Góc nhìn văn hóa

Đặc sắc văn hóa của người Khơ - mú.

Lớp tập huấn bảo tồn - truyền dạy VHPVT dân tộc Khơ Mú do Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam tổ chức tại Nghệ An

 

Khơ - mú là một trong những dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơme của ngữ hệ Nam Á. Tại Việt Nam, theo điều tra dân số năm 2019 có 90.612 người Khơ - mú, cư trú rải rác tại 44/63 tỉnh, thành phố; tập trung đông nhất tại tỉnh Nghệ An, ngoài ra đồng bào còn cư trú ở các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Thanh Hóa…

Người Khơ - mú ở Nghệ An có nguồn gốc từ Lào di cư sang cách đây khoảng 200 năm, sống tập trung chủ yếu ở một số xã khu vực miền Tây Nghệ An (thuộc các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong trước đây).

Đời sống văn hóa của người Khơ - mú thường gắn với các ngày lễ hội, đặc biệt là Tết Grơ theo phong tục riêng của dân tộc mình. Trong thời gian đón Tết, họ tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ với nhiều điệu múa, nhạc cụ tự tạo như: Kèn môi, ống gõ, đàn, trống, sáo,. Trong đó, hoạt động đặc sắc mang đặc trưng dân tộc là hát Tơm. Ngoài lễ hội trong những ngày Tết Grơ, dân tộc Khơ - mú còn tổ chức các ngày lễ: Lễ tra hạt, lễ cùng hồn lúa, lễ mừng cầu mới,...

Bản làng của người Khơ - mú thường chỉ có từ 10 - 20 nóc nhà và do lối sống du cư nên nhà của họ rất đơn giản, chỉ là cột tre, mây nứa, sàn bương,... Xã hội người Khơ - mú trước đây là một xã hội phụ thuộc vào người Thái, một số bản làng cư trú gần người Mông thì lệ thuộc vào người Mông. Trưởng bản là trưởng tộc của dòng họ có số dân đông nhất trong bản. Tài sản có giá trị của người Khơ - mú là đàn bò và số chiêng có được. Sự phân hóa giàu nghèo không lớn. Tính tương trợ cộng đồng rất cao và hình thức đổi công trong sản xuất rất phổ biến. Trong bản, nếu một nhà còn ăn thì cả bản còn ăn. Gia đình người Khơ - mú phần lớn là gia đình phụ quyền, người cha, người chồng là chủ gia đình. Đồng bào rất coi trọng dư luận xã hội, coi đó là một cơ chế điều chỉnh hành vi để duy trì sự ổn định của xã hội.

Dân tộc Khơ - mú vốn có truyền thống văn hóa lâu đời, tuy cuộc sống vật chất còn nghèo, nhưng đời sống tinh thần phong phú với nhiều nét văn hoá độc đáo riêng biệt.

http://vanhoanghean.com.vn/storage/photos/3/Kh%C6%A1%20M%C3%BA/Kho%20mu.jpg

Trình diễn cồng chiêng của nghệ nhân dân tộc Khơ Mú

Nhạc cụ dân gian là một trong những đặc trưng nổi bật nhất của người Khơ - mú.  

Người Khơ - mú sở hữu nhiều thể loại nhạc cụ dân gian độc đáo gồm: bộ nhạc khí (sáo dọc ba lỗ, sáo dọc bốn lỗ, sáo ngang, khèn bè); bộ gảy (đàn trống, đàn môi); bộ gõ (ống gõ, ống giỗ, cồng chiêng). Các loại nhạc cụ của người Khơ - mú thường được dùng vào các dịp lễ, Tết, cưới xin, mừng nhà mới, hay những dịp lễ hội của cộng đồng.

