Những góc nhìn Văn hoá

Phương pháp cấu trúc phát sinh trong lịch sử văn học

Về tác giả:

L.Goldmann(1913-1970) là nhà triết học, phê bình văn học Pháp, sinh tại Bucarest (Rumani). Sau một thời gian học ở Vienne, ông chuyển sang Paris, được tiếp xúc với các tác phẩm của các nhà văn, nhà tư tưởng của thế giới tại thủ đô nước Pháp, trong đó có tác phẩm của Kafka.

Năm 1945, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Cộng đồng nhân loại và vũ trụ của Kant tại Đại học Zurich. Trong luận án, ông phân tích các điều kiện xã hội thông qua các cơ quan thể chế và quan hệ xã hội, nghiên cứu mối quan hệ giữa chúng và công việc sáng tạo các nhà triết học, các nhà văn và các nghệ sĩ.

Năm 1946, ông làm việc tại Trung tâm nghiên cứu quốc gia Pháp. Năm 1959, ông chuyển sang giảng dạy tại trường Cao học thực hành. Đến năm 1961, ông sáng lập Trung tâm xã hội học văn học tại Bruxelle và trở thành Giám đốc của Trung tâm từ 1964. L.Goldmann xác lập một “xã hội văn học” đích thực, vượt qua lối viết lịch sử văn học truyền thống chỉ quen miêu tả các yếu tố bên ngoài và bình tán tác phẩm. Ông quan tâm trước hết đến văn bản, tiến hành “sự phân tích mỹ học nội tại” để tìm ra ý nghĩa khách quan của tác phẩm. Đồng thời, ông chỉ ra sự bất cập của lối nghiên cứu duy xã hội học theo thuyết nhân quả. Theo ông lối tiếp cận này không thể nắm bắt và giải thích được bản chất của những hiện tượng thuộc về công việc sáng tạo. Chịu ảnh hưởng từ G.Lukács, nhưng ông không đồng ý với quan điểm “phản ánh hiện thực” của Lukács và cho rằng người nghệ sĩ cần “sáng tạo ra những thực thể sống động”.

Trong tác phẩm Thượng đế ẩn giấu(1956), Goldmann đã dùng phương pháp xã hội học văn học để nghiên cứu giáo phái Jansen (Jansénisme: một giáo phái có tư tưởng có nguồn gốc từ Jansénius (Cornelius Jansen), nhà thần học Hà Lan (1585-1638) trong mối liên quan với sáng tác của Racine và Pascal. Chịu ảnh hưởng những tư tưởng của tâm lý học từ J.Piaget và chủ nghĩa Marx, nhưng nhà xã hội học văn học Goldmann đã thể hiện những nét đổi mới của mình: không còn quan tâm đến nội dung của tư duy, mà chú ý đến cấu trúc hình thức của một kiểu tư duy tập thể. Ông nghiên cứu những cấu trúc đối lập của tư duy bi kịch khi tiếp cận các tác phẩm của Racine và Pascal, từ đó xác định nhóm xã hội và khuynh hướng tư tưởng đã làm cho ta thấy được những điều kiện xã hội và tinh thần dọn đường cho sự ra đời của tác phẩm đó. Cách tiến hành của Goldmann đã đưa đến sự xếp chồng các cấu trúc văn học (qua bi kịch của Racine), những cấu trúc của tư duy hay cái nhìn về thế giới, những cấu trúc không phải của cả một giai cấp mà là của một nhóm xã hội.

Các quan điểm về một xã hội học văn học của Goldmann một lần nữa được trình bày rõ qua tác phẩm Vì một xã hội học tiểu thuyết(1964). Trong đó trước hết ông đề cập đến các vấn đề của xã hội học tiểu thuyết, sau đó là áp dụng nghiên cứu cấu trúc của các tiểu thuyết Malraux, tiểu thuyết Mới. Cuối cùng, ông trình bày về phương pháp cấu trúc phát sinh trong lịch sử văn học. Theo ông, phương pháp này là sự áp dụng một phương pháp tổng quát và đó là “phương pháp duy nhất có giá trị trong khoa học nhân văn” vào trong lĩnh vực lịch sử văn học. Phương pháp nghiên cứu của L.Goldmann đã góp phần tích cực vào sự đa dạng phong phú của bức tranh lý luận văn học ở thế kỷ XX.

Ông có các tác phẩm chính: Cộng đồng nhân loại và vũ trụ của Kant (1945), Các khoa học xã hội và triết học (1952), Thượng đế ẩn giấu(1956), Nghiên cứu phép biện chứng (1958), Vì một xã hội học của tiểu thuyết(1964), Sáng tạo văn hoá trong xã hội hiện đại (1971), Những cấu trúc tinh thần và sáng tạo văn hoá (1974)…

…………………………………………………

Phương pháp cấu trúc phát sinh trong lịch sử văn học 

Phân tích cấu trúc - phát sinh trong lịch sử văn học chỉ là sự áp dụng một phương pháp tổng quát, theo chúng tôi đó là phương pháp duy nhất có giá trị trong khoa học nhân văn, vào trong lĩnh vực này. Đối với chúng tôi, sáng tạo văn hoá là một lĩnh vực của hành vi con người, tuy là đặc biệt, nhưng về bản chất vẫn giống mọi lĩnh vực khác, và chính vì thế mà nó cũng được chi phối bởi những quy luật như trong các lĩnh vực khác và cũng đặt ra cho nghiên cứu khoa học những khó khăn nếu không đúng như thế thì cũng là cùng loại.

Trong bài viết này chúng tôi sẽ thử trình bày một số nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cấu trúc phát sinh áp dụng vào khoa học nhân văn nói chung và phê bình văn học nói riêng, đồng thời chúng tôi cũng sẽ phát biểu một số ý kiến về sự giống nhau và sự đối lập giữa hai trường phái lớn - chủ nghĩa mác xít và phân tâm học – có quan hệ với phương pháp này và có vai trò bổ trợ cho nhau trong phê bình văn học.

