Giếng làng thường gắn với đình là nơi sinh hoạt cộng đồng
Giếng làng - nơi neo giữ hồn quê.
Giếng làng - một thực thể đã từng tồn tại hàng ngàn năm với đời sông dân sinh, trở thành nét đẹp văn hóa của các làng quê Việt Nam. Giếng làng xưa là không gian văn hóa, biểu tượng mang giá trị tinh thần của làng, xã nên thường được xây dựng ở vị trí trung tâm, thuận lợi cho người dân cả một làng. Ở các làng cổ có đầy đủ cả cây đa, sân đình thì giếng nước thường được nằm ở vị trí "mắt rồng" trong tổng thể hình ảnh rồng chầu về đình, thường ở nơi cao ráo, thoáng mát, gần nơi tập trung cộng đồng. Giếng là mạch nguồn chính phục vụ đời sống dân sinh, cung cấp nguồn nước mát lành để dùng trong sinh hoạt của người dân… Có ý kiến nói rằng cũng như “cổng làng” giếng làng là một trang sử biên niên, là không gian văn hóa, có ý nghĩa như một chứng nhân của lịch sử, gắn với những câu truyện, truyền thuyết, huyền thoại mang tính nhân văn, là biểu tượng mang giá trị văn hóa tinh thần của làng, xã. Có câu chuyện kể rằng ở làng cổ Đường Lâm, thị xã Sơn Tây (Hà Nội), hiện còn một giếng nước huyền thoại. Đó là Giếng xin sữa, dù chỉ tròn nhỉnh hơn vành nón, mà ngàn năm nay nước vẫn đầy và trong vắt. Từ đời này truyền qua đời khác chuyện những bà mẹ sinh con mà thiếu sữa thì đến bên giếng này làm lễ xin sữa, rồi xin giếng một ít nước, uống vào là có đủ sữa cho con bú. Những bà mẹ trẻ Đường Lâm ngày nay vẫn làm như vậy!
Cũng ở góc độ văn hóa tâm linh, giếng là nơi tiếp nhận linh khí của đất trời, là biểu tượng cho sự sinh sôi, vững bền của một cộng đồng người có chung mối quan hệ họ hàng, làng xóm. Giếng trở thành tâm điểm gặp gỡ, là một trong những tiêu chí về cuộc sống tốt đẹp của dân làng xưa:
Thứ nhất gần mẹ gần cha,
Thứ nhì gần giếng, thứ ba gần đình.
Đến nay, ở các làng quê không còn nhiều giếng làng, và giếng làng cũng không còn nhiều giá trị sử dụng nữa. Nhưng trong tâm thức người Việt, giếng làng đã là một giá trị văn hóa vô cùng sâu sắc. Nó như gương soi ngày xưa gửi lại cho hậu thế, và lại như những giấc mộng trong trẻo, lung linh. Đó là một khung trời ấu thơ, tràn trề tươi mát...
Theo ông Nguyễn Diện - chuyên viên Phòng Văn hóa, Khoa học và Thông tin huyện Thanh Chương: chưa có công trình nào khảo cứu hết số giếng làng trên 100 năm tuổi nhưng qua khảo sát sơ bộ, hiện nay toàn huyện Thanh Chương có 68 giếng làng đã, đang và sẽ được bảo tồn, gìn giữ. Trong đó, có nhiều giếng làng đẹp và còn giữ được nét nguyên sơ vốn có. Có thể kể đến giếng các làng: Đại Định, Thượng Thọ, Phúc Long, Phúc Thọ, Cẩm Thái, giếng Rạng, giếng Chùa, giếng Đền Thanh Cao ở các xã Thanh Văn, Thanh Hưng (nay là xã Đại Đồng); giếng xóm Phú Hậu, xóm Đình Sơn, xóm Đông Thượng, xóm Phượng Sơn của xã Đồng Văn; giếng làng Trung Thọ, Liên Sơn, Xuân Thành của xã Phong Thịnh; giếng Đền Đậu, làng Hoa ở xã Thanh Hà; giếng Cồn Tròn, giếng Đông Nam Sơn ở xã Thanh Yên, giếng làng Tú Viên ở xã Thanh Lương, hay giếng Rú Dơi ở xã Thanh Chi, giếng Chọ ở xã Ngọc Sơn … đã góp phần làm nên nét đẹp thân quen, gần gũi của người và đất quê hương.

