Góc nhìn văn hóa

"Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước"

Quảng trường Ba Đình rợp cờ Tổ quốc trong Lễ diễu binh diễu hành kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hoà XHCN Việt Nam 02/9. Ảnh: Ngọc Mai

Trong tâm thức và trái tim mỗi người dân Việt Nam gần 1 thế kỷ qua, lá cờ đỏ sao vàng không chỉ đơn thuần là một tấm vải được kết bằng màu đỏ và vàng, mà nó là biểu tượng thiêng liêng cho độc lập, tự do của cả một quốc gia, dân tộc.

Trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23.11.1940, lần đầu tiên, lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện và được tung bay trong những ngày tranh đấu của những người dân nô lệ, như là một sự hội tụ của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và khát vọng độc lập, tự do. Ngày 19.8.1945, Hà Nội rợp trời cờ hoa. Lá cờ đỏ sao vàng đã hãnh diện tự do tung bay khắp phố phường Hà Nội. Bài hát “Tiến quân ca” được vang lên dưới trời thu lộng gió.

Ngày 2.9.1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” tại quảng trường Ba Đình, lá cờ đỏ sao vàng ấy lại phấp phới tung bay trước toàn thể quốc dân, khẳng định tất yếu sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tròn 80 năm qua, lịch sử dân tộc ta trải qua nhiều bước phát triển với nhiều mốc son chói lọi đánh dấu những bước ngoặt lịch sử to lớn.

1.    Lá cờ Tổ quốc luôn song hành và được khắc ghi trong các bản Hiến pháp của Việt Nam.

Ngày 19/8/1945, Hà Nội rợp trời lá cờ đỏ sao vàng giữa trời thu lộng gió. Từ Hà Nội, lá cờ ấy lần lượt hiện hữu và hãnh diện, tự hào tung bay trên kinh thành Huế, Sài Gòn và nhiều địa phương khác trên toàn quốc. Niềm vui vỡ òa trong hàng triệu ánh mắt, nụ cười, trong tiếng hô vang “Việt Nam độc lập muôn năm”. Hình ảnh của lá cờ đỏ sao vàng đó được cắm trên các trụ sở của chính quyền thuộc địa mà cách mạng đã giành được ở khắp 3 miền Bắc - Trung - Nam, khẳng định quyền làm chủ của Nhân dân ta sau gần 1 thế kỷ chịu ách thống trị của chủ nghĩa thực dân (1858-1945).

Chiều ngày 2/9/1945, tại Vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình), khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời bước lên bục đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, trước mặt, phía sau, bên phải, bên trái Người là rợp trời lá cờ đỏ sao vang tung bay. Hình ảnh ấy đã đi vào lịch sử Việt Nam tròn 80 năm trước và in đậm trong tâm trí nhiều thế hệ, là biểu tượng cho một kỷ nguyên mới: một dân tộc từ trong nô lệ kiêu hãnh đứng lên giành lại quyền làm chủ đất nước.

Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chính phủ lâm thời quyết định tiến hành Tổng tuyển cử trên cả nước để bầu ra Quốc hội đầu tiên của một nước Việt Nam mới, công bố Hiến pháp đầu tiên năm 1946. Bản Hiến pháp này, tại Điều 3 đã quy định rõ “Quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nền đỏ, giữa có sao vàng 5 cánh”. Dù đây là bản hiến pháp đầu tiên trong bối cảnh của nhà nước cách mạng non trẻ vừa ra đời phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách bởi “thù trong, giặc ngoài”, đất nước rơi vào tình trạng như “ngàn cân treo sợi tóc”, việc ghi nhận quốc kỳ trong những điều khoản đầu tiên của hiến pháp mang một ý nghĩa đặc biệt. Cùng với Quốc ca là bài hát Tiến quân ca, Quốc kỳ khẳng định tính chính danh, tính pháp lý của lá cờ đỏ sao vàng, đồng thời nó cũng gửi đi một thông điệp: Quốc kỳ chính là khẳng định linh hồn của Tổ quốc và là biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết toàn dân trong một chính thể mới, một kỷ nguyên mới.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ ne vơ 1954, đất nước tạm thời chia thành 2 miền. Miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc. Năm 1959, để đáp ứng với hoàn cảnh mới, tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới, bản Hiến pháp mới được bạn hành. Trong Chương I, Điều 101 của Hiến pháp năm 1959 tiếp tục khẳng định: “Quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nền đỏ, giữa có sao vàng 5 cánh”.

