Góc nhìn văn hóa

Chiến thắng 30/4/1975 - Dấu ấn lịch sử và chủ nghĩa anh hùng cách mạng

Năm 2025 đánh dấu 50 năm Chiến thắng 30/4/1975, sự kiện lịch sử quan trọng, khép lại cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mang lại độc lập, tự do và thống nhất cho dân tộc Việt Nam. Chiến thắng này không chỉ thể hiện đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn là kết quả của sự đoàn kết dân tộc, lòng yêu nước và ý chí kiên cường của Nhân dân. Nửa thế kỷ qua, âm vang của chiến thắng này vẫn mãi khắc sâu trong lòng mỗi người Việt, là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực tự cường và khát vọng hòa bình, độc lập, tự do.

Hành trình 21 năm kháng chiến - Bản anh hùng ca bất tử của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam

Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) và Hiệp định Giơ-ne-vơ đã xác lập vị thế mới cho Việt Nam, đồng thời mở ra thời kỳ đất nước bị chia cắt tạm thời với vĩ tuyến 17. Miền Bắc bước vào khôi phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong khi miền Nam rơi vào ách thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai - những thế lực quyết tâm chia cắt lâu dài đất nước. Từ những ngày đầu bị chia cắt, hành trình kháng chiến chống Mỹ bắt đầu âm thầm nhưng kiên cường. Đó là cuộc chiến của một dân tộc nhỏ về diện tích nhưng lớn về khí phách, đứng lên đối đầu với một cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần đại đoàn kết toàn dân và sự ủng hộ quốc tế, Nhân dân ta đã biến cuộc chiến tranh xâm lược thành cuộc chiến tranh nhân dân toàn diện, trường kỳ và chính nghĩa - thể hiện tầm vóc, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.

Ngay sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ kẻ thù chính là đế quốc Mỹ. Hội nghị Trung ương 6 (1954) đề ra nhiệm vụ xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương vững chắc cho sự nghiệp giải phóng miền Nam. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 15 (1959), Đảng đưa ra quyết sách lịch sử: Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân, là con đườnglấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của Nhân dân”[1].

Từ phong trào Đồng khởi, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời (1960), trở thành lực lượng nòng cốt. Trước đà phát triển của cách mạng, Mỹ chuyển từ “Chiến tranh đặc biệt” sang “Chiến tranh cục bộ”, đưa hàng chục vạn quân viễn chinh vào miền Nam, đồng thời tăng cường đánh phá miền Bắc.

Trong tình hình đó, Đảng ta chủ động phát động Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Đòn tiến công bất ngờ vào các trung tâm đầu não quân sự - chính trị của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã gây tổn thất lớn, làm chấn động nước Mỹ và dư luận quốc tế. Tổng thống Lyndon Johnson buộc phải tuyên bố không tái tranh cử, ngừng ném bom miền Bắc và chấp nhận đàm phán tại Paris. Dù chưa giành thắng lợi quân sự toàn diện, Mậu Thân 1968 là bước ngoặt chiến lược, phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và mở ra thời kỳ xuống thang chiến tranh của Mỹ. Từ đó, cách mạng bước sang giai đoạn mới, giành ưu thế chiến lược, mở rộng vùng giải phóng trên cả ba vùng: rừng núi, nông thôn và đô thị.