Sau khi khôi phục, trùng tu một số giếng được lắp đền điện sáng, vòi phun nước tạo nên khung cảnh đẹp
Cũng như kiến trúc nhà cửa, theo thời gian, tùy từng địa phương mà giếng làng có sự biến đổi đa dạng về hình thái, cấu trúc và vật liệu xây dựng. Tùy thuộc vào tính chất nguồn nước, địa hình, phong tục tín ngưỡng,… của mỗi làng mà hình hài, chiều sâu, rộng mỗi giếng có khác nhau nhưng ở Thanh Chương giếng hình tròn vẫn là chủ yếu. Người xưa theo thuyết ngũ hành, quan niệm cấu tạo hình tròn được ví như mặt trăng, đại diện phần âm; kết hợp với nền giếng vuông hoặc hình chữ nhật (đại diện cho phần dương) để cân bằng âm dương, tạo nên vượng khí, hài hòa cho đời sống.
Một đặc điểm nổi bật nữa của giếng làng ở Thanh Chương là sự phân bố không đều. Giếng tập trung nhiều ở những làng có lịch sử hình thành lâu đời như các xã Thanh Văn, Thanh Hưng, Đồng Văn… hoặc những làng ở vị trí cách xa sông suối, hiếm nguồn nước sinh hoạt như Thanh Hà, Phong Thịnh; cá biệt có những giếng làng chỉ là yếu tố phong thủy như ở xã Võ Liệt, với mong muốn của tiền nhân là làm cho làng xã luôn đoàn kết, tiến bộ, mọi nhà no cơm ấm áo, con cháu học hành đỗ đạt.
Cũng như bao miền quê khác, giếng làng ở Thanh Chương cũng đi vào ca dao, Ví, Giặm, nơi hẹn hò đôi lứa lãng mạn, thơ mộng:
Nhớ hôm bên giếng người ơi,
Chàng đưa mắt liếc em rơi cái gàu.
Với sự gắn bó với đời sống thường nhật của tất cả cộng đồng, giếng làng đã nuôi tâm hồn yêu quê của các thế hệ người dân. Các thế hệ những đứa trẻ uống nước trong gàu bên giếng đã trưởng thành, rời quê để dựng xây bảo vệ đất nước, trở thành những nhà quản lý, nghiên cứu, doanh nhân thành đạt khắp mọi miền; một bộ phận gắn bó trọn đời với quê nhưng tất cả đều luôn nhớ và nghĩ về những kỷ niệm đẹp đẽ một thời bên giếng làng quê.

Giếng Đền Đậu xã Thanh Hà đã trở thành một điểm vui chơi của người dân, nhất là người cao tuổi
Khôi phục giếng làng - giữ gìn nét văn hóa làng quê.
Những năm gân đây cùng với phong trào tôn tạo, trùng tu phục dựng lại các đình, chùa, miếu mạo, di tích lịch sử, nơi thờ tự và phong tròng xây dựng Nông thôn mới (NTM), nhiều địa phương trên địa bàn huyện Thanh Chương cũng đã phục dựng, bảo vệ các giếng làng. Theo thống kê của Phòng Văn hóa, Khoa học và Truyền thông huyện: trong số 68 giếng làng hiện có hơn một nửa mới được tôn tạo, phục dựng từ năm 2015 đến nay với nguồn vốn hàng tỷ đồng, chủ yếu là xã hội hóa do con em xa quê gửi về, góp cùng công sức của người ở quê nhà để thực hiện.

Giếng Nhà Thánh Đại Định xã Đại Đồng nằm giữa đồng lúa đã được phục hồi rất đẹp mắt.
Việc khôi phục lại giếng làng do cha ông để lại không chỉ góp phần tạo nên hình ảnh làng quê nông thôn vừa tươi mới lại vừa cổ kính, mộc mạc mà còn là cách để truyền dạy cho thế hệ trẻ những giá trị vốn quý của văn hóa làng. Bên những con đường bê tông tít tắp, những điểm văn hóa thể thao khang trang hiện đại mới xây dựng, giếng làng là “nét văn hóa đặc biệt” truyền tải thứ năng lượng gắn kết lòng người, khơi gợi tình yêu quê hương, đất nước.
Việc khôi phục lại giếng làng ở Thanh Chương dã và đang trở thành hoạt động khá phổ biến. Tuy nhiên, theo những người quản lý ở Phòng Văn hóa, Khoa học và Truyền thông: Không phải nơi nào cũng làm đúng với những giá trị văn hóa truyền thống của giếng làng mà cha ông để lại; Có nơi làm chưa đúng, hoặc làm thiếu an toàn cho con người, đặc biệt là trẻ em. Để khôi phục, tôn tạo giếng làng, các địa phương cần giữ lại sự nguyên sơ, căn bản, kết hợp các yếu tố hiện đại khi thực hiện, nhất thiết phải có hàng rào che chắn để bảo vệ lâu dài và đảm bảo an toàn cho người dân, du khách…
Trong đời sống ngày càng hiện đại và phát triển hôm nay, giếng làng không còn giữ vai trò quan trọng như trước đây nữa, nhưng giếng làng cần được gìn giữ không chỉ là để bảo tồn một vẻ đẹp văn hóa truyền thống mà còn là cách để phát huy hồn cốt của vùng nông thôn. Đặc biệt, thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới, dù cảnh quan môi trường ở các làng quê đã có rất nhiều thay đổi, nhưng những nét đẹp độc đáo ở làng quê như cây đa, giếng nước, sân đình... cần được các thế hệ tiếp nối chung tay bảo vệ, bảo tồn như biểu trưng cho nguồn sống, sinh khí tốt lành, nhắc nhở muôn đời con cháu nhớ về nguồn cội.