Góc nhìn văn hóa

Gia đình Bác Hồ - một gia đình lương y

Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam (27/2/1955 - 27/2/2025), xin được giới thiệu về một gia đình lương y đặc biệt, đó là gia đình của Bác Hồ

Ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm Nhâm Tuất (1862) tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha là Nguyễn Sinh Nhậm (hay còn gọi là Nguyễn Sinh Vượng) ở Làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Mẹ là Hà Thị Hy, người làng Mậu Tài, xã Chung Cự, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lên 4 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ. Ông sống cùng người anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Sinh Trợ (còn gọi là Nguyễn Sinh Thuyết).

Ông được cụ Hoàng Xuân Đường xin về nuôi cho ăn học và gả con gái đầu là Hoàng Thị Loan. Hai ông bà lần lượt có với nhau 4 người con là Nguyễn Thị Thanh (1884), Nguyễn Sinh Khiêm (1888), Nguyễn Sinh Cung (1890), Nguyễn Sinh Xin (1901). Bà Hoàng Thị Loan đã mất tại Huế năm 1901. Nguyễn Sinh Xin là người con thứ tư của gia đình cũng qua đời sau đó một thời gian ngắn. Gia đình Bác Hồ chỉ còn lại 4 người là cha và 3 người con, thì có đến 3 người làm thầy thuốc, thầy lang chân chính (là lương y bây giờ). Đó là ông Sắc và hai con là Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Sinh Khiêm, đã hành nghề y một thời gian dài tại Thừa Thiên Huế và Cao Lãnh, Đồng Tháp.

1. Thầy thuốc Nguyễn Sinh Sắc

Sau vụ chống thuế ở Trung Kỳ có sự tham gia của Nguyễn Tất Thành, ông Sắc bị buộc rời khỏi Kinh đô. Ngày 01/7/1909, ông vào Bình Định làm tri huyện Bình Khê. Ông luôn đứng về phía Nhân dân, bênh vực người nghèo, tìm cách giúp đỡ những người yêu nước. Với tấm lòng khảng khái, yêu nước, thương dân, bất mãn với triều đình phong kiến mục ruỗng, ông Nguyễn Sinh Sắc không chú ý tới việc quan trường. Vì bênh vực lẽ phải, đứng về phía công lý và Nhân dân, ông Nguyễn Sinh Sắc bị triều đình giáng cấp. Từ quan, ông đi nhiều nơi, liên lạc với những người yêu nước để tuyên truyền cách mạng và kêu gọi Nhân dân sống đoàn kết, thủy chung. Sau đó, ông Nguyễn Sinh Sắc vào Nam bộ làm nghề thầy thuốc, bắt mạch và kê đơn chữa bệnh cho dân nghèo. Ngày ấy, dân gian thường gọi ông là “thầy thuốc Huế”.

Năm 1914, ông làm thuốc ở vùng chợ Long Xuyên, được bà con mến mộ.

Năm 1917, ông trọ tại nhà cụ Lê Chánh Đáng, vừa giao du với những người tâm huyết bàn chuyện thế sự, vừa hành nghề y ở Hòa An, Sa Đéc.

Năm 1922, ông đến làm thuốc ở xóm Cây Dầu, làng Hương Lợi, tỉnh kandai (Campuchia). Sau đó, ông trở lại Sài Gòn.

Năm 1923, ông làm thuốc ở huyện Tân Châu, Hồng Ngự.

Tại Sài Gòn, khi bắt mạch ở tiệm thuốc bắc Tam Thiên Đường của người Hoa (1926), khi thì ở tiệm thuốc Thiên Phúc Đường (1928).

Thuyền tán thuốc, chày và cối giã thuốc - Cụ Nguyễn Sinh Sắc dùng trong thời gian sống ở Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (1927-1929). (Nguồn: Khu di tích cụ Nguyễn Sinh Sắc ở Cao Lãnh, Đồng Tháp).

 

Ông cũng thường đàm đạo nghề y với các thầy thuốc, thầy đồ ở các làng Tân An, Tân Khánh, Tương Bình Hiệp. Lâu nay, các bậc lão thành, con cháu của các vị lương y đã từng gặp cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, họ thường nhắc lại rằng: “Ông nội, ông cố chúng tôi có kể về một ông “thầy thuốc gốc Huế” tài cao, đức rộng, rất dễ mến đối với bà con vùng này” [1]

Năm 1929, ông tiếp tục đến Cao Lãnh hành nghề, chữa bệnh cho dân, được bà con tin tưởng, yêu thương, đùm bọc và các lương y trong vùng nể phục. Ông đi nhiều nơi, không lưu trú một chỗ cố định dài ngày để bảo đảm an toàn cho tính mạng và khỏi phải phiền hà đến gia chủ, vì bọn mật thám luôn rình rập, theo dõi mọi hoạt động của ông.