Chủ nghĩa cấu trúc phát sinh đi từ giả thuyết là mỗi hành vi của con người đều là một thử nghiệm nhằm đưa ra một câu trả lời có ý nghĩa cho một tình huống nhất định và qua đó hướng tới việc tạo ra một thế cân bằng giữa chủ thể hành động và đối tượng của hành động (là thế giới quanh ta). Tuy nhiên xu hướng đạt tới thế cân bằng này bao giờ cũng có tính chất dễ biến đổi và tạm thời, bởi mọi thế cân bằng ít nhiều thoả đáng giữa các cấu trúc tinh thần của chủ thể và thế giới bên ngoài, đều dẫn đến một tình huống bên trong, ở đó hành vi của con người làm biến đổi thế giới và qua đó làm cho thế cân bằng đang tồn tại trở nên không thích hợp nữa và làm nảy sinh một xu hướng nhằm đạt tới một thế cân bằng mới, cho tới lúc chính nó cũng lại sẽ trở nên không thích hợp nữa.

Như vậy là mọi thực tế đời sống con người đều là những quá trình hai mặt: một mặt là sự phá huỷ các cấu trúc cũ và mặt kia là cấu trúc các tổng thể mới có khả năng sinh ra những thế cân bằng có thể làm thoả mãn những yêu cầu mới của các nhóm xã hội thiết lập ra chúng.

Nhìn từ góc độ này thì việc nghiên cứu một cách khoa học các hiện tượng hành vi con người - dù trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị hay văn hoá - là một sự cố gắng soi sáng những quá trình đó bằng việc chỉ ra những thế cân bằng mà chúng phá vỡ và những thế cân bằng mà chúng đang hướng tới. Nói thì dễ, nhưng nghiên cứu cụ thể vấp phải một loạt những vấn đề mà ở đây chúng tôi sẽ chỉ đề cập đến một vài vấn đề quan trọng nhất.

Trước hết, đó là vấn đề tìm hiểu ai thực sự là chủ thể của tư duy và hành động. Có thể có ba loại câu trả lời, và chúng đưa đến những thái độ khác nhau về bản chất. Ta có thể thấy chủ thể trong khái niệm cá nhân như ở các trường phái chủ nghĩa kinh nghiệm, duy lý và mới đây là Hiện tượng học; ta cũng có thể quy cá nhân về một hiện tượng phụ đơn giản và cho là tập thể mới là chủ thể thực sự duy nhất như trong một số hình thái tư tưởng lãng mạn; ta cũng còn có thể - và đó là trường hợp tư duy biện chứng của Hegel và đặc biệt là biện chứng duy vật của Marx - công nhận tập thể là một chủ thể thực thụ (cũng như chủ nghĩa lãng mạn) nhưng đồng thời không quên rằng tập thể đó chỉ là một mạng lưới phức tạp những quan hệ giữa các cá nhân và chúng ta luôn phải làm rõ cấu trúc của mạng lưới đó và vị trí riêng của những cá nhân xuất hiện một cách rõ ràng như chủ thể, nếu không phải là chủ thể cuối cùng thì cũng là chủ thể trực tiếp của hành vi đang nghiên cứu.

Nếu chúng ta bỏ qua trường hợp của chủ nghĩa lãng mạn hướng về tư duy thần bí, chối bỏ mọi hiện thực và mọi tự do của con người, bởi theo nó thì cá nhân cần và phải hoàn toàn đồng nhất với toàn thể, vấn đề có thể được đặt ra một cách nghiêm túc là tại sao lại tác phẩm lại được gắn liền trước hết với nhóm xã hội mà không phải là với cá nhân đã viết ra nó, nhất là nếu phương pháp biện chứng không phủ nhận tầm quan trọng của cá nhân, thì các trường phái của chủ nghĩa kinh nghiệm, duy lý hoặc Hiện tượng học cũng không phủ nhận thực tế của môi trường xã hội, với điều kiện là phải coi đó chỉ là điều kiện bên ngoài, có nghĩa là một thực tế mà tác động đến cá nhân có tính chất nhân quả[1].

Câu trả lời thật ra rất đơn giản: khi cố gắng nắm bắt tác phẩm trong đặc trưng văn hoá (văn học, triết học, nghệ thuật) của nó, nghiên cứu quan tâm đến tác phẩm chỉ trong (hoặc chủ yếu trong) mối tương quan với tác giả có thể tìm hiểu - trong tình hình nghiên cứu của chủ nghĩa kinh nghiệm hiện nay và trong khả năng tốt nhất - về tính thống nhất nội tại của tác phẩm và quan hệ giữa tổng thể với các phần; nhưng nó không thể nào thiết lập được một cách thực chứng quan hệ cùng kiểu giữa tác phẩm và cá nhân đã sáng tạo ra nó. Đứng trên phương diện này, và nếu ta coi cá nhân như chủ thể, thì một phần lớn của tác phẩm được nghiên cứu chỉ là ngẫu nhiên và ta không thể nào vượt qua trình độ của những ý tưởng ít nhiều thông minh và độc đáo.

Bởi như chúng tôi đã trình bày, cấu trúc tâm lý là một thực tế quá phức tạp để có thể được phân tích qua các lời làm chứng về một cá nhân đã mất, hoặc về một tác giả ta không quen biết trực tiếp, hoặc thậm chí qua sự hiểu biết một cách cảm tính hoặc trong thực tế của một người mà ta ít nhiều có quan hệ bạn bè thân thiết.

Nói tóm lại, không nghiên cứu tâm lý nào có thể lý giải tại sao Racine lại viết toàn bộ các vở kịch và bi kịch của mình, và tại sao ông không thể viết kịch theo kiểu của Corneille hoặc của Molière[2].

Thế mà, và cho dù điều đó có vẻ lạ lùng đến thế nào đi chăng nữa, trong nghiên cứu các kiệt tác văn hoá thì việc nghiên cứu xã hội học có thể chỉ ra những quan hệ cần thiết dễ dàng hơn khi đặt chúng trong mối tương quan với các đơn vị tập thể mà cấu trúc của chúng được soi sáng một cách dễ dàng hơn rất nhiều.