Trong các năm 1971-1972, nhiều chiến dịch lớn được triển khai như Đường 9 - Nam Lào, Trị - Thiên, và đặc biệt là Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” (12/1972), khi quân dân miền Bắc đánh bại cuộc tập kích B-52 của Mỹ. Đây là thắng lợi quyết định, buộc chính quyền Nixon phải ký Hiệp định Paris (27/1/1973), rút quân khỏi miền Nam và chấm dứt can thiệp quân sự trực tiếp. Tuy nhiên, Mỹ vẫn tiếp tục viện trợ cho chính quyền Sài Gòn. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 21 tái khẳng định con đường bạo lực cách mạng. Cuối năm 1974, đầu năm 1975, trong bối cảnh thuận lợi, Bộ Chính trị quyết định giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Ngày 4/3/1975, ta mở màn Chiến dịch Tây Nguyên với trận Buôn Ma Thuột thắng lợi lớn. Ngay sau đó, ta triển khai Chiến dịch Trị - Thiên - Huế và giải phóng Đà Nẵng - một trong những căn cứ quân sự lớn nhất miền Trung. Cuộc tổng tiến công diễn ra với khí thế thần tốc chưa từng có. Bộ Chính trị nhanh chóng điều chỉnh kế hoạch, rút ngắn thời gian giải phóng miền Nam từ hai năm xuống còn một tháng - xác định tháng 4/1975 là “thời cơ lịch sử ngàn năm có một”.

Chiến dịch Hồ Chí Minh - Đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng

Sáng 31/3/1975, Bộ Chính trị họp mở rộng và nhận định: “Cách mạng nước ta đang phát triển sôi nổi nhất với nhịp độ một ngày bằng 20 năm”. Vì vậy Bộ Chính trị quyết định, nắm vững thời cơ chiến lược với tư tưởng chỉ đạo: “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, có quyết tâm lớn thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng tư, không thể chậm”[2]. Quyết tâm đó thể hiện tầm nhìn chiến lược, bản lĩnh chính trị vững vàng và sự lãnh đạo đúng đắn, sắc bén của Đảng ta trước bước ngoặt lịch sử.

Ngày 8/4/1975, tại căn cứ Tà Thiết (Lộc Ninh), Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định, do Đại tướng Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh. Cùng ngày, yêu cầu tập trung tối đa lực lượng, phương tiện, kỹ thuật để mở chiến dịch trước mùa mưa. Ngày 14/4/1975, kế hoạch tổng tiến công được thông qua: quân ta tấn công từ năm hướng - Tây Bắc, Đông Bắc, Đông, Đông Nam, Tây - Tây Nam nhằm bao vây, tiêu diệt lực lượng chủ lực địch, chiếm các mục tiêu trọng yếu như Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất... và phát động nổi dậy trong nội đô. Chiến dịch mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh, thể hiện niềm tin và lòng biết ơn với Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập và dẫn đường cho cách mạng Việt Nam. Chiều 26/4/1975, chiến dịch chính thức bắt đầu. Năm cánh quân thần tốc áp sát nội đô Sài Gòn. Ngày 28/4, Trần Văn Hương chuyển giao quyền lực cho Dương Văn Minh trong nỗ lực đàm phán cuối cùng, nhưng lịch sử đã sang trang.

Sáng 30/4/1975, các cánh quân ta đồng loạt tiến công, đánh chiếm các vị trí then chốt. Đến 11h30, xe tăng của Quân Giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập. Lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh, đánh dấu thời khắc thiêng liêng: Miền Nam hoàn toàn giải phóng - đất nước thu về một mối. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng đã khép lại trọn vẹn bản anh hùng ca vĩ đại của dân tộc trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - mở ra kỷ nguyên mới: độc lập, thống nhất, hòa bình và phát triển.

Chủ nghĩa anh hùng cách mạng - Bản sắc tinh thần Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh

Chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975 là đỉnh cao chói lọi trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, hoàn thành sứ mệnh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà còn là bản hùng ca bất tử về tinh thần yêu nước, ý chí thống nhất và chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại Hồ Chí Minh. Đó là thắng lợi của trí tuệ, bản lĩnh và niềm tin sắt đá; là minh chứng cho sức mạnh vô địch của một dân tộc đoàn kết dưới ngọn cờ Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 30/4 đã hiện thực hóa khát vọng “Nam Bắc một nhà”, khẳng định chân lý: một dân tộc nhỏ bé về diện tích, kinh tế còn hạn chế, nhưng với đường lối đúng đắn và tinh thần đoàn kết, thì không thế lực nào có thể khuất phục.