Trong gần 20 năm (1911-1929), người ta thấy hình ảnh “một ông già mặc quần áo dài xưa, tay kẹp chiếc dù, vai mang bị đựng thuốc. Đó là ông “thầy thuốc Huế” mà dấu chân của ông in khắp nẻo đường Sài Gòn, vùng miền Đông, vùng đồng bằng sông Cửu Long” [2].

Nguyễn Sinh Sắc là vị Phó bảng, trở thành lương y không phải do gia truyền, cũng không phải được đào tạo qua trường lớp, mà do kiến thức tổng hợp thông thái của một đệ tử Nho giáo. Nhất là do cái tâm đức nhân ái của con người ông muốn chữa bệnh giúp dân nghèo. Chính vì vậy, trong thời gian ở Huế, ông cũng thỉnh thoảng làm thầy thuốc, chủ yếu là để chữa bệnh cứu giúp bà con của bạn bè và làm từ thiện.

2. Thầy thuốc Nguyễn Thị Thanh

Ngày 02/12/1918, cô Thanh bị đưa vào nhà lao Quảng Ngãi. Tại đây, nhờ tài bốc thuốc chữa bệnh, cô đã cứu chữa cho vợ Án sát Phạm Bá Phổ bị bệnh tắc sữa không cho con bú được, ít ngày sau bệnh khỏi, dòng sữa con bú được phục hồi, điều này đã làm Phạm Bá Phổ rất nể phục Bà.

Năm 1922, cô Nguyễn Thị Thanh chuyển từ nhà lao Quảng Ngãi ra Huế. có vốn kiến thức Hán học, bà được Án sát Phạm Bá Phổ mời về nhà riêng làm gia sư cho con trai mình. Bằng khả năng thuyết phục và tài cảm hóa, bà đã giác ngộ cho Phạm Bá Nguyên (con trai của Phạm Bá Phổ) tích cực hoạt động cứu nước và sau này được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nghe tin cô Thanh ra Huế, ông Khiêm tìm gặp chị, hai chị em đi nhiều nơi, trong đó có lên vùng Sơn Công, Phong Điền, tá túc trong nhà ông Hồ Văn Hiến vừa làm thuốc vừa hoạt động yêu nước, bị thực dân Pháp phát hiện, muốn bắt nhưng chứng cớ chưa xác đáng, nên đành chịu. Từ đó, chúng theo dõi và quản lý chặt hơn.

Thời ông Khiêm ở Phú Lễ, cô Thanh ở nhà ông Ấm Hoàng, Phú Lễ và hai chị em thường khám bệnh cho dân ở vùng Phong Điền, Quảng Điền, có khi khám từ thiện ở đình, chùa làng này.

Hiện nay, thông tin về việc cô Thanh làm thuốc vẫn chưa sưu tập được nhiều.

3. Thầy thuốc Nguyễn Sinh Khiêm

Vì hoạt động yêu nước, tham gia trong tổ chức đội Quyên, đội Phấn chống Pháp, ngày 01/4/1914, Nguyễn Sinh Khiêm bị bắt và giam tại Nha Trang, với tội “kích động dân chúng nổi loạn”. Ngày 25/9/1914, Tòa án Nam Triều kết án ông 3 năm tù khổ sai với tội: “Quản thông phí đảng” đồng âm mưu phản bội. Ba tháng sau, ông tham gia vượt ngục nhưng không thành, ông bị nâng mức án lên 9 năm tù đày.

Ngày 17/3/1920, thực dân Pháp đưa ông về giam lỏng ở Huế. Ông cư trú ở làng Trạch Phổ, bốc thuốc cứu dân và mở lớp dạy chữ Hán cho con em lao động. Cuộc sống rất vất vả nhưng với tấm lòng nhân hậu và phóng khoáng, ông luôn sẵn lòng nhường cơm sẻ áo cho người nghèo khổ.