Tót tơm là một trong những loại sáo dọc đặc trưng của người Khơ - mú, được chế tác từ phần ngọn của một thân cây nứa nhỏ, có chiều dài khoảng 55cm, đường kích phần cuối sáo khoảng 1 - 1,5cm và thon nhỏ dần cho tới phần đầu là khoảng 0,6cm. Tại phần nhỏ này, người ta tạo lưỡi gà bằng cách khía và tách ngay một lát nứa mỏng có chiều dài khoảng 2,5cm và chiều rộng khoảng 0,3cm. Tót tơm có 4 lỗ bấm cao độ, trong đó 3 lỗ trên mỗi lỗ cách nhau chừng 3cm, 1 lỗ dưới nằm ngay ở phần lỗ đầu tiên cách nhau khoảng 4cm. Lỗ bấm dưới này do ngón tay cái điều khiển. Âm thanh của loại sáo này không trong mà hơi khàn khàn. Ngoài dùng để độc tấu, Tót tơm được sử dụng phổ biến để đệm theo giai điệu của những bài Tơm. Tót tơm do nam giới sử dụng, không dùng trong tang lễ và các lễ tục tín ngưỡng khác.

Th’roông (đàn môi) của người Khơ - mú được làm từ một thanh tre hoặc nứa già để khô. Dài chừng 14cm, phần rộng nhất của thân đàn khoảng 1,5cm. Hình dáng chiếc đàn này cơ bản giống với những chiếc đàn môi bằng kim loại của nhiều dân tộc thiểu số khác. Do đó phương pháp diễn tấu giống nhau nhưng khi biểu diễn, âm thanh của chiếc đàn môi này không vang sâu như những chiếc làm từ kim loại mà hơi khàn khàn, cộng với tiếng lách cách của thanh tre tạo ra sự độc đáo riêng. Đàn môi cũng là nhạc cụ không dùng cho mục đích tín ngưỡng. Nhạc cụ này chủ yếu do nam giới sử dụng, dùng độc tấu, đôi khi dùng đệm cho hát trong những dịp hội vui của bản làng.

Tót mu (sáo mũi) được làm từ thân cây nứa già, nhỏ, có chiều dài trung bình khoảng 60cm, đường kính từ 2 - 2,5cm. Sáo chỉ có một lỗ duy nhất nằm cách cuối thân sáo khoảng 2cm, lúc thổi cho ra hai cao độ khác nhau. Khi nghe, ta sẽ được nghe một cuộc “đối đáp” giữa hai loại âm thanh: một phát ra từ cây sao và một là những lời hát phát ra từ miệng người biểu diễn. Người ta thổi tót mu theo giai điệu của những bài ru con, hoặc giai điệu của bài Tơm. Tót mu sử dụng trong sinh hoạt giải trí, không dùng trong các nghi lễ tín ngưỡng.

Đao đao được làm từ một ống nứa, vốn là một công cụ sản xuất vô cùng sáng tạo của người Khơ - mú. Ngôi nhà truyền thống của đồng bào là dạng nhà sàn, mái lợp cỏ gianh và liên kết với nhau bằng tre, nứa, lạt. Đo gianh, trải gianh là công việc thường xuyên khi làm và bảo dưỡng mái nhà. Ống nứa nhỏ này được sử dụng trong quá trình kết gianh làm mái nhà và trở thành một dụng cụ hữu dụng. Việc cải tiến vật dụng, công cụ lao động thành nhạc cụ của người Khơ - mú là cả một quá trình dài và là sáng tạo mang tính đột phá, kết tinh tri thức dân gian. 

Ngoài những nhạc cụ trên, đồng bào Khơ - mú còn có trống, chiêng và não bạt... Trống của người Khơ - mú chỉ có một loại trống lớn, chiều cao khoảng 55cm, đường kính khoảng 50cm. Chiêng thường dùng ba chiếc loại có núm, ngoài ra còn một chiếc não bạt bằng nhôm. Những nhạc cụ này được sử dụng trong sinh hoạt văn hóa giải trí cũng như những lễ hội truyền thống của bản làng.

Trình diễn nhạc cụ và hát Tơm do 2 nghệ nhân dân tộc Khơ Mú thể hiện

Dân ca thể hiện khát vọng của người Khơ - mú

Trong kho tàng văn nghệ dân gian của người Khơ - mú, làn điệu dân ca được ưa thích nhất là hát Tơm. Hát Tơm mang đậm chất sử thi, trữ tình, cách hát đối đáp vừa sáng tạo vừa thể hiện tình cảm ngọt ngào, sâu lắng

Ra đời từ trong lao động sản xuất và trong sinh hoạt đời sống thường  ngày, hát Tơm cùng với tiếng sáo Pí Tơm (loại sáo dọc bằng tre) là điệu hát dân ca truyền thống, tiêu biểu nhất của người Khơ Mú.