Chiến thắng ấy là biểu tượng rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam - chủ nghĩa anh hùng mang đậm bản sắc dân tộc, được hun đúc từ truyền thống yêu nước ngàn đời, từ tinh thần “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. Đó là sự kết hợp linh hoạt giữa chiến tranh chính quy và du kích, giữa thế trận quân sự và lòng dân; là sự sáng tạo trong chiến đấu, bền bỉ trong tổ chức, quả cảm trong hy sinh. Không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của lực lượng hậu phương, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến - những người không mang quân hàm nhưng góp phần làm nên chiến thắng bằng sự hy sinh thầm lặng, tạo nên chiều sâu nhân văn và sức sống bền bỉ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Từ Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 đến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 - mỗi chiến dịch, mỗi chiến công đều là minh chứng cho bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Chiến dịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, với sự hiệp đồng chặt chẽ, thọc sâu táo bạo, đánh nhanh thắng nhanh, thể hiện tư duy chiến lược linh hoạt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Thắng lợi này là kết quả tổng hợp của sự lãnh đạo sáng suốt, truyền thống bốn nghìn năm giữ nước, tinh thần đoàn kết toàn dân, liên minh chiến đấu Đông Dương và sự ủng hộ của phong trào yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976), Đảng ta đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người; và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tinh thần thời đại sâu sắc.”[3]

Tiếp nối bản hùng ca - Viết tiếp chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại mới

Chiến thắng 30/4/1975 là biểu tượng rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh - nơi hội tụ ý chí quật cường, lòng yêu nước nồng nàn và khát vọng độc lập, tự do của cả dân tộc. Dù đã nửa thế kỷ trôi qua, hào khí Đại thắng mùa Xuân vẫn là ngọn lửa thiêng soi đường, tiếp thêm động lực để các thế hệ hôm nay tiếp bước cha anh, viết tiếp những trang sử vàng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Sau ngày thống nhất, đất nước bước vào giai đoạn đầy thử thách: nền kinh tế trì trệ, lạm phát phi mã tới 774,7%, quy mô kinh tế chỉ khoảng 26,88 tỷ USD, đời sống nhân dân vô cùng gian khó. Tuy nhiên, bằng bản lĩnh và trí tuệ, Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng, từ thời kỳ bao cấp, cấm vận, để đến năm 1986 khởi xướng công cuộc Đổi mới - bước ngoặt chiến lược về tư duy và thực tiễn. Từ đó, Việt Nam chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển. Đây là bước ngoặt chiến lược, mang tính đột phá, tạo động lực mạnh mẽ cho sự đổi mới, phát triển của đất nước trong suốt gần 40 năm qua. Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, với GDP chỉ 26,3 tỷ USD trong những năm đầu đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008; quy mô nền kinh tế đạt 430 tỷ USD, đứng thứ 35 trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Vào năm 2023, GDP bình quân đầu người đã đạt mức 4.300 USD, tăng 58 lần so với những năm đầu đổi mới. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 58% theo chuẩn cũ năm 1993 của Chính phủ xuống còn 2,93% theo chuẩn nghèo đa chiều vào năm 2023, đưa Việt Nam trở thành hình mẫu nổi bật về nỗ lực xóa đói giảm nghèo trong số các quốc gia đang phát triển. Từ một nền kinh tế đóng cửa, khép kín, Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu. Năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 700 tỷ USD; thu hút đầu tư nước ngoài đạt 23 tỷ USD[4].  Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,71 năm 2020, đưa Việt Nam vào nhóm “phát triển con người cao”, xếp hạng 117/189 quốc gia. Chỉ số vốn nhân lực (HCI) của Việt Nam đứng thứ hai Đông Nam Á, chỉ sau Singapore. Năm 2024, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 7,09%, là điểm sáng về phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong 2025-2030. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 786,29 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2023. Xuất siêu đạt 24,77 tỷ USD, đánh dấu năm thứ 9 liên tiếp xuất siêu. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 3.692,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5%, trong khi vốn FDI thực hiện đạt mức cao nhất từ trước đến nay, 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm 2023, dù trong bối cảnh đầu tư toàn cầu sụt giảm.

