Những góc nhìn Văn hoá

Tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học - Một cuốn sách góp phần lý giải nguồn gốc người Việt

Khi bắt tay viết bài trao đổi về cuốn sách “Nguồn gốc người Việt - người Mường” của tác giả Tạ Đức để đăng trên Tạp chí Dân tộc học, tôi được một người bạn tặng tôi (bản phôtô) cuốn Tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học của Cung Đình Thanh do Tủ sách nghiên cứu Việt học, Nhà xuất bản Tư tưởng và Tập san Tư tưởng ấn hành tại Sydney (Australia) ấn hành năm 2003. Tôi mừng quá, cảm ơn bạn rối rít và đọc khá chăm chú, thấy có nhiều vấn đề hay. Khi đó, bài viết của tôi cho Tạp chí Dân tộc học đã định hình với dung lượng dài (17 trang), Tổng Biên tập yêu cầu tôi rút xuống 12 trang, nhưng rút mãi vẫn còn đến 14 trang (vì nhiều vấn đề móc nối với nhau, cắt thì không rõ ý, sợ bạn đọc hiểu nhầm), nên tôi không thể đưa các kết quả trong cuốn sách Tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam …. để trao đổi các vấn đề mà tác giả Tạ Đức đặt ra trong sách của ông, đành phải “để dành” cho bài viết sau. Nhưng nay, việc trao đổi khoa học giữa tôi và Tạ Đức đi theo hướng xấu như bạn đọc đã biết, nên tôi không tiếp tục tranh luận nữa.

Tuy vậy, để bạn đọc quan tâm đến vấn đề nguồn gốc người Việt có thêm tư liệu, tôi xin giới thiệu sơ bộ cuốn sách của Học giả Cung Đình Thanh.

Học giả Cung Đình Thanh, tôi “đoán” (nếu đoán sai, xin được Học giả và bạn đọc thứ lỗi) có lẽ là dòng dõi của Hồng Hạo (1677- 1748) - Tiến sĩ khoa Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh - 1710, người làng Kim Lũ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì; từ năm 2003 là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Họ Hồng này đến năm 1848 đổi thành họ cung vì kỵ húy Vua Tự Đức (Hồng Nhiệm).     

Sách Tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học  của Cung Đình Thanh dày 627 trang (vì là bản phôtô nên tôi không rõ khổ của sách là bao nhiêu), được chia là bốn phần, 14 chương như sau :

Phần I. Khái niệm đại cương gồm ba chương:

Chương 1 Khái niệm đại cương về khảo cổ học và ảnh hưởng hỗ tương giữa hệ sinh thái và con người (từ trang 23 đến trang 38)

Chương 2. Khái niệm về biển tiến ở Việt Nam  (từ trang 39 đến trang 55)

 Chương 3. Sự thuần hóa cây lúa nước và ảnh của nó đối với tư duy người Việt Cổ  (từ trang 56 đến trang 70)

Phần II. Côi nguồn văn minh, gồm bốn chương :

Chương 4. Thời đại đồ đá (các nền văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn, Ngườm), từ trang 73 đến trang 92)

Chương 5. Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử (từ trang 93 đến trang 124)

Chương 6. Thời đại đồ đồng- Văn hóa Đông Sơn  (từ trang 125 đến trang 160)

Chương 7. Trống đồng Đông Sơn - sự tranh luận về chủ quyền trống đồng giữa học giả Việt và Hoa  (từ trang 161 đến trang 194)

Phần III. Nguồn gốc dân tộc, gồm bốn chương:

Chương 8. Nguồn gốc dân tộc theo cổ sử nhân chủng và khảo cổ học  (từ trang 197 đến trang 231)

Chương 9. Nguồn gốc theo tập tục cổ truyền  (từ trang 232 đến trang 258)

Chương 10. Nguồn gốc dân tộc theo tiếng nói và chữ viết (từ trang 259 đến trang 280)

Chương 11. Nhờ tiến bộ của di truyền học, phải chăng đã đến lúc chúng ta có thể khẳng định được nguồn gốc dân tộc Việt Nam ? (từ trang 281 đến trang 298)

Phần IV. Hình thành đất nước, gồm ba chương :

Chương 12. Vua Hùng dựng nước  (từ trang 299 đến trang 340)

Chương 13. Trống đồng, vật lý hạ nguyên tử, Kinh dịch và đạo học Đông phương  (từ trang 341 đến trang 376)

Chương 14. Cốt lõi tư tưởng Việt Nam và vấn đề tam giáo Phật - Nho- Lão (từ trang 377 đến trang 424).

Sau phần chính văn, sách có phần Phụ lục với bốn mục (từ trang 425 đến trang 480), bổ sung nhiều tư liệu và luận điểm cho các chương trên.

Sau “Thay lời kết luận” (từ trang 481 đến trang 512) là phần Chú thích và chỉ dẫn, cho đủ các chương, phụ lục ở trên. Cuối sách là Tài liệu tham khảo và Các bảng liệt kê, INDEX.