Sự lặp lại nguyên văn quy định từ Hiến pháp 1946 cho thấy sự thống nhất, liên tục trong nhận thức và pháp lý về Quốc kỳ. Lá cờ đỏ sao vàng lúc này vừa là biểu tượng của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa là ngọn cờ cổ vũ đấu tranh cách mạng miền Nam, trở thành biểu tượng bất khuất của tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.

Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối. Năm 1976, Quốc hội khóa VI đã quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Hiến pháp 1980 ra đời.

Trong Chương I, Điều 142 của Hiến pháp 1980 ghi: “Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền đỏ, ở giữa có sao vàng 5 cánh”. Điều đáng chú ý là tên nước đã thay đổi, tên Đảng cũng thay đổi từ Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng quy định về Quốc ca, Quốc kỳ vẫn giữ nguyên. Lá cờ đỏ sao vàng tiếp tục được khẳng định là biểu tượng có sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biểu trưng cho thành quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất Tổ quốc.

Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện, hội nhập sâu rộng và phát triển, cần phải có một bản hiến pháp mới. Hiến pháp 1992 được ban hành trong bối cảnh mới nhằm thể chế hóa đường lối Đổi mới. Tại Chương I, Điều 141, Hiến pháp 1992 quy định: “Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền đỏ, ở giữa có sao vàng 5 cánh”.

Một lần nữa, lá cờ đỏ sao vàng được khẳng định với đầy đủ giá trị pháp lý, lịch sử và tinh thần.

Bước sang thời kỳ đất nước hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, Hiến pháp năm 2013 được ra đời trong bối cảnh đất nước đã trải qua gần 30 năm đổi mới. Trong Điều 13 của Hiếp pháp năm 2013 ghi rõ : “Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền đỏ, ở giữa có sao vàng 5 cánh”.

Qua 5 bản hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992, 2013), quy định về Quốc kỳ đều nhất quán “nền đỏ, giữa có sao vàng 5 cánh”. Dù tên Đảng, tên Nước thay đổi trong từng bối cảnh lịch sử  nhưng Quốc kỳ vẫn là bất biến. Điều này thể hiện sự ổn định, bền vững của một biểu tượng thiêng liêng gắn bó với vận mệnh quốc gia dân tộc. 

2.    Lá cờ luôn gửi gắm niềm tin chính nghĩa và ghi dấu những thắng lợi lịch sử to lớn.

Trong 9 năm toàn kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954), lá cờ đỏ sao vàng hiện diện ở khắp chiến khu Việt Bắc, trên nương rẫy, dưới hầm hào, và đặc biệt là trên chiến hào Điện Biên phủ. Lá cờ đỏ sao vàng được ghi hàng chữ “Quyết chiến quyết thắng” đã hãnh diện tung bay trên nóc hầm của tướng Đờ cát tơ ri chiều ngày 7.5.1954 đã trở thành biểu tượng cho chiến thắng “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Và cũng lần đầu tiên trong lịch sử, lá cờ đỏ sao vàng thiêng liêng ấy đã hiên ngang tung bay tại một diễn đàn ngoại giao đa phương lớn của quốc tế, sánh ngang cùng quốc kỳ các cường quốc tại Hội nghị Giơ ne vơ 1954. Đó không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mà còn là sự khẳng định với thế giới rằng, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, có vị trí trên trường quốc tế.

Dù sau đó đất nước tạm thời chia cắt hai miền, nhưng lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên đất Thụy Sỹ của châu Âu văn minh, hùng cường, một châu lục của nhiều cường quốc thực dân đã thắp lên một niềm tin bất diệt vào thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về dân tộc ta.

Trải qua gần 2 thập kỷ sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn quyết liệt thì là cờ đỏ sao vàng lại một lần nữa ngang nhiên xuất hiện tại Hội nghị Paris năm 1973. Tại Hội nghị 4 bên chính thức diễn ra từ tháng 1.1969 của Đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, đoàn Chính phủ Hoa Kỳ và đoàn của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Từ đó, trên bàn hội nghị, 2 lá cờ sao vàng và lá cờ sao vàng nửa đỏ nửa xanh đã tung bay hiên ngang, sánh cùng các quốc kỳ khác.

Sự hiện diện của lá cờ đỏ sao vàng tại thủ đô Paris mang ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Đó là minh chứng hùng hồn cho tính chính danh của cuộc kháng chiến chính nghĩa mà dân tộc ta tiến hành vì nền độc lập, tự do. Đặc biệt, sự xuất hiện song song của 2 lá cờ đỏ sao vàng (một với nền đỏ sao vàng, môt với nền đỏ xanh và ngôi sao vàng ở giữa) khẳng định rằng, cả dân tộc Việt Nam từ Bắc đến Nam đều chung một lý tưởng, một khát vọng độc lập, thống nhất.

Hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973 đã buộc Mỹ phải cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, phải rút hết quân về nước, chấm dứt can thiệp quân sự trực tiếp vào miền Nam Việt Nam. Lá cờ đỏ sao vàng một lần nữa trở thành biểu tượng chiến thắng của ý chí tự cường, tinh thần chiến đấu ngoan cường, là thắng lợi của trí tuệ và bản lĩnh ngoại giao Việt Nam.

Từ Giơ ne vơ 1954 đến Paris 1973, lá cờ đỏ sao vàng không chỉ là quốc kỳ của một dân tộc mà còn là ngọn cờ của chính nghĩa, của khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất. Hai lần hiện diện tại 2 hội nghị quốc tế lớn với sự có mặt của nhiều cường quốc đã khẳng định vị thế, uy tín và sức mạnh bất diệt của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế. Đó là niềm tự hào để mỗi người dân Việt Nam hôm nay và mai sau phải tiếp tục giữ gìn, bảo vệ, phát huy những thành quả và giá trị bất biến, để lá cờ Tổ quốc mãi tung bay trên bầu trời non sông đất nước và trên trường quốc tế.

3.    Thời kỳ đổi mới mạnh mẽ, hội nhập quốc tế sâu rộng.

Trong 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, hình ảnh của lá cờ đỏ sao vàng không chỉ là dấu hiệu thắng lợi của cách mạng mà hình ảnh đó còn là biểu trưng cho niềm tin và khát vọng của cả một dân tộc.

Sau ngày thống nhất đất nước, là cờ đỏ sao vàng ấy đã càng trở nên thân thuộc, thiêng liêng với mọi người dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Lá cờ Tổ quốc không chỉ tung bay khắp non sông gấm vóc, núi sông đồng ruộng Việt Nam mà còn hiện diện ngày càng nhiều trên các diễn đàn quốc tế. Sự hiện diện ấy không chỉ mang ý nghĩa chính trị, ngoại giao mà còn là sự khẳng định vị thế, bản lĩnh và khát vọng hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển của quốc gia Việt Nam trong cộng đồng thế giới.

Một trong những sự kiện trọng đại sau năm 1975 là ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 149 của tổ chức Liên Hợp Quốc. Tại trụ sở của tổ chức này ở New York (Hoa Kỳ), lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên tung bay cùng quốc kỳ các nước thành viên Liên Hợp quốc đã đánh dấu sự khẳng định chủ quyền, vị trí và tiếng nói Việt Nam trên trường quốc tế. Đó là khoảnh khắc đầy xúc động và tự hào, chứng minh rằng, Việt Nam từ một dân tộc từng phải làm phận một nước thuộc địa, từng bị chia cắt và phải đổ máu để giành độc lập, thống nhất trong chiến tranh, từng bị bao vây, cô lập sau chiến tranh, nay đã đường hoàng hiện diện trong “ngôi nhà chung” của nhân loại.

Từ năm 1977 đến nay, lá cờ Tổ quốc đã xuất hiện đều đặn trong các hội nghị, khóa họp của Đại hội đồng Liên Hợp quốc, trong các phiên họp của Hội đồng Bảo an khi Việt Nam được tín nhiệm bầu làm Ủy viên Không thường trực của Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021. Lá cờ ấy chính là lời khẳng định: Việt Nam là một quốc gia có trách nhiệm, chủ động, tích cực đóng góp vào hòa bình, hợp tác và phát triển toàn cầu.

Từ Liên Hợp quốc, Quốc kỳ Việt Nam còn tung bay tại nhiều tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Năm 1995, Việt Nam chính gia nhập ASEAN rồi đến gia nhập các tổ chức quan trọng  như APEC, WTO, ASEM, UNESCO, WHO…, ký văn bản với các đối tác để trở thành Đối tác chiến lược, Đối tác chiến lược toàn diện, lãnh đạo Việt Nam thăm cấp nhà nước với nhiều quốc gia khác. Cứ mỗi lần lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong các sự kiện quốc tế đều là minh chứng sinh động cho đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam, là thêm một sự kiện góp phần khẳng định Việt Nam là một phần quan trọng và tích cực trong cộng đồng thế giới.