Hạ tầng kỹ thuật, giao thông, đô thị và nông thôn phát triển mạnh mẽ. Năng lực nội sinh và khả năng chống chịu trước biến động toàn cầu ngày càng được nâng cao. Đổi mới không chỉ là đột phá về kinh tế, mà còn tác động sâu rộng đến thể chế, khoa học công nghệ, giáo dục, văn hóa và đối ngoại. Hệ thống pháp luật được hoàn thiện, khoa học - công nghệ và chuyển đổi số được thúc đẩy, giáo dục đổi mới toàn diện, chú trọng nhân lực chất lượng cao. Quốc phòng - an ninh được củng cố; vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng nâng cao. Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư quốc tế, là thành viên tích cực trong nhiều tổ chức lớn như ASEAN, APEC, CPTPP, RCEP… Những thành tựu đó không chỉ khẳng định đường lối Đổi mới đúng đắn của Đảng, mà còn minh chứng cho sức sống mãnh liệt của tinh thần yêu nước, ý chí tự lực - tự cường, là biểu hiện sinh động của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời bình.

Ngày nay, đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc đến năm 2045 - kỷ niệm 100 năm thành lập nước đang thôi thúc toàn dân hành động quyết liệt, sáng tạo và đồng lòng hơn bao giờ hết. Văn kiện Đại hội XIII đã nêu rõ định hướng: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"[5].

Để hiện thực hóa khát vọng đó, cần phát huy tinh thần anh hùng cách mạng trong từng lĩnh vực. Trước hết là hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ, đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và thể chế chính trị hiện đại, hiệu quả - yếu tố then chốt cho phát triển bền vững. Đồng thời, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phải được coi là đột phá chiến lược, góp phần tăng năng suất, hiệu quả quản trị và sức cạnh tranh quốc gia. Chính sách, pháp luật cần phù hợp với thông lệ quốc tế và có tính đặc thù, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Giáo dục - đào tạo cần tiếp tục đổi mới thực chất, tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của kinh tế số, kinh tế xanh, công nghệ cao và lĩnh vực sáng tạo. Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa cần gắn liền với cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao khả năng thích ứng với biến động và hướng tới phát triển bền vững. Cùng với đó, cần phát triển hạ tầng hiện đại, đồng bộ, khai thác hiệu quả các không gian phát triển mới, lấy đô thị làm động lực tăng trưởng vùng và nông thôn làm nền tảng. Đặc biệt, cần phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam như một động lực nội sinh cốt lõi cho phát triển. Đây là quá trình kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại, giữa xác lập những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức mới với việc khơi dậy và lan tỏa các giá trị tốt đẹp vốn có trong con người Việt Nam - tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, trách nhiệm, tiềm năng sáng tạo và khát vọng vươn lên không ngừng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ: “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[6]. Đây chính là lời hiệu triệu thiêng liêng của thời đại mới, là kim chỉ nam hành động cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong sự nghiệp tiếp bước cha anh, đưa đất nước ta vững bước tiến vào tương lai hùng cường, thịnh vượng./.

 

 

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG - ST, Hà Nội, T.20, tr.82.

[2] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hồi ký Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 172.

[3] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976). Dẫn theo Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tậpTập 37 (1976), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.471.

[4] Xem bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”.

 

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,t.1,tr.111-112.

 

[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 34, 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114561783

Hôm nay

2211

Hôm qua

2334

Tuần này

2896

Tháng này

229326

Tháng qua

122920

Tất cả

114561783