Năm 1922, ông cùng chị gái Nguyễn Thị Thanh bí mật hoạt động chống Pháp trong tổ chức nhân sĩ trí thức Huế. Từ đó, cuộc đời của ông Khiêm gắn bó với Thừa Thiên Huế, với núi Ngự, sông Hương, cùng nghề thầy lang nổi tiếng (thầy thuốc Đông y). Ông còn làm thầy địa lý, cho nên trong vùng mọi người thường gọi ông là “Thầy Nghệ” (thầy lang xứ Nghệ), hoặc gọi là ông cả Đạt vì tên ghi trong thẻ căn cước là Nguyễn Tất Đạt.

Khoảng năm 1929, sau khi bố mất, ông cả Khiêm về hành nghề bốc thuốc chữa bệnh cứu dân ở Phú Lễ - Thừa Thiên Huế.

Với tính cương trực, thẳng thắn, ông đã nhiều lần vạch mặt bọn tay sai bán nước. Kẻ thù luôn dõi theo các hoạt động yêu nước của ông. Chúng hạn chế ông tiếp xúc với mọi người, ngăn ngừa các mối quan hệ.

Ngày 06/02/1940, ông được thả về Kim Liên cư trú. Về quê, ông tiếp tục hoạt động văn nghệ, diễn tuồng, dạy học, dạy võ cho con em trong vùng. Năm 1942, ông trở lại Huế.

Trong thời gian gần 30 năm ở Thừa Thiên Huế, ông đi khắp nơi, nhất là ba huyện phía Bắc Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà vừa tuyên truyền yêu nước, vừa làm thầy đồ, vừa làm thầy địa, vừa viết đơn giúp dân khiếu kiện, đặc biệt là hành y chữa bệnh cứu người. Ông đã thể hiện tấm gương “lương y như từ mẫu”.

Ông làm nghề thầy lang không phải là để kiếm sống, mà chính là để làm việc nghĩa. Ông cả Khiêm nổi tiếng là thầy Nghệ vì ông đã trị bệnh cứu người và đã cứu chữa cho nhiều người bệnh hiểm nghèo mà nhiều thầy lang trong vùng không chữa được.

Đi chữa bệnh cho những gia đình khá giả, giàu có, “ông thường được chủ nhà mời cơm rượu và biếu thầy một khoản tiền. Còn đối với gia đình nghèo khó thì ông chẳng lấy một đồng, cũng chẳng ăn cơm, rượu gì cả. Có nhiều đợt ông đi dài ngày, đi hàng tháng, đi bộ từ làng này sang làng khác, từ huyện này sang huyện khác… khi trở về tuy có một ít tiền nhưng về đến nhà thì tiền hết sạch, thậm chí có lúc quần áo đang mặc cũng không còn, vì dọc đường gặp những người nghèo khó hỏi xin, tiền ông cho hết, quần áo đang mặc trên người ông cũng cởi cho luôn” [3]. Ông sống bình dị nhưng cao cả và rộng lượng nên được nhiều người yêu mến và tôn trọng.

Tóm lại: Gia đình Bác Hồ có nhiều người thân làm lương y, nhưng không phải mở tiệm thuốc kinh doanh mà để làm từ thiện. Họ đã đi nhiều nơi ở Thừa Thiên Huế để chữa bệnh cứu giúp đời và hoạt động yêu nước. Mảnh đất Thừa Thiên Huế gắn bó với họ, bao bọc họ, nhưng cũng mang ơn họ, nhất là thầy Nghệ Nguyễn Sinh Khiêm có nửa đời sống ở đây. Đặc biệt, những năm cuối đời, ông Nguyễn Sinh Sắc đã sống, hoạt động yêu nước và chữa bệnh cứu người tại làng Hòa An, Cao Lãnh, Đồng Tháp. Và đây cũng chính là nơi yên nghỉ của ông.

Việc cha, chị gái và anh trai Bác Hồ làm thuốc ở Thừa Thiên Huế và Cao Lãnh, Đồng Tháp không để lại nhiều chứng tích cụ thể mà hầu hết là qua lời kể trong dân gian. Nhưng đó cũng là những hồi ức rất có giá trị, giúp các nhà khoa học xác minh thêm những thông tin quý giá về những người thân trong gia đình Bác trong những năm tháng sống và hoạt động ở mảnh những đất này./.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114544501

Hôm nay

226

Hôm qua

2296

Tuần này

21544

Tháng này

214823

Tháng qua

1114325557

Tất cả

114544501