Tất nhiên là các đơn vị đó chỉ là những mạng lưới phức tạp các quan hệ giữa các cá nhân, nhưng sự phức hợp của tâm lý cá nhân có cơ sở ở việc mỗi cá nhân thuộc về một số nhiều hay ít các nhóm khác nhau (gia đình, nghề nghiệp, người cùng nước, bạn bè, tầng lớp xã hội, v.v.) và mỗi nhóm đó đều có tác động đến ý thức của mỗi cá nhân và qua đó góp phần vào sự kết cấu của một cấu trúc duy nhất, phức hợp và không mấy đồng nhất. Ngược lại, khi chúng ta nghiên cứu một số khá lớn các cá nhân chỉ thuộc về một nhóm xã hội, tác động của các nhóm xã hội khác và các yếu tố tâm lý do sự thuộc về đó gây ra lại được trung hoà và đưa đến một cấu trúc đơn giản và đồng nhất hơn nhiều[3].

Theo hướng nghiên cứu này thì các quan hệ giữa tác phẩm thực sự quan trọng và nhóm xã hội nói cho cùng là chủ thể thực sự của sáng tác (thông qua người sáng tác), có cùng bản chất như các quan hệ giữa các yếu tố của tác phẩm và toàn thể tác phẩm. Trong cả hai trường hợp, chúng ta có những quan hệ giữa các yếu tố của một cấu trúc bao hàm và toàn thể của nó, quan hệ vừa có tính bao hàm và vừa có tính lý giải. Chính vì vậy, nếu ta có thể tưởng tượng rằng nếu cá nhân Racine được giáo dục theo kiểu khác, hoặc sống trong một môi trường khác, thì ông đã có thể viết những vở kịch theo kiểu Corneille hay Molière; nhưng ngược lại, ta không thể cho rằng giới quý tộc pháp đình thế kỷ XVII lại có thể sáng tạo ra tư tưởng khoái lạc của Epicure hoặc một tư tưởng hoàn toàn lạc quan.

Điều đó có nghĩa là khi khoa học là một sự cố gắng để chỉ ra các quan hệ cần thiết giữa các hiện tượng, các thử nghiệm đặt tác phẩm văn hoá trong quan hệ với các nhóm xã hội với tư cách là chủ thể sáng tạo, trong tình hình kiến thức hiện nay, tỏ ra là thao tác có tính khả thi hơn là mọi cố gắng coi cá nhân như là chủ thể thực sự của sáng tạo.

Tuy nhiên, một khi chúng ta đã chấp nhận quan điểm này, lại nảy sinh hai vấn đề. Vấn đề thứ nhất là phải xác định cấp bậc quan hệ giữa nhóm và tác phẩm; vấn đề thứ hai là phải biết những tác phẩm nào và những nhóm nào có thể có quan hệ kiểu này.

Về điểm thứ nhất, phương pháp cấu trúc phát sinh (và chính xác hơn là các nghiên cứu của Georg Lukács) là một bước ngoặt thực sự trong xã hội học văn học. Tất cả các trường phái khác trong xã hội học văn học từ trước tới nay đều cố gắng thiết lập những quan hệ giữa nội dung của tác phẩm văn học và nội dung ý thức tập thể. Phương pháp này đôi khi có thể đưa đến những kết quả khả quan, bởi trên thực tế có những sự chuyển kiểu đó, nhưng nó có hai điểm yếu lớn:

a) nhà văn có thể sử dụng những yếu tố nội dung của ý thức tập thể, hoặc thậm chí đơn giản hơn là chỉ đưa vào tác phẩm những yếu tố của sắc thái kinh nghiệm trực tiếp của thực tế xã hội xung quanh, nhưng việc đó gần như không bao giờ có hệ thống hoặc có tính khái quát và chỉ được thực hiện ở một vài chỗ trong tác phẩm mà thôi. Có nghĩa là khi nghiên cứu xã hội học hoàn toàn (hoặc chủ yếu) hướng về việc nghiên cứu các sự tương ứng về nội dung, nó bỏ qua tính thống nhất của tác phẩm, và như vậy là nó bỏ qua tính đặc trưng của văn học.

b) sự phản ảnh trực tiếp thực tế xã hội và ý thức tập thể trong tác phẩm thường gặp khi nhà văn có ít sức sáng tạo và hài lòng với việc miêu tả hoặc kể lại thực tế mà không đưa nó qua lăng kính trải nghiệm cá nhân của mình.

Chính vì vậy mà xã hội học văn học hướng về nghiên cứu nội dung tác phẩmthường có tính chất giai thoại và đặc biệt thích hợp cho việc nghiên cứu các tác phẩm trung bình  hoặc các trường phái văn học, nhưng lại mất dần khả năng khi tiếp cận những sáng tác lớn.

Về vấn đề này, phương pháp cấu trúc-phát sinh là một bước thay đổi hoàn toàn về định hướng, bởi giả thuyết cơ bản của phương pháp này là như sau: tính chất tập thể của sáng tạo văn học có cơ sở trong hiện tượng các cấu trúc của thế giới tác phẩm tương đồng với các cấu trúc tâm lý của một số nhóm xã hội, hoặc nằm trong mối quan hệ có thể hiểu được với chúng, trong khi đó thì nhà văn được hoàn toàn tự do trên bình diện nội dung, có nghĩa là việc sáng tạo ra các thế giới tưởng tượng được điều khiển bởi những cấu trúc đó. Việc sử dụng các chất liệu thô của trải nghiệm cá nhân để sáng tạo ra những thế giới tưởng tượng là thường gặp và có thể, nhưng điều đó hoàn toàn không phải là chủ yếu và làm rõ điều này cũng là việc có ích nhưng chỉ là thứ yếu trong nghiên cứu văn học.

Trên thực tế, mối quan hệ giữa nhóm sáng tác và tác phẩm thường được thể hiện theo mô hình sau: nhóm tạo nên một quá trình cấu trúc để thiết lập trong ý thức của các thành viên những xu hướng tình cảm, trí tuệ hoặc thực tế, nhằm đưa ra một câu trả lời khúc chiết cho những vấn đề được đặt ra bởi quan hệ của họ với thế giới tự nhiên và quan hệ giữa người với người. Có thể có trường hợp đặc biệt, nhưng các xu hướng này không liên kết chặt chẽ thực sự, bởi như chúng tôi đã nói, chúng bị cản trở bởi các ảnh hưởng khác nhau trong ý thức của cá nhân do việc mỗi người thuộc về nhiều nhóm xã hội khác nhau.

