
Chạy Ói, một diễn trình đặc biệt trong lễ hội đền Cờn - Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Ảnh: Nguyễn Đạo
Di sản và câu chuyện di sản
Lâu nay, người ta hay phân biệt di sản thiên nhiên và di sản văn hóa, di sản phi vật thể và di sản vật thể… Những cách phân chia này có nhiều giá trị về việc xác nhận tính chất và phân cấp quản lý. Trong khi đó, các di sản tồn tại trong một trường quan hệ phức tạp bao gồm cả yếu tố tự nhiên và yếu tố văn hóa, yếu tố vật thể và yếu tố phi vật thể, hay yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần. Thực chất, không phải lúc nào cũng có thể phân chia một cách rạch ròi các di sản bởi nó phức tạp và nhiều khi không thể hiện được hết các giá trị của nó. Một di sản thiên nhiên cũng gắn với một cộng đồng, với những nền văn hóa và những con người nhất định, được cộng đồng đó gìn giữ, bảo vệ, và trở thành một phần văn hóa của cộng đồng đó. Ngược lại, một di sản văn hóa, nhiều khi cũng phải đặt trong một môi trường thiên nhiên nhất định và chịu tác động của môi trường đó. Hay một di sản vật thể cũng luôn có những giá trị phi vật thể đi cùng. Nói di sản vật thể hay phi vật thể là để nhấn mạnh cảm giác của con người với di sản đó bởi vật thể nghĩa là con người có thể cầm nắm, nhìn thấy, đo đếm được; còn phi vật thể là con người không nhìn thấy, không cầm nắm được. Còn khi nói di sản văn hóa vật chất và tinh thần là nhấn mạnh chức năng của nó là phục vụ đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người. Tuy nhiên, bất cứ di sản nào cũng có phần vật thể/vật chất và phần phi vật thể/tinh thần của nó. Một ngôi đền, chùa, đình, miếu, ngồi nhà, bộ áo quần… là những di sản văn hóa vật thể nhưng gắn với nó là những câu chuyện linh thiêng, những tri thức văn hóa tạo nên phần hồn của nó. Hay một bài hát, một bài mo, một lễ hội… ta thường coi nó là phi vật thể thì cũng luốn gắn với vật thể là người nghệ nhân hát nó, người thầy mo, là những vật chất phục vụ lễ hội… Hầu hết phần phi vật thể gắn liền với các di sản đó thường được tồn tại dưới dạng những câu chuyện.

Người dân bản Văng Môn tham gia tập huấn về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Ơ Đu và trao đổi về Câu chuyện cuộc đời của người Ơ Đu
Câu chuyện di sản là một hệ thống các tri thức gắn với sự hình thành, phát triển và các giá trị văn hóa của di sản đó. Khu Di tích Kim Liên là Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt, là di sản văn hóa quan trọng bậc nhất của Nghệ An cũng gắn với những câu chuyện về cuộc đời Bác Hồ, về các thành viên trong gia đình Bác và cả những câu chuyện của làng quê, hàng xóm của gia đình Bác. Khu Di tích Truông Bồn cũng gắn với câu chuyện về những nữ liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Khu di tích Đền Chín Gian và lễ hội Đền Chín Gian cũng gắn với những câu chuyện về lập mường lập bản của người Thái ở vùng Quế Phong… Tương tự như vậy, mỗi một cộng đồng cũng có những di sản văn hóa của riêng mình và những di sản đó cũng gắn với những câu chuyện do cộng đồng sáng tạo nên. Những con suối, những mó nước, những cánh rừng già trong tâm thức của các cộng đồng đều có những câu chuyện đi cùng. Ở đó, giải thích cho con cháu nhiều vấn đề văn hóa từ thuở cha ông để lại hay những mong ước được hun đắp từ nhiều thế hệ đã đi qua. Giống như câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh trăm trứng nở trăm con rồi một nửa lên rừng một nửa xuống biển… để nhắc nhở người Việt rằng chúng ta cùng một tổ tiên và phải biết đoàn kết, thương yêu nhau.
Câu chuyện di sản chính là sự sáng tạo của con người gắn với những di sản văn hóa của họ. Nói một cách văn vẻ thì đó là những “linh hồn” của các di sản văn hóa. Di sản vật thể hay phi vật thể đều có những câu chuyện di sản gắn liền với nó. Những câu chuyện di sản này được sáng tạo ra để giải thích một nguồn gốc lịch sử nào đó của cộng đồng, để tôn vinh một nhân vật nào đó có công lớn với cộng đồng, với dân tộc, hoặc để giải thích những hiện tượng tự nhiên, hiện tượng văn hóa xã hội theo cách tư duy của cộng đồng đó. Ở góc độ cá nhân, mỗi con người cũng luôn có những câu chuyện gắn liền với cuộc đời mình và nó cũng được coi là những câu chuyện di sản khi mà nó trở thành một phần trong lịch sử cộng đồng. Mỗi một đồ vật trong gia đình của họ cũng có những câu chuyện gắn với ông bà, cha mẹ, con cái, và đều là những di sản văn hóa bởi nó đã tham gia vào cuộc sống của con người và góp phần kiến tạo nên xã hội.
