Trong số những cuốn sách đứng tên Phong Lê ra đời vào những năm đầu thế kỷ XXI, cuốn Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại (thế kỷ XX) mang một ý nghĩa đặc biệt với chính tác giả của nó. Với ông, đây là công trình “thâu tóm những tri thức cần thiết về một thế kỷ văn học Việt Nam hiện đại, là đối tượng tôi (Phong Lê - BT) luôn muốn áp cận với nó ở tư cách người phê bình, lại vừa tranh thủ những độ lùi nhất định để nhìn nó với con mắt lịch sử” (Lời đầu sách, trang 9). Hơn nửa thế kỷ chuyên tâm nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại ở Viện Văn học - một môi trường khoa học thuần khiết, nơi hội tụ một đội ngũ những người xác định đi đến cùng với công việc nghiên cứu văn học đầy hứng thú và không kém nhọc nhằn đã khiến Phong Lê yên tâm bám trụ trong ngôi nhà chung 20 Lý Thái Tổ Hà Nội. Tại đây, với quan niệm và cách thức tiếp cận đối tượng nghiên cứu của riêng mình, ông ý thức gắn công việc nghiên cứu với ba thao thác cơ bản: Đọc - Viết – Nói trong suốt hành trình nghề nghiệp. Ở thao tác nào, Phong Lê cũng hết sức tự tin bởi việc đọc, viết và giảng dạy đã trở thành thói quen thường nhật nơi ông. Hơn nữa, là nhà nghiên cứu văn học hiện đại, Phong Lê luôn có mặt, luôn tham dự vào đời sống văn học với cách hiện diện của riêng mình. Lịch sử văn học Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỷ XX cho đến nay dường như luôn “sống” trong ông, khiến tư duy nghiên cứu của Phong Lê luôn ở thế động. Động trong suy nghĩ và trong cách lập ngôn. Không phải ngẫu nhiên ông được mệnh danh là “người đang viết”. Một thế kỷ văn học với bao biến động của nó luôn thôi thúc Phong Lê vừa đúc kết vừa nghĩ tiếp. Và Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại (thế kỷXX) là “một trong số ít cuốn sách quan trọng nhất”, chỉ có thể ra đời sau hơn năm mươi năm viết và sau hơn 20 tập tiểu luận và chuyên khảo trước đó của ông. Đến đây, Phong Lê mới có dịp triển khai và thực hiện một công trình mong đạt được “một cái nhìn xuyên suốt thế kỷ XX, với đường dây gắn nối hai đầu thế kỷ là Canh tân và Đổi mới”.
Công trình được cấu trúc thành 5 chương. Chương 1: Tổng luận gồm 7 mục. Chương 2: Thơ gồm 6 mục. Chương 3: Văn xuôi gồm 4 mục. Chương 4: Lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học gồm 5 mục và Chương 5: Phụ lục, gồm 3 mục.
Chương 1 Tổng luận gồm 107 trang, đề cập những vấn đề chung trước khi đi vào 3 loại hình cơ bản của công trình, đó là: Hiện đại hoá văn học Việt Nam trong đối sánh khu vực Đông Á; Chữ viết trong lịch sử văn học dân tộc; Thơ và văn xuôi trong chuyển động từ trung đại đến hiện đại; Tính chuyên nghiệp của nghề văn; Khởi động và phân kỳ một thể kỷ văn học; Ảnh hưởng của văn học Pháp và văn học phương Tây đối với văn học Việt Nam từ nửa sau thể kỷ XIX đến 1945; Mối quan hệ giữa văn học Nga – Xô Viết và văn học Việt Nam trước và sau 1945. Có thể nói, những vấn đề chung như là cơ sở vững vàng cho một công trình nghiên cứu bao quát toàn bộ lịch sử văn học nước nhà thế kỷ XX. Bằng cách nhìn nhận khách quan, công tâm và nghiêm túc, Phong Lê đã phác dựng bối cảnh và yêu cầu hiện đại hoá như một vấn đề chung cho khu vực Đông Á gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam với những tương đồng và khác biệt của mỗi quốc gia. Trong đó, Việt Nam tự xác định một con đường riêng với những thách thức của lịch sử buộc phải gắn hiện đại hoá với cách mạng hoá diễn ra trong cả thế kỷ XX. Đó là một nền văn học trước sau luôn gắn bó với vận mệnh của dân tộc. Chỉ cần nhìn vào những vấn đề đặt ra ở Chương 1 cũng có thể nhận thấy đây là một thế kỷ văn học đầy cốt cách và bản lĩnh. Trong sự chuyển mình dữ dội, với nhiều gian nan, thử thách của dân tộc ở thế kỷ này, văn học đã đảm đương phần việc của nó như một trọng trách: “Lịch sử đã khéo sắp xếp cho thế kỷ XX nhiệm vụ giải quyết triệt để yêu cầu cách mạng hoá, nhằm giành lại Độc lập - Tự do trọn vẹn cho dân tộc; đồng thời cũng đặt ra nhiệm vụ giải quyết yêu cầu hiện đại hoá để hướng dân tộc hội nhập một cách chủ động vào văn minh nhân loại, và từng bước thực hiện các mục tiêu công bằng, dân chủ, văn minh và tiến bộ xã hội” (tr 539). Với những vấn đề đặt ra trong phần Tổng luận, tác giả công trình đã làm rõ sự lớn mạnh của văn học nước nhà ở thế kỷ XX là một bước phát triển mang tính đột biến. Sức mạnh của văn học, những đóng góp mới mẻ của nó góp phần vào đời sống sôi động của dân tộc qua các thời kỳ đã là thành tựu của một sự nghiệp lớn, một sự nghiệp mang ý nghĩa khai mở và ngày một trưởng thành trên tiến trình lịch sử nước nhà.