Như vậy là các phạm trù tâm lý đó chỉ tồn tại trong nhóm xã hội dưới dạng những xu hướng ít nhiều tiến gần tới sự liên kết chặt chẽ mà chúng tôi gọi là quan niệm về thế giới, quan niệm mà nhóm không sáng tạo ra, nhưng thiết lập (và chỉ có nhóm mới có khả năng thiết lập) các yếu tố cấu thành và năng lượng cho phép tập hợp các yếu tố đó lại với nhau. Nhà văn lớn chính là cá nhân đặc biệt có khả năng sáng tạo trong một lĩnh vực nhất định - tác phẩm văn học, hoặc hội hoạ, hoặc ý niệm, hoặc âm nhạc, v.v. - một thế giới tưởng tượng, chặt chẽ hoặc gần như hoàn toàn chặt chẽ, mà cấu trúc của thế giới đó tương ứng với cấu trúc mà toàn thể nhóm hướng tới; trong khi đó thì tác phẩm có chất lượng xấu hay tốt là do cấu trúc tiến gần đến hay rời xa sự liên kết hoàn toàn chặt chẽ.

Như vậy có sự khác biệt rất lớn giữa xã hội học nghiên cứu nội dung và xã hội học nghiên cứu cấu trúc. Xã hội học nội dung chỉ thấy trong tác phẩm sự phản ảnh của ý thức tập thể; ngược lại, xã hội học cấu trúc thấy một trong những yếu tố cấu thành quan trọng nhất của ý thức tập thể, đó chính là yếu tố cho phép các thành viên của nhóm có ý thức về điều mà họ nghĩ, cảm thấy hoặc làm mà không hiểu biết một cách khách quan ý nghĩa của nó. Chính vì vậy ta hiểu tại sao xã hội học nội dung lại có hiệu quả hơn khi nó nghiên cứu các tác phẩm trung bình, trong khi ngược lại xã hội học văn học cấu trúc-phát sinh lại có hiệu quả hơn cho việc nghiên cứu các kiệt tác của văn học thế giới.

Nhưng cũng còn phải giải quyết một vấn đề nhận thức luận nữa: nếu như tất cả các nhóm người đều tác động đến ý thức, tình cảm và hành vi của các thành viên, thì chỉ có tác động của một số nhóm đặc biệt mới có khả năng hỗ trợ cho sự sáng tạo văn hoá. Vì vậy mà mỗi nghiên cứu cụ thể cần đặc biệt chú ý tới việc khoanh vùng các nhóm đó để có thể thấy rõ hướng nghiên cứu. Chính bản chất của các tác phẩm văn hoá lớn cũng chỉ ra các tính chất của chúng. Thật vậy, như chúng tôi đã nói, các tác phẩm đó thể hiện những quan niệm về thế giới, có nghĩa là các lát cắt của hiện thực tưởng tượng hoặc trong ý niệm, được cấu trúc một cách đặc biệt để có thể phát triển chúng lên thành các vũ trụ tổng thể mà không cần bổ sung cấu trúc.

Điều đó có nghĩa là cấu trúc này chỉ có thể được gắn với những nhóm mà ý thức hướng về một quan niệm tổng thể về con người.

Trong thực tế nghiên cứu, rõ ràng là trong một giai đoạn lịch sử rất dài, các tầng lớp xã hội là các nhóm duy nhất thuộc kiểu này; nhưng cũng còn phải đặt câu hỏi là liệu câu khẳng định này liệu có thể được áp dụng cho các xã hội ngoài châu Âu, hoặc cho Hy Lạp và La Mã cổ đại và các giai đoạn trước đó, thậm chí cho một số lĩnh vực của xã hội đương đại; nhưng một lần nữa chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đó là vấn đề của nghiên cứu kinh nghiệm và thực chứng, chứ không phải là do cảm tình hay không về mặt tư tưởng như thường thấy ở một số lượng quá lớn lý thuyết xã hội học.

Dù sao đi chăng nữa, khẳng định sự tồn tại một quan hệ giữa các tác phẩm văn hoá lớn và các nhóm xã hội hướng về sự tái cấu trúc tổng thể xã hội hoặc hướng về sự bảo tồn cấu trúc đã có, đã cho phép từ bỏ ngay từ đầu mọi cố gắng gắn các tác phẩm đó với một số các nhóm xã hội khác, như dân tộc, thế hệ, tỉnh vùng và gia đình (là những nhóm quan trọng nhất). Không phải là các nhóm đó không tác động đến ý thức của các thành viên và trong trường hợp này là ý thức của nhà văn, mà chúng chỉ có thể giải thích được một số yếu tố phụ của tác phẩm mà không lý giải được cấu trúc cơ bản của nó[4]. Mặt khác các dữ liệu thực tế cũng khẳng định cho điều này. Ví dụ, Pascal, Descartes và Gassendi, cũng như của Racine, Corneille hoặc Molière, cùng thuộc về xã hội Pháp thế kỷ XVII, nhưng điều đó không thể giải thích cũng như không thể cho phép hiểu tác phẩm của họ, bởi chúng thể hiện những thế giới quan khác nhau và thậm chí là đối lập. Ngược lại, việc sống đồng thời ở Pháp thế kỷ XVII đó có thể cho phép phát hiện một số yếu tố hình thức chung cho ba nhà tư tưởng và ba nhà văn này.

Sau những nhận xét trên, chúng tôi đi đến vấn đề quan trọng nhất của mọi nghiên cứu xã hội học theo phương pháp cấu trúc-phát sinh: đó là vấn đề chia cắt đối tượng. Trong trường hợp xã hội học nghiên cứu đời sống kinh tế, xã hội hay chính trị, vấn đề này là đặc biệt khó và đóng vai trò chủ yếu; thật vậy chúng ta chỉ có thể nghiên cứu cấu trúc khi đã giới hạn một cách ít nhiều chặt chẽ toàn thể các dữ kiện thực tế trực tiếp cấu thành đó, và ngược lại ta cũng không thể giới hạn các dữ kiện thực tế đó khi ta đã có một giả thuyết ít nhiều được hình thành về cấu trúc là cơ sở cho tính thống nhất của tác phẩm.

