Tổng Bí thư Tô Lâm: Thể chế là "điểm nghẽn của điểm nghẽn"
1. Tôi thực sự ấn tượng với nhận định của Tổng Bí thư Tô Lâm về “điểm nghẽn” trong xã hội hiện nay mà “thể chế” là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”. Là người đứng đầu Đảng, chịu trách nhiệm về sự phát triển toàn diện của đất nước, Tổng Bí thư chỉ ra “điểm nghẽn” của điểm nghẽn kìm hãm sự phát triển xã hội là thể chế và yêu cầu phải tháo gỡ. Điều này tất yếu sẽ là sự khởi đầu của một nhận thức mới để đổi mới xã hội một cách toàn diện để khắc phục những khuyết điểm, kìm nén nhằm tìm đường hướng cho sự phát triển trong tương lai. Tất nhiên, xung quanh khái niệm “thể chế” cả giới nghiên cứu khoa học chính trị lẫn khoa học xã hội và nhân văn có nhiều điểm chưa thống nhất, nhất là nội hàm khái niệm. Theo những tài liệu mà tôi biết nhiều người hiểu khái niệm thể chế là hệ thống những văn bản pháp luật, những quy định dưới luật và hệ thống thiết chế, phương thức vận hành chúng…theo những mục tiêu xã hội và con người mà chế độ chính trị hướng tới. Có người nghĩ khác. Thôi thì vấn đề định nghĩa khái niệm dành cho các học giả thuộc lĩnh vực chuyên ngành mặc dù khi bàn về một khái niệm thì điều đầu tiên cần phải nghĩ đến là xác định nội dung thuật ngữ, hệ thống khái niệm công cụ và thao tác để nhận thức và đánh giá nó trong bối cảnh và những quan hệ liên quan. Có vậy mới mong tìm ra cách lí giải gần bản chất vấn đề nhất. Ở bài viết này tôi chỉ giới hạn vấn đề ở những “điểm nghẽn” mà lịch sử dân tộc đã trải qua từ góc độ văn hóa, ở những cách tháo gỡ, vượt thoát ở góc nhìn chung nhất.
2. Sự phát triển của bất kỳ dân tộc nào cũng liên quan đến những giai đoạn có các “điểm nghẽn” ở tất cả mọi lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, con người…và ở bất kỳ lĩnh vực nào cũng có vấn đề của văn hóa. Xét từ bản chất, gỡ những điểm nghẽn văn hóa đều bắt nguồn từ nhận thức hoàn cảnh lịch sử khách quan và chủ quan trong đó nhận thức ra bản chất của điểm nghẽn đã quan trọng nhưng còn có đủ bản lĩnh vượt qua những giới hạn của chính mình để cuộc vượt thoát thành công lại giữ vai trò quyết định sự thành bại của nhận thức. Và phương thức để vượt thoát hoàn cảnh cũng thiên hình vạn trạng bởi khi đã nhìn rõ hướng thì cách đi tùy theo hoàn cảnh cụ thể, năng lực hành động và phương thức tổ chức hiệu quả đến đâu là giữ vai trò quyết định. Đó là giải bài toán thực tiễn, nó phụ thuộc vào năng lực tổ chức và điều hành. Những bài học thành công và thất bại của nhân loại, của nước nhà đã là những ví dụ đắt giá cho vấn đề này.
3. Không dám lạm bàn về những cuộc cải cách trong lịch sử nước nhà vì điều đó có các chuyên gia lịch sử luận bàn nhưng có thể nhìn thấy một điểm chung: các cuộc canh tân - thực chất là tháo gỡ các điểm nghẽn, không thành công bởi ông cha chúng ta trong những thời điểm ấy chưa thực hiện cải cách triệt để, mới chỉ tháo gỡ từng phần trong khi muốn tháo gỡ những điểm nghẽn trong thể chế cần có một sự đồng bộ, toàn diện, mang tính cách mạng chứ không thể chỉ là những sáng kiến, cải cách ở từng bộ phận, đặc biệt là tính chất nửa vời của nó. Nhà Trần thành công khi nhìn thấy sự suy vi của triều Lý ở mọi cấp độ, đặc biệt là ở bộ phận cầm quyền - lực lượng đẻ ra thể chế không thể cứu vãn. Nhà Hồ cũng thực hiện nhiều cải cách nhằm cứu vãn tình thế đất nước ở thế “trứng treo đầu đẳng” nhưng không thể thành công vì “lòng dân không theo”. Những đề xuất của Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ… dù rất thức thời, đầy trách nhiệm thời Nguyễn cũng chỉ là những tiếng kêu tuyệt vọng bởi vòng cương tỏa của chế độ quân chủ lạc hậu thời đó chưa thể vươn tới tầm tiên tiến của nhân loại, không đủ tầm để nhận ra con đường cần đi và không thể tháo gỡ những điểm nghẽn của thời đại là nguyên nhân quan trọng dẫn đến chuyện mất nước.