Sau phần Tổng luận, ở Chương 2, công trình dành cho thể loại thơ (96 trang), được chia thành 6 mục: Thơ canh tân và thơ cách mạng; Thơ cũ và thơ mới; Thơ trong bước chuyển lịch sử tháng Tám – 1945; Thơ thời chống Pháp; Thơ thời chống Mỹ; Thơ thời đổi mới. Một hành trình thơ Việt Nam thế kỷ XX được tái hiện theo các giai đoạn tương ứng với những bước chuyển của lịch sử. Công trình đã cho thấy cùng với hai cuộc khai thác thuộc địa và sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930, trào lưu thơ chủ trương canh tân của các nhà Nho chí sĩ xuất hiện trong những năm đầu thế kỷ XX đã chuyển sang trào lưu thơ cách mạng trong thập niên 30 với hai tác giả tiêu biểu là Hồ Chí Minh và Tố Hữu. Bên cạnh yêu cầu cách mạng hoá, đưa trào lưu thơ canh tân sang thơ cách mạng thì yêu cầu hiện đại hoá lại được thực thi một cách triệt để và ngoạn mục trong phong trào Thơ mới 1930 – 1945 với những tên tuổi tiêu biểu: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử… để tạo nên “một thời đại trong thơ ca” (Hoài Thanh). Tác giả đã có cái nhìn bao quát về thơ từ Cách mạng tháng Tám – 1945 đến công cuộc đổi mới. Ở mỗi chặng đường thơ, tác giả đều nhấn mạnh đến sự chuyển đổi về cảm hứng và bút pháp, về nội dung và phương thức thể hiện, thấy được những thành tựu cũng như những giới hạn mà thơ cần vượt qua để hoà nhập vào bối cảnh mới, đáp ứng thị hiếu của độc giả hiện thời.
Đến với địa hạt văn xuôi trong Chương 3 (131 trang), tác giả công trình đã tỏ rõ thế mạnh và sở trường trong việc nắm bắt thực tiễn sáng tác qua từng giai đoạn, làm rõ các vấn đề cần tổng kết với ý thức nhìn nhận lại, đánh giá lại những hiện tượng tác giả, tác phẩm tưởng đã bị bao bọc bởi lớp bụi thời gian; không chỉ thế, còn tiếp xúc cận cảnh với những tác phẩm, tác giả đương đại đang nóng hổi tính thời sự. Bốn chuyên luận về văn xuôi của công trình dồn nén một trữ lượng thông tin đáng tin cậy, vừa có tư chất học thuật, vừa có giá trị văn học sử, bộc lộ chính kiến cá nhân, với cách lập ngôn mang đậm “made in Phong Lê” quả quyết mà không quá đà, xác tín, chừng mực mà vẫn nồng nhiệt, uyển chuyển. Những chuyên luận này cho thấy cách tiếp cận toàn cảnh lịch sử, làm sáng tỏ giá trị văn xuôi hiện đại. Và đặc biệt người viết luôn nhấn mạnh đến “gia tốc lịch sử” của quá trình hiện đại hóa văn học thế kỷ XX. Theo tác giả, hành trình văn xuôi hiện đại khởi động từ cuối thế kỷ XIX với những áng văn Quốc ngữ đầu tiên của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản. Song phải đến đầu thế kỷ XX, trong phong trào báo chí xuất bản, với vai trò quan trọng của hai tờ Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạpchí thì văn xuôi mới có những chuyển động quyết định đưa đến sự dồn tụ của các cây bút trong một phòng chờ lớn là Hà Nội vào những năm hai mươi, với những người khởi nguồn cho hai trào lưu lãng mạn và hiện thực: Tản Đà, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hoàng Ngọc Phách... Thời kỳ 1932-1945 là thời kỳ hoàn thiện diện mạo hiện đại của văn học trên cả ba khuynh hướng lãng mạn, hiện thực và cách mạng; với