Đứng trên phương diện logic hình thức, vấn đề này có vẻ như một vòng luẩn quẩn và hoàn toàn không giải quyết được; nhưng trên thực tế thì cũng như tất cả các vấn đề thuộc loại này, nó có thể được giải quyết một cách dễ dàng bởi một loạt cách tiếp cận liên tiếp.

Chúng ta đi từ giả thiết là có thể tập hợp một số hiện tượng vào một tổng thể cấu trúc, chúng ta thử thiết lập giữa những sự kiện đó một số lượng lớn nhất các quan hệ bao hàm và lý giải, đồng thời cũng cố gắng đưa vào đó những sự kiện khác có vẻ như nằm ngoài cấu trúc mà chúng ta đang tách ra; như vậy chúng ta có thể loại bỏ một số sự kiện ban đầu, đưa một số khác vào và thay đổi giả thuyết lúc đầu; chúng ta lặp lại thao tác này bằng cách tiếp cận liên tiếp cho đến lúc đạt đến (và tuỳ trường hợp, đó là lý tưởng ít nhiều có thể đạt tới) một giả thuyết về cấu trúc có thể cho phép hiểu một toàn thể các sự kiện hoàn toàn được liên kết chặt chẽ[5].

Trong nghiên cứu sáng tạo văn hoá, đúng là chúng ta dễ dàng đặt ra giả thuyết ban đầu. Thật vậy, ta có thể giả định mà không nhầm rằng các kiệt tác văn học, nghệ thuật hay triết học đều tạo nên những cấu trúc được biểu hiện rõ ràng và được liên kết chặt chẽ, chính vì vậy mà ta có thể coi thao tác chia cắt đối tượng đầu tiên đã được thực hiện trước. Nhưng cũng còn phải cảnh giác chống lại sự cám dỗ dựa vào giả thuyết đó một cách mù quáng. Thật vậy, tác phẩm có thể chứa đựng những yếu tố không đồng nhất cần phải phân biệt khỏi tính thống nhất chủ yếu. Hơn nữa nếu giả thuyết về tính thống nhất của tác phẩm có thể gần với sự thực trong trường hợp các tác phẩm thật sự quan trọng được nghiên cứu riêng biệt, giả thuyết này mất dần cơ sở khi chúng ta nghiên cứu toàn thể các văn bản của một nhà văn và chỉ một nhà văn mà thôi.

Chính vì vậy mà trong một nghiên cứu cụ thể, ta cần phải đi từ phân tích mỗi tác phẩm trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác và, nếu có thể lập trình tự thời gian sáng tác, cố gắng nghiên cứu theo trình tự đó.

Việc này sẽ giúp chúng ta thao tác lập ra các nhóm văn bản, từ đó sẽ tìm hiểu trong đời sống tinh thần, chính trị, xã hội và kinh tế của thời kỳ lịch sử đó, các nhóm xã hội có cấu trúc chặt chẽ để có thể đưa vào đó các tác phẩm được nghiên cứu với tư cách như các yếu tố bộ phận, và thiết lập giữa chúng và toàn thể những quan hệ có thể tư duy được và những quan hệ cùng nguồn, trong một số trường hợp khả quan nhất.

Sự tiến bộ của nghiên cứu cấu trúc-phát sinh chính là thao tác giới hạn các nhóm dữ kiện thực nghiệm tạo thành những cấu trúc, các tổng thể tương đối[6], và trong việc xem xét chúng như yếu tố trong các cấu trúc rộng hơn nhưng có cùng một bản chất.

Ngoài ra phương pháp này còn có hai ưu điểm nữa: nó cho phép nhìn toàn thể các hiện tượng con người một cách vừa thống nhất, có tính tìm hiểu và lý giải, bởi việc làm rõ một cấu trúc là một quá trình tìm hiểu, đồng thời việc đưa nó vào trong một cấu trúc rộng hơn là một quá trình giải thích. Ví dụ, tìm hiểu cấu trúc bi kịch của Tư tưởng của Pascal và của kịch Racine là một phương pháp tiến tới hiểu biết; đưa chúng vào bối cảnh của học thuyết Jansen khắc khổ cực đoan bằng cách làm rõ cấu trúc của học thuyết này là một cách tìm hiểu học thuyết này, nhưng đối với tác phẩm của Pascal và của Racine thì là một quá trình lý giải; đặt học thuyết Jansen cực đoan vào lịch sử chung của thuyết đó, đó là lý giải cái thứ nhất và hiểu cái thứ hai. Đặt thuyết Jansen với tư cách là một trào lưu tư tưởng, vào lịch sử của giới quý tộc pháp đình vào thế kỷ XVII, đó là lý giải thuyết Jansen và hiểu giới quý tộc pháp đình. Đặt lịch sử giới quý tộc pháp đình vào lịch sử xã hội Pháp nói chung, đó chính là để lý giải bằng cách tìm hiểu xã hội Pháp, v.v. và v.v.

Như vậy lý giải và tìm hiểu không phải là hai quá trình nhận thức khác nhau, mà nó là một quá trình được đặt vào hai bối cảnh khác nhau.

Chúng tôi cũng nhấn mạnh rằng theo hướng đó - khi sự chuyển từ hình thức sang nội dung, từ dữ liệu thực nghiệm bộ phận và trừu tượng đến sự làm rõ nghĩa cụ thể và khách quan, được thực hiện bằng việc đặt vào các tổng thể tương đối, có cấu trúc và có ý nghĩa - mỗi sự kiện thuộc về con người đều có thể, và thậm chí cần phải có một số các ý nghĩa cụ thể và khác biệt, tuỳ thuộc vào số lượng các cấu trúc, nơi nó có thể được đặt vào một cách thực chứng và khả thi. Ví dụ, qua những thao tác đã chỉ ra ở trên, nếu thuyết Jansen cần phải được đặt vào bối cảnh xã hội Pháp thế kỷ XVII với tư cách là một trào lưu tư tưởng tiêu cực và bảo thủ đối lập với các lực lượng lịch sử tiến bộ chủ yếu được hiện thân một mặt bởi giới tư sản và vương quyền, và mặt khác, đứng trên phương diện tư tưởng, bởi chủ nghĩa duy lý của Descartes, thì chúng ta cũng hoàn toàn có thể và cần phải đặt nó vào một cấu trúc tổng thể của xã hội phương Tây trong sự phát triển của nó cho đến ngày nay, và qua đó chúng ta sẽ thấy rằng thuyết Jansen dần dần trở nên tiến bộ, bởi nó là một trong những bước đầu trong quá trình vượt qua chủ nghĩa duy lý Descartes để tiến tới tư tưởng biện chứng; và tất nhiên là hai ý nghĩa này không phải là duy nhất và cũng không phải là đối lập với nhau.