Không chỉ trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao, lá cờ Tổ quốc còn hiện diện trên các đấu trường thể thao, các cuộc thi trí tuệ Olympic quốc tế và giao lưu văn hóa quốc tế. Tại các kỳ SEA Games, ASIAD, Olympic, mỗi lần Quốc ca Việt Nam vang lên, lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên. Đó là khoảnh khắc thiêng liêng, khơi dậy niềm tự hào dân tộc và khát vọng vươn lên chinh phục đỉnh cao. Có lẽ hàng chục triệu khán giả Việt Nam chẳng bao giờ quên được hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên tuyết trắng trong chiến thắng của U23 Việt Nam tại Thường Châu năm 2018, của đội tuyển bóng đá nữ giành vé tham dự World Cup 2023 hay các kỳ SEA Games mà Việt Nam giành chiến thắng. Màu cờ sắc áo ấy, hàng vạn khán giả trên các khán đài được nhuộm một màu đỏ ấy đã trở thành biểu tượng tinh thần gắn kết hàng triệu con tim người Việt trong và ngoài nước.

Sắc đỏ ngập tràn Quảng trường Ba Đình trong Lễ diễu binh, diễu hành mừng 80 năm Quốc khành nước CHXHCN Việt Nam. Ảnh: Ngọc Mai

Sự hiện diện về thời gian, số lượng, tần suất, mật độ của lá cờ đỏ sao vàng trên nhiều diễn đàn quốc tế đã khẳng định chủ quyền, bản sắc quốc gia. Mỗi lần lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện là mỗi lần khẳng định rằng, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền và bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Đó cũng là sự thể hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác. Lá cờ Tổ quốc gắn liền với hình ảnh một Việt Nam yêu chuộng hòa bình, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Đó cũng là sự khơi dậy niềm tự hào dân tộc của người dân Việt Nam khi thấy hình ảnh quốc kỳ Việt Nam tung bay trên các diễn đàn quốc tế lại thêm một lần tự hào, là động lực phấn đấu, khẳng định ý chí vươn lên sánh vai cùng bè bạn năm châu.

4.    Lá cờ ấy là biểu tượng bất diệt luôn trong tim mỗi người Việt Nam.

80 năm qua, là cờ Tổ quốc đã chứng kiến và đồng hành cùng dân tộc Việt Nam. Từ trong khí thế hào hùng của cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23/11/1940 đến ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai tử chế độ thuộc địa, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp 1945 -1954 đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng đến thời hội nhập và phát triển.

Lá cờ đỏ sao vàng không chỉ là biểu tượng pháp lý mà còn là biểu trưng cho linh hồn dân tộc, là niềm tin, là sức mạnh tinh thần vô giá. Lá cờ đỏ sao vàng chứa đựng ý nghĩa sâu xa: nền đỏ tượng trưng cho cách mạng, cho máu đào của bao thế hệ đã cống hiến và hy sinh cho Tổ quốc. Ngôi sao vàng 5 cánh tượng trưng cho hồn của nước, cho khối đại đoàn kết toàn dân sỹ, nông, công, thương, binh.

Với mỗi người Việt Nam, lá cờ đỏ sao vàng luôn ở trọng tim. Nó không chỉ hiện diện trong các sự kiện lịch sử, lá cờ Tổ quốc còn sinh động, sống động trong từng ngôi nhà, ngôi làng, góc phố. Mỗi dịp lễ, Tết, ngày kỷ niệm trọng đại, người dân lại treo cờ Tổ quốc trước ngõ, trước hiên nhà.

Tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, những người lính của Bộ Tư lệnh cảnh vệ vẫn hàng ngày tổ chức nghiêm trang lễ thượng cờ, lễ chào cờ Tổ quốc lúc mờ sáng và lễ hạ cờ lúc trời bắt đầu khuya.

Với những người lính biển, phải xa gia đình, quê hương vì chủ quyền biển đảo thì lá cờ Tổ quốc như một báu vật thiêng. Tại quần đảo Trường Sa và các Nhà dàn DK, giữa biển khơi muôn trùng sóng vỗ, nơi đầu sóng ngọn gió, lá cờ Tổ quốc càng thêm thiêng liêng, là linh hồn, là sứ mệnh từ trái tim, là lời thề son sắt mà những người lính hải quân nguyện giữ bằng cả máu xương để khẳng định chủ quyền và tiếp thêm niềm tin cho dân tộc. Trong Điều lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam, khi buộc phải rời tàu, Thuyền trưởng phải chịu trách nhiệm mang theo Quốc kỳ và các tài liệu quan trọng theo quy định. Trong trường hợp không thể mang theo tài liệu, Thuyền trưởng buộc phải hủy, nhưng với Quốc kỳ thì phải mang theo. Điều đó là quá đủ để khẳng định, cờ Tổ quốc có ý nghĩa lớn lao như thế nào với những người lính đảo.