những gương mặt nổi bật cùng những tác phẩm kết tinh ở trình độ cao các giá trị hiện đại trên cả hai phương diện tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan, Khái Hưng, Ngô Tất Tố, Nhất Linh, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Tô Hoài… Từ sau năm 1945, văn xuôi chuyển vào quỹ đạo hai cuộc kháng chiến trên cơ sở nền tảng đã được xây cất từ trước năm 1945, lấy nội dung yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng làm đối tượng miêu tả, nhằm đáp ứng yêu cầu “dân tộc, khoa học, đại chúng” và trong khí hậu hiện thực xã hội chủ nghĩa. Những người cầm bút đã tự nguyện trở thành những nhà văn chiến sĩ, chọn văn chương làm vũ khí. Một số cây bút thuộc thế hệ chống Pháp, chống Mỹ đã tình nguyện có mặt tại chiến trường, bằng những trang viết “tại chỗ” đã thực hiện chức trách người thư ký trung thành của thời đại như Nam Cao, Trần Đăng… trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất, đến Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Phan Tứ, Nguyễn Trọng Oánh… trong cuộc kháng chiến lần thứ hai. Giai đoạn văn học đổi mới đã ghi nhận bước chuyển của văn xuôi khi bước vào quỹ đạo của thời bình. Các nhà văn thuộc thế hệ mới nối tiếp những “người tiền trạm” như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu,…là Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Nguyễn Trí Huân, Chu Lai… Trong bối cảnh mới của thời cuộc, văn xuôi bước vào thời kỳ hội nhập với sự tiếp nối của những “làn sóng trẻ” thuộc thế hệ 7X đến 9X mang trong mình những nung nấu đổi mới, cách tân lối viết theo hướng hiện đại. Phần lớn những tác giả trẻ vẫn còn trong quá trình thử nghiệm hoặc rụt rè hoặc đầy tự tin mà việc đánh giá thường khó tìm được sự nhất trí trong tiếp nhận của bạn đọc. Hơn bao giờ hết, với thâm niên nghề nghiệp và tuổi tác, nhà nghiên cứu Phong Lê thấu hiểu: “Sự sống quả là vô cùng. Là không có sự phản ánh nào trong văn học đi được hết đường biên của nó. Sự sống là những nghịch lý, bởi nó tồn tại trong nghịch lý. Sự sống không hiếm những điều phi lý, bởi ta đã sống trong niềm tin tuyệt đối vào cái hợp lý đã lâu. Sự sống không có mở đầu và kết thúc, mà là vô thủy, vô chung. Sự sống mang tính triết học, bởi nó đòi hỏi mãi mãi những khai phá, khám phá. Sự sống dường như ngày càng khó hiểu hơn bởi cái không biết là quá lớn, bên cái biết chỉ là có hạn... Và do thế, văn học phải có rất nhiều những phương thức cho sự thể hiện” (trang 328). Tuy nhiên trong quá trình thâm nhập thực tiễn sáng tác văn xuôi, với những tác phẩm cách tân theo hướng hiện đại hay hậu hiện đại nghiêng về sự đánh đố, bí hiểm, nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận xét như một sự thú nhận mang màu sắc tự trào: “Thời dân chủ hóa cho tất cả mọi hành vi của con người, tức là thời giảm nhẹ những căng thẳng cho hoạt động của con người, thời dành nhiều hơn quyền tự do cho con người, mà lại bắt con người chuốc lấy sự mệt mỏi, thôi chi bằng cứ trở về với cái dễ hiểu thâm thúy của người khai sáng văn học thế giới hiện đại là Cervantes trong Don-Kihôtê cho xong!” (trang 329).