Người Khơ - mú có thể hát Tơm vào bất cứ thời gian nào và bất cứ ở đâu. Tuy nhiên, hát Tơm được thể hiện nhiều nhất trong những dịp vui của gia đình, bạn bè và làng xóm. Khi mừng đám cưới, người Khơ - mú có điệu Tơm “Đường Kmun”, lúc làm nhà có điệu Tơm “Ơ Grang Mỵ”, trong lễ hội, ngày vui bản làng, trai gái hát giao duyên thì có điệu Tơm “Kun chơ” (hát đi đường). Vào ngày Tết cả dân bản có điệu múa hát “Tơm Muôn” (Tơm mùa xuân).

Sự đa dạng trong các điệu Tơm cho thấy tâm hồn của người Khơ - mú hết sức phóng khoáng. Người hát có thể hát đơn, hát đối đáp cũng có khi hát tập thể, hát lúc rảnh rỗi, hát khi lên nương để bớt mệt nhọc, hát Tơm để giãi bày tâm tình, … Trong đời thường người Khơ - mú thường hát mộc (không có nhạc đệm) hoặc hát có tiếng đệm của sáo Pí Tơm (loại sáo dọc bằng tre), đó cũng là loại nhạc cụ đặc trưng của người Khơ - mú. Chị Hoàng Thảo - nhà nghiên cứu về âm nhạc dân tộc dân tộc thiểu số, cho biết: “Nét độc đáo của hát Tơm chính là làn điệu và ca từ trong câu hát đều không do nhạc sỹ sáng tác, mà do chính người hát tự ứng tác theo hoàn cảnh để bộc lộ cảm xúc, bộc lộ tâm trạng, thể hiện niềm vui, nỗi buồn, ước mơ, hy vọng của riêng cho mình. Thậm chi khi buồn, khi gặp khó khăn người hát vẫn có thể thốt lên nỗi buồn để giải tỏa tâm trạng của mình”.

Hát Tơm của đồng bào Khơ - mú là loại hình dân ca tương đối khó, đòi hỏi nhiều yếu tố. Để có thể hát hay, người hát không chỉ có giọng truyền cảm, mà còn phải biểu hiện được sắc thái sao cho duyên dáng. Nội dung của các bài hát Tơm thường gắn với câu chuyện về lịch sử, về cuộc sống hạnh phúc hay khổ đau trong lịch sử của dân tộc Khơ - mú. Hát Tơm còn để ca ngợi tình yêu với bản làng, ca ngợi tình cảm anh em, họ hàng, ca ngợi tình yêu đôi lứa. Khi chàng trai chiếm được cảm tình của một cô gái, chàng trai có thể hát ứng tác để bày tỏ nỗi lòng của mình. Trong các dịp cưới xin, dựng nhà mới hay lễ mừng đầy tháng con trẻ thì các chàng trai cô gái đều có thể hát ứng khẩu với nhau. Cái hay của lối ứng đáp trong hát Tơm, chính là sự phong phú của ca từ. Tuy nhiên, trong các làn điệu hát Tơm vẫn có trật tự, quy định nhất định. Tiến sỹ Vi Văn An ở Bảo tàng dân tộc học Việt Nam, cho biết: “Những bài hát Tơm mang tính cổ điển ngày xưa thường vẫn có công thức. Công thức tùy theo từng người, tùy theo tài ứng khẩu, kinh nghiệm cũng như sự hiểu biết của từng người mà có thể bài hát Tơm đó được kéo dài, có vần, có điệu, có nội dung và có ý nghĩa. Phần lớn trong hát Tơm, người ta sử dụng lối hát ứng tác tại chỗ,tức là ứng khẩu giữa hai bên. Còn những bài cũ thì thường kể về giai đoạn, cuộc sống của thời quá khứ, kể về sự tích các anh hùng, về văn hóa về công lao những người có công khai mở đất đai, lập bản  làng.”

