

Lê Minh Khải:

Cảm ơn bạn Phạm Hoàng Quân đã viết comment này. Khi tôi viết ở trên blog thì có thường viết một chút cực đoan để “giúp” đọc gia suy nghĩ. Tôi tất nhiên không nghĩ rằng “họ chẳng học hành gì nhiều cả,” nhưng tôi nghĩ rằng chắc là có những người là như vậy.

Nhưng việc thứ 2 – vấn các nhân tố/ thành phần tham dự vào công cuộc cải cách xã hội Việt Nam và tinh thần của giới trí thức người Việt hồi đầu thế kỷ XX – là rất quan trọng.

Ở đầu thế kỷ XX vẫn còn nhiều trường sử dụng sách giáo khoa tiếng Hán, và người Pháp đã thay đổi chương trình giảng dạy và giới thiệu sách giáo khoa mới như Việt sử tân ước toàn biên, Nam quốc địa dư giáo khoa thư và Trung học Việt sử toát yếu.

Như vậy dưới quản trị của người Pháp có kha nhiều ý tưởng mới vào xã hội bằng tài liệu văn bản đã được viết bằng tiếng Hán và đã sử dụng ơ trường. Nhưng đây là một vấn đề mà học giả chưa nghiên cứu nhiều.

Người dịch: Hoa Quốc Văn

Nguồn: tiengvongkatigara/http://leminhkhai.wordpress.com/2013/11/17/an-alternative-narrative-of-the-transition-to-westernized-modernity-in-early-twentieth-century-vietnam/#comment-6655

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114576522

Hôm nay

220

Hôm qua

2306

Tuần này

21835

Tháng này

223579

Tháng qua

130677

Tất cả

114576522