Trên bong tàu Hải quân, nghi thức chào cờ luôn là khoảnh khắc thiêng liêng nhất. Tôi đã từng được may mắn ra thăm quần đảo Trường Sa và Nhà dàn DK1/7 nên càng hiểu điều này. Lính đảo thường tổ chức lễ chào cờ Tổ quốc, hát Quốc ca và đọc “10 Lời thề danh dự” của quân nhân trước cột mốc chủ quyền, trong lễ tưởng niệm các liệt sỹ Gạc Ma đầy thiêng liêng và xúc động. Họ hướng đôi mắt về lá cờ đỏ sao vàng bay trong gió biển, nghiêm trang hát “Đoàn quân Việt Nam đi…” như một sự thầm hứa, dù bất kỳ hoàn cảnh nào họ vẫn sẽ luôn chắc tay súng giữ gìn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.

Trên các Nhà dàn DK giữa biển khơi, lá cờ đỏ sao vàng không chỉ là biểu tượng của chủ quyền bất khả xâm phạm mà còn là điểm tựa, niềm tin để các cán bộ, chiến sỹ vững vàng dẫu gió rít hay sóng dồn, bão giật. Lá cờ đỏ sao vàng ấy vẫn phần phật tung bay bên những ngọn hải đăng đặc biệt trên Nhà dàn.

Nơi biển xa, không chỉ với những người lính hải quân, mà với mỗi ngư dân Việt Nam khi đánh cá xa bờ, lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên mũi tàu cũng là một niềm tự hào lớn lao, là điểm tựa tinh thần giúp họ tự tin, vững vàng trước biển cả mênh mông. Ở đâu có lá cờ đỏ sao vàng, ở đó thấy Tổ quốc. Ở đâu là Tổ quốc, ở đó sẽ có lá cờ đỏ sao vàng.

Trong tâm trí tuổi trẻ, lá cờ Tổ quốc là niềm tự hào, là ước mơ, là khát vọng. Hình ảnh các em học sinh phổ thông ở các trường học, dù thành thị hay nông thôn, dù trong Nam hay ngoài Bắc, cứ mỗi sáng thứ hai đầu tuần, các em lại được chào cờ, hát quốc ca. Lễ chào cờ đã trở thành một nghi thức thiêng liêng để nhắc nhở và giáo dục thế hệ trẻ tình yêu quê hương, đất nước.

Nhìn lại chặng đường 80 năm lịch sử ấy, mỗi người dân Việt Nam đều cảm nhận rất rõ rằng: chừng nào trên bầu trời Tổ quốc còn tung bay lá cờ đỏ sao vàng thì chừng đó, dân tộc Việt Nam còn vững bước trên con đường xây dựng và bảo vệ độc lập, tự do, hạnh phúc.

Hôm nay, đất nước Việt Nam đang hân hoan, xúc động, tự tin, tự hào đón chào ngày Đại lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2.9. Lá cờ đỏ sao vàng ấy lại tung bay trên Quảng trường Ba Đình, khắp các con đường, góc phố giữa lòng thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến và trên khắp mọi miền quê hương đất nước. Lá cờ đỏ sao vàng đó như là sự nhắc nhở các thế hệ hôm nay tiếp tục kế thừa, giữ vững và phát huy giá trị của độc lập, tự do, để kiến thiết đất nước ngày một vững mạnh trong vận hội mới, kỷ nguyên mới.

Nhạc sỹ Phạm Tuyên có một bài hát nổi tiếng và có lẽ đây cũng là một trong những ca khúc hay nhất về lá cờ đỏ sao vàng, đó là bài “Màu cờ tôi yêu”. Bài hát không chỉ là tiếng lòng của người nhạc sỹ tài hoa mà còn như là một lời nhắn nhủ đến mỗi người Việt Nam: yêu Tổ quốc thì hãy yêu lấy cờ Tổ quốc. Bởi, “hồng như màu của tình yêu, đỏ như màu máu của mình em ơi…”.

Bởi màu cờ đó là “cờ in máu chiến thắng mang hồn nước” mà cố nhạc sỹ Văn Cao đã khẳng định trong bài hát Quốc ca bất tử!

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114606007

Hôm nay

269

Hôm qua

2449

Tuần này

2951

Tháng này

221259

Tháng qua

131673

Tất cả

114606007