Tuy cuộc sống vật chất còn nhiều khó khăn, song đời sống tinh thần của người Khơ - mú rất phong phú, thể hiện rõ nét trong các làn điệu hát Tơm. Điều đặc biệt là tất cả các làn điệu Tơm được người Khơ - mú sáng tác từ xa xưa và được lưu truyền bằng hình thức duy nhất là truyền khẩu. Những nghệ nhân thường truyền dạy hát Tơm cho con cháu từ đời này sang đời khác, nhờ vậy những làn điệu hát Tơm cổ ngọt ngào vẫn được bảo lưu tới tận ngày nay

Trình diễn dân vũ của các nghệ nhân dân tộc Khơ Mú

Dân vũ - giá trị văn hoá đặc sắc của người Khơ - mú

Trong nhiều giá trị văn hóa đặc sắc, điệu múa Ong eo (hay còn gọi là au eo, Vieng Ver Guông) là một trong những giá trị văn hóa mà người Khơ Mú vô cùng tự hào. Điệu múa Ong eo không lẫn với bất kỳ điêu múa của dân tộc nào và đã trở thành niềm tự hào được duy trì trong đời sống tinh thần của người Khơ Mú qua nhiều thế hệ. Người Khơ - mú thường múa Ong eo trong những dịp lễ hội, lễ mừng cơm mới được tổ chức ngay sau khi vừa kết thúc mùa gặt. 

Ong eo là điệu múa lắc hông, uốn lượn eo, được mô phỏng theo các động tác, cử chỉ lao động hằng ngày của người dân như: gặt lúa, bẻ ngô, hái rau, nhổ cỏ, đơm tép, giặt giũ… Khi múa Ong eo, người nam thường đeo chiếc khoong khăn (vừa là nhạc khí vừa là đạo cụ), trong khi các cô gái với trang phục sặc sỡ, nụ cười duyên dáng, nhịp gót nhún rộn ràng, uốn lượn lưng eo. Khi thể hiện các điệu múa, toàn thân người múa đều rung lên thể hiện sức sống dồi dào, người múa như đắm mình trong điệu nhạc rộn ràng và thăng hoa. 

Biểu tượng cho mối cộng cảm giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, từng nhịp điệu đều liên quan mật thiết với tín ngưỡng cầu mùa và khát vọng về tình yêu đôi lứa, điệu múa Ong eo là một phần nổi bật của Lễ hội Mừng năm mới của người Khơ - mú. Trải qua bao đời, Lễ hội Mừng năm mới và điệu múa Ong eo đã trở thành di sản văn hóa dân gian đặc sắc, được dân tộc Khơ - mú gìn giữ qua nhiều thế hệ.

Một nét đặc trưng trong văn hóa của người Khơ - mú là nghệ thuật múa của người Khơ - mú thường sử dụng các đạo cụ từ những nguyên liệu tự nhiên như ống tre, ống nứa. Một số đạo cụ được sử dụng trong múa đồng thời cũng được coi là nhạc cụ tạo ra âm nhạc để dẫn dắt người múa theo những nhịp điệu, tiết tấu riêng.

Ngoài ra còn có những điệu múa khác của người Khơ - mú như: múa tăm đao, múa cá lượn, múa đuổi chim, múa cầu mùa, múa tra hạt....đều xuất phát từ cuộc sống lao động, sản xuất hằng ngày với những khát vọng tốt đẹp.

Múa tăm đao là điệu múa dành riêng cho nữ giới với đạo cụ là tăm đao. Tăm đao được làm từ thân của cây nứa nhỏ - nứa làm đao phải là nứa già vừa đủ mới tạo âm thanh vang và hay, có thể là đao to hoặc đao bé (đao mẹ và đao con), đao mẹ sử dụng tạo ra âm thanh chính. Để chế tác loại nhạc cụ này, phải vào rừng chọn lựa những cây nứa thẳng, đẹp và không quá già. Một đầu bỏ mấu, giữ lại thân ống nứa, một đầu giữ lại phần mấu, người ta đục hai lỗ nhỏ nằm ở hai bên đối xứng nhau, khi đánh ngón tay cái đặt lên phần lỗ ở thân trên, ngón tay trỏ hoặc ngón giữa đặt ở vị trí lỗ phía bên dưới để điều chỉnh âm thanh, giai điệu khi múa tăm đao. Phần phía đầu không có mấu người ta vát nhẹ hai bên thân ống tạo thành trạc hình chữ “u” dài khoảng 25 - 30cm, giữa hai cánh trạc có xẻ một khe nhỏ vào thân ống để kẹp một sợi chỉ nhỏ, sợi chỉ này cũng có tác dụng điều tiết âm thanh. Khi biểu diễn gõ phần gốc của cánh trạc vào lòng bàn tay để hai cánh trạc rung tạo thành âm thanh. Những cây đao muốn sử dụng được lâu bền và tạo âm thanh vang và hay thì phải được cất giữ cẩn thận, trước khi dùng người ta mang ngâm vào nước để đao giãn nở cũng như giữ được độ tươi của đao.