4. Đầu thế kỷ XX, đất nước ta bước vào giai đoạn khủng hoảng lớn về hướng đi. Chế độ phong kiến nửa thực dân bị những áp lực ghê gớm về con đường phát triển. Pháp một mặt muốn áp đặt chế độ cai trị thực dân của mình lên toàn cõi Đông Dương nhưng cũng không thể giữ mãi chế độ phong kiến lỗi thời kiểu phương Đông. Các tầng lớp sĩ phu yêu nước chọn con đường Đông du, Tây du tìm kiếm những phương thức cứu nước khác nhau. Vẫn cần đào tạo một đội ngũ công chức mới gắn bó với chế độ thực dân nhưng Pháp lo sợ sự tiếp xúc với thế giới văn minh phương Tây, với những tư tưởng tự do dân chủ của chế độ dân chủ tư sản sẽ là con dao hai lưỡi nên buộc phải thành lập Đại học Đông Dương với ý đồ “để một lực lượng trí thức mới Đông Dương vào học ở đó, để tránh họ tiếp xúc trực tiếp với những tư tưởng tiến bộ phương Tây” phòng hậu họa về sau (tờ trình của Toàn quyền Đông Dương gửi Chính phủ Pháp). Dã tâm của giới cầm quyền là vậy nhưng như sự trớ trêu của lịch sử, lứa trí thức được đào tạo trong môi trường này sau đó phần lớn trở thành những trí thức yêu nước, gắn bó với Nhân dân, dân tộc, trở thành những người chống lại chế độ thực dân Pháp - những kẻ đào tạo họ nhằm phục vụ chế độ cai trị kiểu Pháp. Đặc biệt họ là lực lượng tiên phong đưa nước nhà tiệm cận với trình độ phát triển nhân loại.
5. Cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 lật đổ xã hội thực dân nửa phong kiến áp bức bóc lột và kìm hãm sự phát triển của dân tộc đem lại một thời đại mới cho nước nhà. Nhưng trong quá trình xây dựng thể chế mới thuộc về Nhân dân, chúng ta thiếu thốn mọi thứ: nhân tài, vật lực, con người, kinh nghiệm, phương thức tổ chức xã hội….Hồ Chí Minh chỉ ra định hướng văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Đó là một hướng tiếp cận vấn đề mới không phải ngay từ đầu đã được mọi người hiểu đúng. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, văn hóa có thể sửa đổi lối sống cũ, xây dựng đời sống mới, Tổ quốc trên hết…dần trở thành một thực tế sinh động, thành điểm tựa nhân lên sức mạnh của dân tộc giúp chúng ta không chỉ đứng vững mà còn chiến thắng một đế quốc hùng mạnh. Từ đây một chính phủ vì dân, phụng sự Nhân dân, lấy lợi ích Nhân dân, đất nước làm đầu sẽ tạo ra một dân khí mới giải quyết được những vấn đề rất lớn, phức tạp của cuộc kháng chiến, chống thù trong, giặc ngoài, biến nhiều điều từ không thể thành có thể, giải quyết nhiều vấn đề lớn trong tổ chức bộ máy nhà nước, xây dựng lực lượng, đoàn kết dân tộc và kháng chiến thành công. Cốt lõi của tư tưởng này là vấn đề văn hóa, vấn đề con người mà không có những người lèo lái con thuyền cách mạng ấy, đất nước khó có thể cập bến vinh quang. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã nói đến vấn đề lòng dân, thời cơ, uy tín lãnh tụ…Điều này hiển nhiên. Tôi muốn nói thêm cách tiếp cận vấn đề xã hội, đại sự quốc gia, xây dựng thể chế mới từ văn hóa, bằng văn hóa ở Hồ Chí Minh đã tháo gỡ rất nhiều điểm nghẽn mà nếu đem những nguyên tắc tổ chức, quy định dù đã được thông qua và được xem là đúng đắn cũng có thể hỏng việc trong nhiều trường hợp cụ thể. Hiểu đúng văn hóa và vận dụng nó một cách sáng tạo chính là phương thức biện chứng và hiệu quả nhất. Trong một cuộc hội thảo ở Mỹ, trước câu hỏi của nhiều chính khách, tướng lĩnh Mỹ vì sao quân đội Việt Nam thắng Mỹ khi so sánh từ nhiều phương diện, chúng ta không bằng Mỹ, tướng Nguyễn Đình Ước trả lời đại ý chúng tôi thắng Mỹ không phải vì chiến sĩ chúng tôi dũng cảm hơn, trang bị chúng tôi tốt hơn mà chúng tôi biết nhân lên sức mạnh bằng văn hóa Việt Nam. Những người dự hội nghị đã phải suy ngẫm nhiều về điều này. Tôi đã đến đại học Texax Tex, nghe câu chuyện này ở chính Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và chính sách hậu chiến của Mỹ mới chuyển từ đại học Berkely về và cũng ngẫm nghĩ mãi về lời của vị tướng Việt Nam.