Sách có nguồn tư liệu rất phong phú, nhiều tư liệu mới, lý giải khá chắc chắn, đáng tin cậy (tuy có một số điểm cần trao đổi thêm và một số tư liệu chưa thật chuẩn). Tôi đặc biệt chú ý và đọc “ngấu nghiến”  đến một số chương có các vấn đề mà giới khoa học Việt Nam cũng như nước ngoài tranh luận sôi nổi từ lâu và đến nay vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều. Song với những tư liệu và luận điểm trong các chương này, có lẽ vấn đề đã được rõ ràng hơn, nếu như không dám nói là đã được kết luận. Xin giới thiệu hai chương chính.

Chương 3 (Sự thuần hóa cây lúa nước và ảnh của nó đối với tư duy người Việt Cổ), tác giả sử dụng các kết quả khai quật khảo cổ học Việt Nam và ý kiến của các nhà khoa học Nga để cho rằng, với những mẫu lúa phát hiện được ở hàng Xóm Trại (tỉnh Hòa Bình) có niên đại 3500 năm trước Công nguyên, Văn hóa Hòa Bình là một trong ba cái nôi phát sinh trồng trọt của thế giới và là nôi của cây lúa nước (hai nôi còn lại vùng Cận Đông trồng lúa mỳ và nôi trung tâm Nam Mỹ trồng khoai mỳ và các loại củ). Ngày càng có nhiều học giả thế giới công nhận thuyết này; từ đó càng có nhiều người để tâm nghiên cứu Văn hóa Hòa Bình, với các tên gọi khác nhau “Truyền thống Hòa Bình”, “Phức hợp kỹ thuật Hòa Bình”… Học giả Nga Kriukov cho rằng, việc trồng lúa nước xuất hiện ở Bắc Việt Nam được một nhóm cư dân di cư đem nghề này, theo ngả Chia Ling Chang  (thuộc tỉnh Tứ Xuyên hiện nay), vượt núi Chinh Linh để vào lưu vực sông Hoài, gặp môi trường thuận lợi đã nhanh chóng phát triển nghề nông ở đây, rồi nhờ lương thực phong phú mà phát triển nghề gốm, để trở thành nền Văn hóa Ngưỡng Thiều trong phạm vi lưu vực sông Hoài (tr. 61). Điều này ngược với luận điểm cho rằng, Văn hóa Ngưỡng Thiều là trung  tâm của văn hóa lúa nước “phát” đi các nơi khác.

Cung Đình Thanh cũng vạch rõ những ý kiến của học giả T.T. Chang cho rằng, Trung Quốc đã phát hiện được dấu vết của các giống lúa tại nhiều địa phương với đầy đủ niên đại C14 (công bố tại Hội nghị Barkeley năm 1978) chỉ là ngụy biện, vì “niên đại này do phòng thí nghiệm tại Bắc Kinh thực hiện, hình như chưa được sự kiểm chứng của giới khoa học gia trên thế giới, và chưa thấy được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu quốc tế”. Riêng giới khoa học Nga còn phủ nhận những niên đại C14 của Trung Hoa vì cho nó “đã được phóng đại với mục đích chính trị” (tr. 56 - 57). 

Chương 11 (Nhờ tiến bộ của di truyền học, phải chăng đã đến lúc chúng ta có thể khẳng định được nguồn gốc dân tộc Việt Nam ?),  tác giả đưa ra thông tin vô cùng quan trọng: Nhà bác học người Mỹ gốc Hoa J. Y. Chu cùng 13 đồng nghiệp tại các trường đại học và viện nghiên cứu lớn ở Trung Hoa đã công bố một nghiên cứu thành công về Di truyền học mang tên Genetic Relationship of  population in China, đăng trên Tạp chí Hàn lâm viện khoa học quốc gia của Hoa Kỳ (năm 1998). Nghiên cứu này tốn hàng triệu đôla. Kết quả nghiên cứu gien của công trình này “phủ nhận người Trung Hoa đã tự sinh ra và phát triển độc lập trên đất Trung Hoa như nhiều nhà khảo cổ học trước đây đã chủ trương”; đồng thời khẳng định “gốc gác của người Trung Hoa từ Đông Nam Á di lên” (tr. 294) và “Người Đông Nam Á di lên, sau lại lai giống với người từ Trung Á và Âu châu di cư đến, có lẽ đây là tổ tiên của người Hoa Hán lập nên nhà Thương” (tr. 295) và như vậy, “Người thuộc Văn hóa Hòa Bình từ Đông Nam Á, mà điểm chính có thể từ Bắc Việt Nam đã di cư lên góp phần thành lập nước Trung Hoa” (tr. 295). Di truyền học đã chứng minh người Đông Nam Á không chỉ góp phần mà còn đóng vai trò chính, là bộ phận chủ đạo của nhân chủng lập nên nước Trung Hoa (cùng trang trên). Sự khám phá của GS. Chu và các đồng nghiệp đã được các học giả khắp nơi hưởng ứng, nhiều học giả đã bổ khuyết thuyết của Chu bằng những tham luận có giá trị.

Thông tin này là cứ liệu vô cùng quý để khẳng định người Việt là bản địa hay từ “phương Bắc” di cư xuống.

Một điều khác thu hút tôi là cuốn sách có nguồn tài liệu khá phong phú, địa chỉ rõ ràng, song không có tài liệu nào trên mạng.

Xin giới thiệu sơ bộ để bạn đọc cùng biết và tìm đọc cuốn sách này./.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114576862

Hôm nay

261

Hôm qua

2299

Tuần này

261

Tháng này

223919

Tháng qua

130677

Tất cả

114576862