Cũng cùng trong một mạch suy nghĩ đó, chúng tôi muốn dừng lại ở đây để nói đến hai vấn đề đặc biệt quan trọng trong tình hình phê bình văn học hiện nay:

a.             vấn đề đặt các tác phẩm văn học vào hai tổng thể có thực và bổ sung lẫn nhau, có thể đem lại các yếu tố để hiểu và lý giải, có nghĩa là cá nhân và nhóm.

b.             từ đó, vấn đề chức năng của sáng tạo văn hoá trong đời sống con người.

Về vấn đề thứ nhất, hiện nay có hai trường phái khoa học cấu trúc phát sinh tiến hành các thử nghiệm đặt tác phẩm vào các cấu trúc tập thể và vào tiểu sử cá nhân: đó là nghiên cứu mác xít và phân tâm học.

Chúng ta hãy bỏ qua những khó khăn đã nói đến ở trên trong việc làm rõ các cấu trúc cá nhân, và nói ngay đến hai trường phái này dưới góc độ phương pháp. Cả hai trường phái đều có mục đích tìm hiểu và lý giải các hiện tượng con người bằng việc đặt chúng vào các tổng thể cấu trúc của đời sống tập thể và của tiểu sử cá nhân.

Như vậy đó là những phương pháp có quan hệ gần gũi và bổ sung cho nhau; và ít ra là về lý thuyết, kết quả nghiên cứu của trường phái này cần phải giúp cho việc củng cố và bổ sung cho kết quả của trường phái kia.

Rất đáng tiếc là phân tâm học (ít ra là phân tâm học của Freud[7]), với tư cách là trường phái cấu trúc phát sinh, không có đủ cơ sở và vẫn còn chịu ảnh hưởng của tinh thần duy khoa học phổ biến trong giới đại học cuối thế kỷ XIX - đầu XX. Điều này được thể hiện trong hai điểm quan trọng sau.

Thứ nhất, Freud hoàn toàn không chú ý đến khía cạnh thời gian trong tương lai. Ông chịu ảnh hưởng của tinh thần duy khoa học quyết định luận của thời đại ông và hoàn toàn bỏ qua các thế lực khách quan hướng tới sự lập lại cân bằng trong mọi cấu trúc con người, cá nhân hay tập thể; đối với Freud, lý giải có nghĩa là quay lại với các trải nghiệm thời thơ ấu, với các thế lực cảm tính bị dồn nén hoặc bị áp bức, và như vậy là ông hoàn toàn bỏ qua chức năng tích cực mà ý thức và quan hệ với thực tế có thể hàm chứa[8].

Thứ hai, đối với Freud, cá nhân là một chủ thể tuyệt đối, và những cá nhân khác chỉ có thể là đối tượng để thoả mãn hoặc không thoả mãn dục tính; điều này có thể là cơ sở của sự không quan tâm đến tương lai như chúng tôi vừa nói đến.

Có lẽ việc rút gọn khái niệm dục năng (libido) của Freud vào lĩnh vực tình dục là sai; nhưng có điều là libido này bao giờ cũng thuộc về cá nhân và trong quan niệm của Freud về nhân loại, chủ thể tập thể và sự thoả mãn mà một hành động tập thể có thể mang lại cho cá nhân hoàn toàn vắng bóng.

Chúng ta có thể nói dài dòng, qua các ví dụ cụ thể, về những sai lệch mà xu hướng này gây ra trong những phân tích của Freud về các hiện tượng văn hoá và lịch sử. Đứng trên phương diện này, theo chúng tôi thì phân tích theo kiểu mác xít tiến bộ hơn rất nhiều, bởi nó không chỉ coi tương lai như một yếu tố có tính chất giải thích mà còn là sự thể hiện ý nghĩa đối với cá nhân của các hành động con người bên cạnh ý nghĩa tập thể của nó.

Cuối cùng, ở lĩnh vực mà chúng ta quan tâm, là các tác phẩm văn hoá và đặc biệt là các tác phẩm văn học, chúng tôi cho rằng việc tác phẩm văn học có thể được đặt vào các cấu trúc có ý nghĩa cá nhân và tập thể là không thể chối cãi. Không những các ý nghĩa tồn tại và chấp nhận được (và điều đó là đương nhiên), mà thao tác đưa tác phẩm vào hai cấu trúc vừa khác nhau về bản chất vừa có tính chất bổ sung. Thật vậy, đặt các tác phẩm vào tiểu sử cá nhân chỉ có thể cho phép phát hiện ý nghĩa cá nhân của tác phẩm và quan hệ của nó với các vấn đề tiểu sử và tâm lý của tác giả. Điều đó có nghĩa là dù các nghiên cứu kiểu này có giá trị, nghiêm túc khoa học đến đâu thì chúng bắt buộc phải đưa tác phẩm ra ngoài bối cảnh văn hoá và mỹ học của tác phẩm để đặt nó vào cùng một bậc với tất cả những triệu chứng cá nhân của người bệnh đang được bác sĩ phân tâm học điều trị.

