Góc nhìn văn hóa

Lễ cúng cơm mới của người Thái ở bản Cắm

Trong các cộng đồng sinh sống bằng nông nghiệp trồng lúa thì lễ cúng cơm mới là nghi lễ vô cùng quan trọng. Điều này cũng được thể hiện rõ trong đời sống của cộng đồng người Thái ở bản Cắm, xã Tri Lễ, tỉnh Nghệ An.

Lễ cũng cơm mới của đồng bào Thái ở huyện Anh Sơn cũ

Bản Cắm là một bản thuần người Thái, nằm cách UBND xã Tri Lễ khoảng 3km và cách chợ Tri Lễ khoảng 1km. Phần trung tâm của bản tập trung ở quanh một triền núi thấp mà hai bên có hai con suối chảy ra. Đây là phần tập trung hầu hết các gia đình người dân sinh sống trong bản. Ngoài ra còn có một số hộ gia đình sinh sống ở bên kia bờ suối, vốn là những hộ gia đình mới chuyển sang gần đây khi đường sá được mở mang sang bên kia suối. Trong tiếng Thái, “Cắm” có nghĩa là vàng, quý báu như vàng. Theo giải thích của những người lớn tuổi thì khi những người đầu tiên đến đây khai hoang lập bản gặp phải điều kiện rất khó khăn. Cái gì cũng thiếu thốn, từ đất đai, ruộng nước, nguồn nước... vậy nên lúc đó, tìm thấy được cái gì để phát triển cuộc sống đều quý báu cả. Do vậy mà họ đặt tên là Bản Cắm để nói rằng mọi tài nguyên ở đây đều quý như vàng vì nó không có nhiều, rất thiếu thốn và phải trân trọng.

Trong bản có 98 hộ gia đình với 421 nhân khẩu sinh sống, chủ yếu là người Thái (trừ một phụ nữ người Kinh lấy chồng về sống trong bản). Người Thái ở Bản Cắm thuộc nhóm Thái Man Thanh, ngành Thái Đen. Cư dân trong bản sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước kết hợp với chăn nuôi và làm nương rẫy. Hiện tại đang có một số ngành nghề mới xuất hiện như đi làm công nhân cho công ty kinh doanh về giống và quả chanh leo ở địa bàn xã. Hiện tại, người Thái ở Bản Cắm đang lưu giữ được khá nhiều yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, càng ngày, văn hóa truyền thống của họ cũng bị biến đổi nhiều do tác động của kinh tế thị trường, các chính sách phát triển cũng như quá trình tiếp xúc, giao lưu văn hóa với các cộng đồng khác.

Trước đây, người Thái ở Bản Cắm sinh sống chủ yếu bằng canh tác nương rẫy, nay họ tập trung vào canh tác lúa nước. Lúa là cây trồng quan trọng nhất của người Thái và có nhiều nghi lễ liên quan đến lúa. Trong đó, lễ cúng cơm mới là nghi lễ quan trọng nhất. Người Thái ở Bản Cắm tổ chức lễ cúng cơm mới ở hai cấp độ là cấp độ gia đình và cấp bản. Họ xem đây là một lễ quan trọng với ý nghĩa báo cáo với tổ tiên về tình hình mùa màng và cầu mong mùa màng tiếp theo sẽ mưa thuận gió hòa, thu hoạch tốt hơn. Lễ cơm mới được tổ chức vào tháng 9 dương lịch hàng năm, là khi thu hoạch lúa về nhà.