Sang đến Chương 4: Lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học gồm 5 chuyên đề (157 trang). Cũng theo kết cấu của Chương 2 và 3, tác giả công trình tìm hiểu lĩnh vực này theo tiến trình văn học từ buổi đầu: Sinh hoạt tư tưởng và học thuật thời kỳ 1930-1945 đến Lý luận và phương pháp luận nghiên cứu, phê bình văn học trước yêu cầu và trong quy định của lịch sử trước và sau 1945… Phong Lê đặc biệt chú ý đến những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu lý luận phê bình thời kỳ đổi mới. Bằng cái nhìn cẩn trọng, mang tính khoa học của nhà nghiên cứu văn học sử, tác giả công trình đã phác thảo bức tranh toàn cảnh của khu vực lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học mà biểu hiện tập trung nhất của kết quả hiện đại hóa là sự xuất hiện những tác phẩm tiêu biểu thuộc chuyên ngành này vào những năm 1941-1945 của Đào Duy Anh, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai... do ảnh hưởng của lý luận văn học phương Tây, qua một đội ngũ kết hợp Tây học và Hán học làm tốt công việc sưu tầm, biên soạn di sản văn học dân tộc, và dịch thuật văn học phương Tây trên những tờ báo quan trọng trong ba thập niên đầu thế kỷ XX. Trong khối tri thức mới, ảnh hưởng của lý luận phương Tây hiện đại, của tư tưởng Mác-xít và văn học vô sản mà trung tâm là văn học Xô Viết là cơ sở diễn ra những cuộc đấu tranh tư tưởng và sinh hoạt học thuật vào những năm 1930 trên các vấn đề duy tâm và duy vật, nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh. Trong giai đoạn văn học từ năm 1945-1975 và từ năm 1975 đến những năm tiền đổi mới, văn học Việt Nam vẫn hướng đến các tiêu chí của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa và theo mô hình văn học Liên Xô (cũ), nhằm đáp ứng yêu cầu của thời cuộc nhưng lại vấp phải không ít hạn chế trong một mô hình phát triển xã hội không phù hợp với quy luật khách quan. Đó là nguyên cớ chính dẫn tới công cuộc đổi mới văn học cùng triển khai trên cả hai khu vực sáng tác và lý luận vào những năm tám mươi. Phong trào đổi mới là hệ quả của một sự tái nhận thức lịch sử nửa thế kỷ đã qua trên các bình diện của nội dung và phương pháp luận nghiên cứu, lý luận, phê bình. Đồng thời, đó là một đòi hỏi những tiếp nhận mới, những cách thức tiếp cận mới lý luận văn học thế giới trên cơ sở của sự biến động và mở rộng không ngừng của môi trường tri thức và xã hội trước xu thế hiện đại hóa và toàn cầu hóa, mà Việt Nam đã có cơ hội tham gia ở tư thế chủ động.
Khép lại công trình là Chương 5: Phụ lục (30 trang) gồm 3 chuyên đề: Đôi nét phác thảo về cái thời hôm nay chúng ta đang sống; Hiện thực hôm nay và sự đồng hành của hơn bốn thế hệ viết, và: Phác thảo một thế kỷ văn học. Dẫu tác giả công trình có hàm ý giới hạn đối tượng nghiên cứu trong thế kỷ XX nhưng khi công trình ra mắt bạn đọc thì thế kỷ XXI đã đi hết thập niên mở đầu của nó. Công cuộc đổi mới khởi động từ thời điểm 1986 đã sang thập niên thứ ba; năm 2000 cũng là mốc đánh dấu cuộc Toàn cầu hóa lần thứ ba, hứa hẹn những biến đổi còn nhiều bất ngờ hơn sau gần 30 năm đổi mới và sau một thế kỷ vận động và phát triển theo mô hình hiện đại. Phần Phụ lục như khúc vĩ thanh về những chuyển đổi và động thái mới trong bối cảnh chung của đất nước. Trong đó, tác giả công trình lưu ý đến ba chuyển đổi cơ bản, đó là: từ sự phân cách, chia đôi chuyển sang hội nhập, cộng sinh; từ cộng đồng chuyển sang cá nhân; và từ phong bế ở các cấp độ khác nhau đến sự mở rộng giao lưu và hội nhập. Trong tương ứng với hiện thực mới của dân tộc là sự đồng hành của các thế hệ viết gồm từ thế hệ 7X đến 9X. Nếu xét về sự đông đảo thì chưa có thời kỳ nào trong lịch sử văn học nước nhà sánh bằng. Trên hành trình nghề nghiệp của mình, Phong Lê rất chú ý đến sự phát triển của đội ngũ những người cầm bút, đến sự tiếp nối và đồng hành của hơn bốn thế hệ viết với mong muốn những gì lớp trước chưa làm được lớp sau