Nếu giả thiết (không có nghĩa là nhượng bộ) rằng ta có thể đặt các tác phẩm của Pascal trong với quan hệ của chị (em) hoặc quan hệ của Kleist trong quan hệ với chị (em) và ông bố, chúng ta sẽ chỉ phát hiện ra ý nghĩa về mặt tình cảm và tiểu sử của các tác phẩm đó nhưng chúng ta không thể đạt tới thậm chí chưa tiếp cận được ý nghĩa của chúng về mặt triết học hoặc văn học. Hàng nghìn và hàng chục nghìn cá nhân rất có thể có những quan hệ tương tự đối với các thành viên trong gia đình, và chúng ta không thể xác định một nghiên cứu phân tâm học các triệu chứng đó có thể cho thấy, dù là một chút, sự khác nhau về bản chất giữa những ghi chép của một bệnh nhân tâm thần nào đấy với các tác phẩm Tư tưởng hay Hoàng tử Homburg.

Theo chúng tôi, tâm lý và phân tâm học chỉ có thể có ích (khá hạn chế) cho phê bình văn học ở chỗ cho phép giải thích tại sao trong trường hợp cụ thể một nhóm xã hội đã hình thành ra một thế giới quan, một cá nhân lại có thể, qua việc nghiên cứu tiểu sử cá nhân của anh ta, có khả năng đặc biệt sáng tạo ra một thế giới ý niệm và tưởng tượng, trong phạm vi mà một trong những lý do là anh ta có thể tìm thấy ở đó sự thoả mãn được phái sinh hoặc được thăng hoa cho các hứng thú vô thức của anh ta[9]. Điều này có nghĩa là chỉ có phân tích lịch sử-xã hội mới có thể cho phép hiểu như các hiện tượng văn hoá ý nghĩa triết học của Tư tưởng, ý nghĩa văn học và mỹ học của kịch của Kleist và nguồn gốc của các tác phẩm đó.

Các phân tích tâm lý chỉ có thể cho phép chúng ta hiểu tại sao, giữa hàng trăm người theo thuyết Jansen, lại chỉ có Racine và Pascal có thể thể hiện được quan niệm bi kịch vào lĩnh vực văn học và triết học, nhưng lại không đưa lại một thông tin nào (hoặc đó chỉ là một vài chi tiết phụ không quan trọng) về bản chất, nội dung và ý nghĩa của thuyết đó.

Cuối cùng, để kết thúc chúng tôi muốn đề cập một cách sơ lược một vấn đề đặc biệt quan trọng: đó là chức năng cá nhân (trò chơi, giấc mơ, triệu chứng bệnh hoạn, sự thăng hoa) và tập thể (giá trị văn học, văn hoá và nghệ thuật) của tưởng tượng, trong mối quan hệ đối với những cấu trúc có nghĩa của con người và đều thể hiện các tính chất chung là các quan hệ có tính vận động và có cấu trúc giữa một chủ thể (tập thể hoặc cá nhân) và môi trường xung quanh.

Vấn đề đó rất phức tạp, ít được nghiên cứu, và chúng tôi chỉ có thể, ở cuối bài viết này, đưa ra một giả thuyết tạm thời và cũng chưa được chính xác lắm. Trên thực tế, chúng tôi có cảm giác là, trên quan điểm tâm lý, hoạt động của chủ thể luôn được thể hiện dưới dạng một toàn thể các khát vọng, xu hướng, mong muốn, mà thực tế ngăn cản không cho phép được thực hiện hoàn toàn.

Marx và Lukács, trên bình diện tập thể, và Piaget, trên bình diện cá nhân, đã nghiên cứu khá kỹ các thay đổi mà những khó khăn và những cản trở được gây ra bởi đối tượng đưa vào trong chính bản chất của những mong muốn và khát vọng đó. Freud đã chỉ ra rằng, trên bình diện cá nhân, các khát vọng, ngay cả khi đã được biến đổi, không thể bằng lòng với sự thoả mãn từng phần và chấp nhận không phản đối sự kiềm chế. Cống hiến lớn của phân tâm học là đã phát hiện ra rằng quan hệ hợp lý với hiện thực đòi hỏi sự thoả mãn tưởng tượng như là sự bổ sung, đồng thời có thể có những dạng rất khác nhau từ các cấu trúc thích nghi của nói nhịu và của giấc mơ, đến những cấu trúc không phù hợp như bệnh hoạn và sự điên dại.

Có thể là chức năng của văn hoá cũng có bản chất như vậy (cho dù có nhiều điểm khác biệt, ví dụ chúng tôi không tin rằng có vô thức tập thể). Các nhóm người chỉ có thể tác động một cách hợp lý đến thực tế và thích nghi với những điều không được thoả mãn và sự được thoả mãn phần nào gây ra bởi hành động đó, và bởi những cản trở mà hành động đó vấp phải, bởi hành động lý tính và có khả năng biến đổi đi liền với sự thoả mãn toàn phần trong lĩnh vực sáng tạo ý niệm hoặc tưởng tượng.

Nhưng cũng còn phải nói thêm rằng nếu trong lĩnh vực cá nhân, các bản năng bị dồn nén vẫn tiếp tục tồn tại trong vô thức và hướng về sự thoả mãn (tượng trưng) bao giờ cũng là sự chiếm đoạt đối tượng, thì các xu hướng tập thể thường là ngầm ẩn chứ không phải vô thức, không phải là sự chiếm đoạt mà là thực hiện một sự gắn kết.

Như vậy sáng tạo văn hoá bù trừ cho sự trộn lẫn và sự thoả thuận mà thực tế áp đặt cho các chủ thể và làm sự hoà nhập được dễ dàng trong thế giới thực tại, điều đó có lẽ là cơ sở tâm lý cho sự thanh lọc.

Một giả thuyết theo hướng này có thể dễ dàng sử dụng tất cả những cống hiến của phân tâm học Freud và của nghiên cứu mác xít về nghệ thuật và sáng tạo văn hoá, có thể đồng thời tìm hiểu được sự gần gũi - thường được các nhà lý thuyết cảm nhận thấy - và sự khác nhau về bản chất giữa một bên là trò chơi, giấc mơ, và thậm chí một số dạng tưởng tượng bệnh hoạn, và bên kia là các sáng tạo lớn trong văn học, nghệ thuật và cả trong triết học.

                                                                                     Tháng 5 năm 1964

Lộc Phương Thuỷ dịch

từ bản tiếng Pháp: L. Goldmann, Vì một xã hội học tiểu thuyết (Pour une sociologie du roman), Nxb Gallimard, Paris, 1992, tr. 337-363.