Ở cấp độ gia đình, người chủ nhà tiến hành tổ chức lễ cơm mới cho gia đình sau khi đã thu hoạch xong lúa ngoài ruộng. Khi chuyển lúa về nhà, chủ nhà chọn những bông lúa tốt nhất để làm cỗ cúng cơm mới. Nếu chủ nhà biết xem ngày thì họ tự xem lấy ngày nào tốt để làm lễ. Còn không biết thì họ đi nhờ thầy mo hoặc một già làng có hiểu biết nhờ xem giúp ngày tốt. Để chuẩn bị lễ cúng cơm mới trong gia đình, họ phải dùng số thóc chưa xay và chưa nấu để làm xôi (hoặc cốm) trong lễ cơm mới. Sau đó họ mổ một con gà để làm cỗ cúng. Nếu chủ nhà biết khấn thì cũng có thể tự khấn, còn không thì đi mời thầy mo về cúng giúp. Thường người ta tự khấn luôn vì những tháng này có nhiều gia đình tổ chức nên mời thầy mo cũng khó hơn. Những gia đình mà mùa màng năm đó được mùa nhiều muốn làm cơm mới lớn hơn hoặc mất mùa thì họ mời cho được thầy mo về để cúng cho kỹ hơn. Họ bày lễ ra gian chính của ngôi nhà, chỗ bàn thờ tổ tiên để làm lễ. Khi thầy mo cúng thì chủ nhà cũng phải ở cạnh để nghe. Bài mo cúng cơm mới trước đây khá phức tạp nhưng hiện nay thì đơn giản hơn, nội dung là báo cáo với tổ tiên về tình hình mùa màng vừa rồi và cầu mong cho mùa màng năm tiếp theo được hiệu quả hơn, thu hoạch được nhiều hơn, cuộc sống được đầm ấm, hạnh phúc hơn. Sau khi làm lễ xong thì chủ nhà cũng mời một số anh em, họ hàng đến để ăn uống chia vui với gia đình. Số lượng khách mời tùy theo điều kiện và quan hệ của gia đình. Họ dùng một phần cỗ làm lễ để biếu thầy mo mang về. Ngày trước, lễ cơm mới trong gia đình mang tính linh thiêng hơn do mùa màng hay bị biến động thất thường, lúc được mùa, lúc mất mùa nên người ta làm lễ cúng cẩn trọng hơn. Hiện nay, do mùa màng thu hoạch ổn định hơn nên lễ cơm mới cũng được làm đơn giản hơn. Có một số gia đình chỉ tham gia lễ cơm mới chung với cả bản mà không tổ chức cúng cơm mới trong nhà nữa.