Khi ta nói đến những câu chuyện di sản chính là đi tìm những giá trị văn hóa phi vật thể gắn với di sản đó. Nó là phần cực kỳ quan trọng để tạo nên hệ thống giá trị văn hóa của di sản. Chúng ta hãy hình dung nếu một ngôi chùa hay đình, miếu… mà không có những câu chuyện tạo nên tính linh thiêng thì nó cũng chỉ là một ngôi nhà, một khối kiến trúc đất đá hay gỗ mà thôi. Câu chuyện di sản gắn những vật chất với cuộc sống của con người, với đời sống tinh thần của cộng đồng để tạo nên giá trị văn hóa, giá trị linh thiêng cho di sản đó. Câu chuyện di sản cũng thể hiện ký ức, tri thức, tâm thức, quan niệm, thế giới quan của con người chủ thể của các di sản đó. Chính vì vậy mà câu chuyện di sản có nhiều giá trị to lớn trong việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa.

Mỗi con người, mỗi hiện vật đều gắn với những câu chuyện di sản cộng đồng (nghệ nhân Lương Văn Pắn, xã Tương Dương, Nghệ An đang chia sẻ câu chuyện về việc làm nhạc cụ truyền thống dân tộc Thái)
Bảo tồn, phát huy di sản từ những câu chuyện cuộc đời
Một thời gian trước, khi trao đổi với những người Ơ Đu trong một khóa tập huấn về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Ơ Đu, tôi đã chia sẻ rất nhiều về câu chuyện di sản và vấn đề bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể từ các câu chuyện cuộc đời cũng như mong muốn hướng đến một chương trình Câu chuyện cuộc đời của người Ơ Đu (Ơ Đu Life Stories). Tôi đã cố diễn giải vấn đề này một cách đơn giản để những người tham gia dễ hình dung và dễ tiếp nhận nhất. Hiện tại, dân tộc Ơ Đu có khoảng hơn 400 người, mỗi người đều là một mảnh ghép tạo nên bức tranh văn hóa Ơ Đu. Mỗi người Ơ Đu đều có những câu chuyện riêng gắn với cuộc đời họ. Những câu chuyện đó cũng là một phần trong lịch sử văn hóa, xã hội của họ. Những người lớn tuổi có những câu chuyện của người lớn tuổi. Những người trẻ tuổi cũng có câu chuyện của người trẻ. Già làng, thầy mo… có những câu chuyện của già làng, của thầy mo, còn những người bình thường khác cũng có những câu chuyện của họ. Mỗi câu chuyện gắn với con người, với bối cảnh riêng và đều có những giá trị nhất định nên khó có thể so sánh với nhau được. Mỗi câu chuyện đó cũng thể hiện một giá trị, một ý nghĩa trong đời sống của người Ơ Đu theo cách hiểu và hành vi của chủ thể. Nếu có thể thành lập một diễn đàn từ công nghệ và tập huấn cho người Ơ Đu tham gia kể những câu chuyện cuộc đời của họ thì sẽ tạo thành một hệ thống dữ liệu rất lớn về dân tộc Ơ Đu. Mỗi người Ơ Đu cùng chia sẻ những câu chuyện riêng của họ và họ có hàng chục, hàng trăm câu chuyện để chia sẻ. Để kể mỗi câu chuyện, họ có thể sử dụng một bức ảnh, một đoạn video do họ tự chụp, tự quy với những nội dung gắn với cuộc sống của họ. Đó có thể là câu chuyện về làm một món ăn, dệt một tấm vải, làm một lễ cúng, một buổi lên nương… Hay chỉ chuyện làm một món ăn thì mỗi người cũng có một câu chuyện riêng bởi họ làm theo cách của họ, theo sở thích của họ dựa trên một nền tảng chung mà thôi… Điều đó làm cho câu chuyện cuộc đời của một con người đã rất đa dạng, của một cộng đồng lại càng đa dạng thêm. Nếu mấy trăm người Ơ Đu cùng chia sẻ thì sẽ tạo ra hàng ngàn, hàng vạn câu chuyện, và khi những câu chuyện này được kết nối với nhau thì tạo ra một hệ thống dữ liệu giúp cho người ta nhìn nhận về dân tộc Ơ Đu một cách toàn diện nhất. Đó chính là Câu chuyện của người Ơ Đu. Những chia sẻ này đã được nhiều người dân lắng nghe, trao đổi và cả các phóng viên phỏng vấn và sau đó phát trên VOV…