sẽ kế tiếp trong sáng tác cũng như lý luận phê bình. Bao giờ ông cũng có cái nhìn biện chứng, nhìn trong thế động về đội ngũ, thực tiễn sáng tác, thành tựu và giới hạn. Các chuyên đề của Phong Lê không là lý luận suông, lại càng không chỉ là đôi ba nhận xét chung chung mà là những tiếp cận cụ thể. Phong Lê là một trong số ít cây bút lý luận phê bình được lãnh đạo Hội Nhà văn tin cậy, tín nhiệm mời tham gia nhiều hoạt động quan trọng của Hội, do vậy ông có điều kiện đọc nhiều, luôn nắm bắt nhanh nhậy thực tiễn đời sống và sinh hoạt nghề nghiệp. Khi nghiên cứu các chặng đường, dấu mốc, các hiện tượng văn học và nhất là về các tác giả, Phong Lê đều chua thêm năm sinh, điểm đầu và cuối trên hành trình sáng tác của họ để nhận thấy những đóng góp của họ trong quá trình của cá nhân gắn với những bước đi của thời đại và lịch sử. Có thể chia sẻ với Phong Lê về những suy nghĩ thấu đáo và chân thành mang tính dự báo của ông: “Một đội ngũ viết hùng hậu, ở nhiều lứa tuổi, ai cũng muốn viết đến tận cùng những trải nghiệm và ao ước của mình; ai cũng mong đến được với cái riêng của mình – đó là điều tự nhiên; nhưng dẫu sự theo đuổi cái riêng là ráo riết đến mấy thì trước hiện thực hôm nay, tất cả các thế hệ viết đều có một mẫu số chung cho sự tìm kiếm: đó là cảnh ngộ và số phận của dân và nước – hai khái niệm đã được đặt ra trong tính khẩn thiết của nó, ngay từ đầu thế kỷ XX, và đã được chứng nghiệm cực kỳ sâu sắc trong Cách mạng tháng Tám và hai cuộc chiến tranh. Nếu chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân văn là xuyên suốt lịch sử cả nghìn năm văn học trung đại và cả trăm năm văn học hiện đại, thì câu hỏi về nó vẫn không phải đã hết ý nghĩa thời sự ở thời điểm bây giờ” (tr 521).
Trên hành trình nghề nghiệp hơn 50 năm của mình, nhà nghiên cứu Phong Lê luôn nhất quán một quan niệm: “Văn học như là tấm gương của xã hội, chịu sự tác động của các ý thức hệ xã hội. Tôi (Phong Lê – BT) muốn làm rõ con đường phát triển của văn học gắn với lịch sử dân tộc, đặt văn học đồng hành với lịch sử” (Báo QĐND 27-3-2013). Người đọc tôn trọng quan niệm và phương pháp tiếp cận đối tượng của tác giả công trình.
Phác thảovăn học Việt Nam hiện đại (thế kỷ XX) là một công trình khoa học dày dặn, bề thế với 25 chuyên đề lớn nhỏ, ký thác gần như cả một đời nghiên cứu gắn với sở nguyện của tác giả. Cuốn sách ghi nhận công sức và cống hiến của Phong Lê với chuyên ngành văn học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên do một số vấn đề trong công trình đã được trình bày trên một vài diễn đàn và hội thảo khoa học nên không tránh khỏi đôi chỗ có sự trùng lặp và sự dư dôi một số cụm từ quen thuộc như: “ngoạn mục”, “đỉnh cao”, “phòng chờ”, “tiền trạm”... Và như sự thừa nhận của chính tác giả công trình, ông cũng chưa vận dụng một cách thích đáng các phương pháp nghiên cứu phương Tây hiện đại mà vẫn sử dụng “những phương thức canh tác chưa thật mới mẻ” nhưng lại là sở trường của ông. Không chỉ thế, một số vấn đề thuộc văn học thế kỷ XX như văn học đô thị miền Nam, văn học hải ngoại vẫn còn ở ngoài vùng phủ sóng. Dù vậy, những gì chưa thực hiện được, đúng như Phong Lê nói: “sẽ là công việc của các thế hệ nghiên cứu mai sau, những người có sức trẻ và hoài bão”.
Có thể nói, bên cạnh hàng chục các công trình nghiên cứu khác, Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại (thế kỷ XX) là công trình khoa học bao quát không gian văn học của thế kỷ XX, thực sự cần thiết và bổ ích đối với giới nghiên cứu và giảng dạy văn học Việt Nam hiện đại. Sau khi in lần đầu, công trình đã được nối bản, cho thấy Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại thế kỷ XX đã chạm đến tâm thế đón đợi của học giới và độc giả hiện nay.
Tháng 2 - 2014
___________________
(*) Đọc Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại (thế kỷ XX), chuyên luận của PhongLê. NXB Tri thức, Hà Nội, 2013; 543 trang.