Múa tăm đao bắt nguồn từ việc người phụ nữ cầm đao để đánh trong quá trình đi nương, đi rừng. Khi quay trở về, trên lưng họ gùi thóc, gùi măng hay các loại rau rừng họ gõ đao tạo ra những âm thanh vui tai để quên đi sự mệt nhọc. Hay những buổi tối trăng lên, người con gái thường ngồi gõ đao để gọi chàng trai đến. Tiếng đao buồn hay vui đều xuất phát từ tâm trạng của người phụ nữ. 

Điệu múa cá lượn thường được múa trong lễ sửa nhà của người Khơ - mú. Ngày xưa, khi đi bắt cá, ngồi ngắm nhìn những con cá bơi đi bơi lại, người Khơ - mú về hình dung ra những động tác đuôi cá, vây cá chuyển động và sáng tác ra điệu múa, đặt tên là cá lượn. Múa cá lượn gồm sáu động tác chính giống như vẫy đuôi, xòe vòng, ghẹ đầu quấn quýt bên nhau của những con cá trắng dưới lòng khe. Trong mùa tìm nhau kết đôi hoặc trong các lễ hội, ngày vui của dân tộc mình, người Khơ - mú thường múa cá lượn.

 Bên cạnh đó còn có các điệu múa độc đáo khác như múa tra hạt. Dịp tháng 3, tháng 4 là thời điểm người dân tiến hành cày cấy, để có mùa màng bội thu, người Khơ - mú thường tổ chức lễ hội tra hạt, lễ cầu mùa. Trong lễ hội cầu mùa, vũ điệu chọc lỗ tra hạt với chiếc gậy độc đáo gắn với nhạc cụ được thể hiện tưng bừng rộn rã như sự giao hòa âm dương, thức dậy những khát vọng về một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Múa đuổi chim cũng thường được múa trong lễ cầu mùa. Điệu múa này phần nhiều là những vũ điệu và tiết tấu nhanh, mạnh mẽ, sôi động. 

Nghệ thuật múa của người Khơ - mú đã trở thành phong tục của cộng đồng và cuốn hút mọi người trong các ngày lễ, ngày hội, các cuộc vui của cộng đồng. Những điệu dân vũ này thường liên quan mật thiết với tín ngưỡng cầu mùa, khát vọng tình yêu đôi lứa, mang theo hy vọng của người Khơ - mú với mong muốn luôn được khỏe mạnh, mùa màng bội thu, cầu cho mưa thuận gió hòa và góp phần làm nên dấu ấn văn hóa độc đáo của người Khơ - mú trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Khơ - mú trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc Việt Nam, Cục Văn hoá các dân tộc Việt Nam - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nghệ An triển khai chương trình bảo tồn - truyền dạy dân ca, dân nhạc, dân vũ của dân tộc Khơ Mú, tỉnh Nghệ An. Chương trình được triển khai bài bản, khoa học từ công tác khảo sát, nghiên cứu, thu thập bảng hỏi, xử lý tư liệu hình ảnh, tổ chức tập huấn, truyền dạy và trình diễn tái hiện di sản văn hoá phi vật thể của người Khơ - mú, quay phim, chụp ảnh, xây dựng các báo cáo khoa học, báo cáo chuyên đề, mời các nhà nghiên cứu, chuyên gia, nhà quản lý, nghệ nhân lên lớp truyền dạy…. giúp cộng đồng nhận diện rõ hơn về di sản của dân tộc mình và nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch cộng đồng từ đó xây dựng thành các sản phẩm du lịch văn hoá đặc sắc đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội khu vực miền Tây Nghệ An./.

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114615500

Hôm nay

250

Hôm qua

2412

Tuần này

2922

Tháng này

230752

Tháng qua

131673

Tất cả

114615500