Lịch sử một cộng đồng cũng gắn với nhiều câu chuyện di sản qua các giai đoạn cụ thể (Già làng Lo Văn Cường đang kể những câu chuyện về quá trình tái định cư của người Ơ Đu đến bản Văng Môn)
Câu chuyện cuộc đời (Life Story) là một phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội khá phổ biến trên thế giới từ những năm 1970 đến nay. Trước đây được dùng để tiếp cận các nhóm yếu thế trong xã hội. Gần đây được vận dụng nhiều trong nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hóa, nhất là di sản văn hóa phi vật thể, và đặc biệt là đối với di sản ký ức. Câu chuyện cuộc đời nhấn mạnh đến yếu tố cá nhân và tập trung vào những câu chuyện trải nghiệm cá nhân của con người cụ thể trong bối cảnh, không-thời gian cụ thể. Ở đó, các cá nhân cụ thể được xem là các thành viên tạo nên xã hội và họ có tương tác với các cá nhân khác để tạo nên các quan hệ xã hội, kiến tạo nên cộng đồng và liên cộng đồng. Câu chuyện cuộc đời một người cũng là một mảnh ghép tạo nên câu chuyện cộng đồng, tạo nên bức tranh cộng đồng. Sở dĩ khi tôi đề cập đến chương trình Câu chuyện của người Ơ Đu và mong muốn có thể làm được là bởi ở nhiều nơi người ta đã thực hiện bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa qua câu chuyện cuộc đời và đạt được những kết quả to lớn.
Trước hết là trường hợp Giáo sư Stan BH Tan-Tangbau với chương trình Kachin Life Sitories ở Myanmar. Dựa vào công nghệ số và sự tương tác trên mạng xã hội, chủ yếu qua Facebook và Instagram, ông đã nỗ lực hợp tác với những người Kachin để họ tự chia sẻ những câu chuyện cuộc sống thường ngày thành một hệ thống dữ liệu. Những câu-chuyện-cuộc-sống bình thường, như ông nhấn mạnh: “Tôi chỉ muốn người Kachin chia sẻ những trích đoạn về cuộc sống của họ, những bức ảnh chụp cuộc sống hàng ngày hoặc những mẩu chuyện và những kỷ niệm, khi họ sống, nhớ nó và như họ muốn kể. Nói cách khác, họ có thể giải quyết những gì, khi nào, như thế nào và với ai họ muốn chia sẻ những câu chuyện”. Bắt đầu từ khoảng năm 2009 và số lượng câu chuyện ngày càng tăng dần, đến 2016 đã có khoảng 30.000 câu chuyện được người Kachin chia sẻ, và tạo thành một hệ thống dữ liệu lớn để cho người ta hiểu về người Kachin theo cách của mình. Cách tiếp cận của Stan về người Kachin đã tạo ra tiếng vang lớn trong giới nhân học và khẳng định sự hình thành của nhân học hợp tác, nhân học số.
Trường hợp thứ hai tôi có tham gia chính là chương trình Di sản ký ức các nhà khoa học do Trung tâm Di sản các nhà khoa học ở Hà Nội thực hiện từ năm 2009 đến nay. Qua những câu chuyện cuộc đời của các nhà khoa học Việt Nam, Trung tâm này đã sưu tầm hàng chục vạn hiện vật, tài liệu, phỏng vấn ghi âm ghi hình hàng triệu phút để lưu giữ những câu chuyện về cuộc đời của các nhà khoa học. Từ đó họ xây dựng nên một hệ thống dữ liệu lớn nhất về lịch sử khoa học ở Việt Nam mà nền tảng chính là những câu chuyện cuộc đời của những người làm khoa học đã có nhiều đóng góp cho đất nước. Từ đó họ tạo nên bảo tàng khoa học và hàng năm thu hút hàng vạn lượt khách du lịch đến tham quan.
Đây chỉ là một vài trường hợp tiêu biểu nhưng cho chúng ta thấy được giá trị quan trọng của việc sử dụng câu chuyện di sản, câu chuyện cuộc đời vào việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa. Bản thân những câu chuyện đó đã là di sản và nếu thực hiện sưu tầm, lưu giữ nó thật tốt thì sẽ góp phần to lớn vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa cộng đồng trong bối cảnh hiện nay./.
(Bài đã đăng VHTT Nghệ An số 19 - Tháng 11/2025)