 

 


[1]Nhìn từ góc độ này thì nghiên cứu xã hội học có thể góp phần lý giải nguồn gốc của tác phẩm, nhưng không thể giúp cho việc hiểu tác phẩm đó.

[2]Tuy vậy, nếu ta không thể đưa nội dung và hình thức - có nghĩa là cấu trúc văn học, triết học hoặc nghệ thuật của các tác phẩm văn hóa lớn - vào cấu trúc tiểu sử, thì phân tâm học, một trường phái tâm lý thuộc phương pháp cấu trúc-phát sinh, lại có thể cho phép phần nào chỉ ra, bên cạnh cấu trúc văn hóa đặc trưng, một cấu trúc và một ý nghĩa cá nhân của các tác phẩm đó, và phân tâm học cho rằng có thể đưa cấu trúc này vào tiểu sử của cá nhân. Chúng tôi sẽ quay lại về vấn đề này ở phần cuối bài viết để chỉ ra những khả năng và hạn chế của sự ghép nhập này.

[3]Thống kê học thực hành cho thấy những vấn đề tương tự: ví dụ trên thực tế không thể nào dự đoán trước một cách khá chính xác liệu Pierre, Jacques hoặc Jean có lấy vợ, bị tai nạn ô tô hoặc qua đời trong năm tới hay không, nhưng ngược lại có thể dự đoán một cách khá chính xác số đám cưới, tai nạn hoặc chết ở Pháp trong tuần này hay tuần kia trong năm.

Tuy vậy, mặc dù các hiện tượng này đều có thuộc về cùng loại, vẫn có những sự khác biệt lớn giữa các dự đoán thống kê về các thực tế mà ta chưa nghiên cứu cấu trúc và một phân tích cấu trúc-phát sinh.

[4]Các nghiên cứu xã hội học dạng này dừng lại ở mức độ xã hội học nội dung chỉ có thể tính đến một vài thành tố phụ, ngoại vi của tác phẩm.

[5]Ví dụ, từ giả thuyết về sự tồn tại của một cấu trúc có ý nghĩa, đó là chế độ độc tài; ta có thể đi đến việc tập hợp thành một nhóm các hiện tượng, ví dụ như các chế độ chính trị trong đó chính phủ có toàn quyền; nhưng nếu chúng ta thử nghiên cứu chỉ bằng một giả thuyết cấu trúc về sự hình thành tất cả các chế độ đó, ta dễ dàng nhận thấy rằng chế độ độc tài không phải là một cấu trúc được biểu hiện rõ ràng và cần phải phân biệt những nhóm độc tài có bản chất và ý nghĩa khác nhau; ngược lại các khái niệm như “chuyên chính cách mạng”, hoặc ngược lại là “chuyên chính Bonaparte hậu cách mạng”, dường như là những khái niệm có thể thao tác được.

Cũng vậy, mọi cố gắng để lý giải một cách đồng nhất các tác phẩm của Pascal (mà số lượng là rất lớn) đều không thành công bởi hai tác phẩm quan trọng nhất của ông - Những người tỉnh lẻ Tư tưởng - biểu hiện hai quan điểm khác nhau về bản chất. Ở đây, nếu muốn hiểu tác phẩm của Pascal thì cần phải xem xét chúng như các biểu hiện của hai cấu trúc khác biệt, mặc dù có một vài khía cạnh giống nhau.

[6]Đứng trên phương diện này, và nhất là trong xã hội học văn hóa, cần phải sử dụng sự chỉ dẫn bên ngoài và có tính chất định lượng. Nếu phải giải thích một văn bản viết, tất nhiên là có một số các bình luận khác nhau nghiên cứu khoảng 60-70% văn bản. Vì thế mà kết quả đó không thể được coi là khoa học. Ngược lại, rất hiếm khi có trường hợp có hai giải thích khác nhau cùng nghiên cứu khoảng 80-90% văn bản, và giả thuyết đưa đến kết quả đó rất có thể là giả thuyết đúng đắn. Xác suất này còn tăng lên nhiều nếu chúng ta có thể đưa cấu trúc được phân tích phát sinh làm rõ vào bên trong một tổng thể lớn hơn, và nếu ta có thể sử dụng nó một cách có hiệu quả để lý giải các văn bản khác (mà trước đó ta không để ý) và nhất là, như trong nghiên cứu của chúng tôi về bi kịch ở thế kỷ XVII, ta có thể làm sáng tỏ và thậm chí tiên đoán một số hiện tượng mà các chuyên gia và các nhà sử học bỏ qua.

[7]Chúng tôi ít biết đến các nhánh phát triển sau đó của phân tâm học nên xin miễn không nói đến.

[8]Tất nhiên là ta có thể thử lý giải đặc điểm này trong tác phẩm của Freud bởi việc ông là bác sĩ và chủ yếu nghiên cứu người bệnh, là những cá nhân mà sức mạnh hướng về quá khứ và về sự dồn nén vượt trội hơn những sức mạnh tích cực hướng về thế cân bằng và hướng về tương lai. Nhưng rất tiếc là phê bình trên cũng đúng với các tác phẩm triết học và xã hội học của Freud.

Trong toàn bộ tác phẩm của Freud, chỉ duy nhất một tác phẩm có từ “tương lai” (Tương lai của một ảo tưởng). Nội dung của tác phẩm này chứng minh rằng tương lai đó không tồn tại.

[9]Ngược lại, nghiên cứu xã hội học không thể mang lại nhiều thông tin về ý nghĩa trong tiểu sử và đối với cá nhân của tác phẩm và chỉ có thể giúp cho các nhà phân tâm học hiểu một số điều không mấy quan trọng đối với họ về các hình thức thỏa mãn các khát vọng cá nhân trong thực tế hay trong tưởng tượng, mà các cấu trúc tập thể - trong một giai đoạn lịch sử và một xã hội nhất định - giúp phát triển hoặc áp đặt.

  

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114576874

Hôm nay

273

Hôm qua

2299

Tuần này

273

Tháng này

223931

Tháng qua

130677

Tất cả

114576874