Lễ cúng cơm mới của Bản Cắm được tổ chức vào tháng 9 hàng năm, sau khi thu hoạch xong lúa ở cánh đồng chính phía trước bản. Lễ được tổ chức ở Đền Sờn, là đền thờ những người đã có công khai khẩn ra làng bản. Theo các vị già làng thì Đền Sờn thờ hai anh em là ông Hà Văn Lấm và Hà Văn Yến. Đây là hai anh em ruột có công đến vùng này và khai phá ra cánh đồng Bản Cắm, khai hoang và lập ra bản ngày nay. (Có hai luồng ý kiến khác nhau về hai vị được thờ trong Đền Sờn. Phần lớn những người lớn tuổi thì cho rằng hai ông Hà Văn Lấm và Hà Văn Yến là anh em ruột, nhưng cũng có người cho rằng không phải. Theo ông Hà Văn Thành, người đã nhiều lần làm chủ lễ cơm mới của Bản Cắm thì cho rằng Đền Sờn thờ ông Lô Văn Lấm và ông Hà Văn Yến, hai người này có quan hệ thân thiết với nhau nhưng không phải là anh em ruột và mang hai họ khác nhau. Còn theo ông Vi Xuân Tình, một già làng có nhiều hiểu biết thì cho rằng Đền Sờn thờ hai ông Hà Văn Lấm và Hà Văn Yến, là hai anh em ruột. Còn vợ của ông Lấm mới là người họ Lô). Nói là đền thờ nhưng Đền Sờn không được xây dựng kiên cố mà chỉ là một gian thờ rất nhỏ ở cây đa giữa cánh đồng Bản Cắm. Thường ngày thì nó bị mưa gió nên hỏng hết, và cũng không có ai hương khói thường xuyên. Đến trước ngày tổ chức lễ cúng cơm mới của cả bản thì người dân trong bản mới ra sửa sang lại đền thờ, sửa lại đường đi ra đền vốn là những bờ ruộng nhỏ, ngày thường khó đi lại. Chủ lễ thường là một thầy mo có uy tín, có nhiều hiểu biết và được các già làng tin cậy bầu lên để chủ trì lễ cơm mới. Bên cạnh đó thì chủ lễ cũng phải có một số điều kiện khác như nhà cửa phải rộng rãi vì khi tổ chức lễ cơm mới thường tổ chức tại nhà chủ lễ luôn. Người chủ lễ cũng phải có đủ sức khỏe để điều hành cả buổi lễ. Hiện tại thì ông Hà Văn Thành, một thầy mo và cũng là con cháu dòng họ Hà đang làm chủ lễ của lễ cúng cơm mới ở Đền Sờn. Quy mô của lễ cơm mới cũng tùy thuộc vào điều kiện mùa màng của cả bản. Nếu năm được mùa to thì cúng trâu, năm mùa màng bình thường thì cúng lợn. Các gia đình phải đóng góp một khoản tiền để mua trâu, lợn làm lễ. Mỗi gia đình cũng phải mang theo một số gạo mới (được xay từ thóc mới gặt về và chưa lấy nấu cơm lần nào) và hai túi cá đã ướp gia vị để hông, cùng góp vào làm lễ cúng ở nhà chủ lễ. Các gia đình đều có người đến tham gia phục vụ cũng như ăn uống, những ai do điều kiện mà không đến được thì người nhà có thể lấy phần mang về. Sau khi mổ lợn làm cỗ xong thì mang cỗ ra Đền Sờn ở giữa cánh đồng. Người chủ lễ và một số già làng, trưởng bản phải ra để làm lễ cúng rước hai vị thần ở đền về nhà chủ lễ. Tại đây, người chủ lễ báo với hai vị thần là lễ cơm mới năm nay sẽ được tổ chức ở nhà ông và mời hai vị về chứng kiến với toàn thể người dân trong bản. Sau đó về nhà tiếp tục cúng lễ. Lễ cúng ở nhà chủ lễ được tổ chức trang trọng và kéo dài hơn, thầy mo phải trình bày cụ thể về tình hình mùa màng, thu hoạch được bao nhiêu lúa gạo, rồi trình bày về lễ cũng cơm mới gồm những gì... sau đó là cầu xin hai vị thần của bản phù hộ cho cả bản mùa màng tiếp theo gặp nhiều thuận lợi và thu hoạch được nhiều lúa gạo hơn, cuộc sống cả bản no ấm hơn. Sau khi làm lễ cúng xong thì đến phần ăn uống và vui chơi. Cả bản bắt đầu mở rượu cần, mang cồng chiêng ra đánh và múa hát vui vẻ. Khi gần tàn lễ, chủ lễ và một số người mang phần cỗ ra Đền Sờn cúng tiễn hai vị thần về đền và sau đó ăn uống hết số rượu, thịt làm cỗ cúng xong mới quay lại tiếp tục vui với bà con trong bản. Lễ cơm mới có thể kéo dài tận khuya khi người dân say rượu rồi hát hò, giao lưu vui vẻ. Sau đó người thì về nhà, có những nhóm còn tách ra giao lưu tiếp. Buổi lễ kết thúc thì người chủ lễ mang một cái xương trâu hoặc lợn (làm cỗ cúng) ra cắm ở đường chính vào bản làm báo hiệu để trong 3 ngày người lạ không được đi đường chính vào bản. Khi nhìn thấy khúc xương đó, người ta biết là bản đang trong thời gian kiêng kỵ sau khi làm lễ cơm mới nên họ tìm đường khác để đi. Tuy nhiên, hiện nay, do giao thông đi lại nhộn nhịp hơn nên việc này không còn được tiếp diễn. Và hiện tại, lễ cúng cơm mới cũng mời lãnh đạo xã hay các bản xung quanh đến dự và ăn uống.

Lễ cúng cơm mới là nghi lễ phổ biến của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống ở miền núi. Nó là nghi lễ nông nghiệp quan trọng, có nhiều giá trị khác nhau trong mối quan hệ con người với tự nhiên và con người với con người. Ngày nay, cùng với sự biến đổi sinh kế và xã hội, nghi lễ cúng cơm mới ở nhiều cộng đồng cũng có những thay đổi nhất định. Nhiều cộng đồng không còn giữ được nghi lễ này, có cộng đồng giữ được nhưng không còn được coi trọng và không tổ chức lớn như trước nữa. Vậy nên, khi muốn khôi phục các giá trị văn hóa gắn với các nghi lễ thì cần phải xem xét đến bối cảnh cụ thể của từng cộng đồng để tìm cách làm phù hợp và hiệu quả.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114618389

Hôm nay

247

Hôm qua

2415

Tuần này

2697

Tháng này

221403

Tháng qua

133594

Tất cả

114618389