6. Nói cho công bằng thời kháng chiến chống Pháp và những năm kháng chiến chống Mỹ nghiên cứu lý thuyết về văn hóa và liên văn hóa chưa nhiều. Do những điều kiện lịch sử và trình độ chung nên chúng ta nghiên cứu và xây dựng hệ thống văn hóa theo mô hình Xô Viết từ góc nhìn của hệ tư tưởng Marx-Lenine, ít nhiều chịu ảnh hưởng quan niệm chính trị hóa và thực dụng của chủ nghĩa Mao. Tính chất giáo điều và chính trị hóa văn hóa đã gây ra những tác hại không nhỏ trong việc định hướng và tổ chức thực hiện cuộc cách mạng văn hóa. Không thể phủ nhận những thành tựu của văn hóa trong phát triển xã hội nhưng rõ ràng nếu chúng ta nhận thức đúng hơn nhiều vấn đề lý thuyết và ứng dụng của văn hóa, thành công của chúng ta trong cuộc cách mạng chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều. Mãi đến thời kỳ Đổi Mới và nhiều năm sau, tuy văn hóa được coi là nền tảng tinh thần và động lực phát triển xã hội thì không ít nhà nghiên cứu và các cấp quản lý vẫn coi văn hóa như là yếu tố phụ thuộc, ăn theo kinh tế và chính trị, vẫn nêu vấn đề “đầu tư cho văn hóa phải ngang tầm với kinh tế” để phát triển bền vững nhưng đầu tư theo phương thức nào, hiểu những vấn đề lý thuyết của văn hóa và vai trò của nó trong văn hóa phát triển vẫn còn nhiều bất cập, sai lầm. Quan niệm ấy rõ ràng trái với tư tưởng văn hóa soi đường cho quốc dân đi, văn hóa đi trước một bước, văn hóa đồng hành trong phát triển bền vững. Chúng ta đề cao vai trò của văn hóa nhưng lại hiểu chưa chính xác nội hàm văn hóa và đặt nó chưa đúng chỗ trong quá trình tổ chức xã hội và phát triển đất nước. Hai điểm nghẽn lớn nhất, có thể coi là “điểm nghẽn của điểm nghẽn” trong văn hóa là không hiểu văn hóa từ bản thể của nó và đánh giá vai trò của con người với tư cách là chủ thể tạo ra văn hóa, là người hưởng thụ văn hóa. Hai vấn đề lớn này vẫn bị tư tưởng chính trị làm lu mờ những yếu tố khác. Ai cũng biết Marx đã nói đến ba nguồn gốc hình thành nên chủ nghĩa Marx nhưng khi tiếp nhận chủ nghĩa Marx và vận dụng vào xây dựng thể chế chúng ta lại bỏ qua yếu tố đa nguyên từ nguồn gốc của chủ nghĩa Marx và triệt để phản bác, kết tội những ai nói đến bản chất đa nguyên của văn hóa, chỉ đề cao khía cạnh tư tưởng hệ của khái niệm trong khi bản chất văn hóa là đa nguyên, cộng sinh. Nếu Hồ Chí Minh cũng nhìn vấn đề như thế chắc chắn người không thể có những đối sách minh triết và thành công thần kỳ trong những năm sau Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến thành công. Trong chính phủ kháng chiến, trong các tổ chức chính trị xã hội biết bao người không phải là đảng viên cộng sản mà là quan lại, trí thức, thân hào, doanh nhân, chức sắc tôn giáo…đã được người sử dụng và họ đã hoàn thành sứ mệnh xuất sắc của mình, không phản bội lòng tin của đất nước, Nhân dân dành cho họ. Bởi người hiểu, tư tưởng chính trị, quan điểm xã hội, đức tin… chỉ là một phần trong mỗi con người, nó gắn với nhận thức mà nhận thức con người có thể thay đổi trong sự vận động và biến đổi của thực tiễn. Vậy mà một thời gian dài chúng ta đã giáo điều, chỉ nhìn sự vật con người ở khía cạnh hồ sơ, đề cao lý lịch chính trị, nguồn gốc xuất thân, bằng cấp chính trị chứ không phải bản lĩnh chính trị để đề bạt, sử dụng cán bộ. Không tôn trọng cá nhân, cá tính, vô tình cơ chế xã hội đã mài mòn dần những con người cá tính, triệt tiêu sự cạnh tranh, sáng kiến, những ý kiến khác với lãnh đạo để nhiều khi chính chúng ta lại phải đau lòng nhận thấy rằng chúng ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội, đã dùng sai người, đã để chảy máu chất xám, đã lãng phí tài năng, rằng hiện nay trong nhiều cơ quan nhà nước chúng ta không tuyển dụng được người có năng lực thực sự. Do một thời gian dài chúng ta nhận thức sai về con người nên đề cao lý lịch chính trị, bằng cấp chính trị, địa vị chính trị, quyền lợi chính trị mà xem nhẹ chân tài, năng lực thực sự của cán bộ…nên đã tạo ra quy trình tuyển dụng, đề bạt cán bộ chưa đúng, gián tiếp gây ra tình trạng dối trá, băng hoại đạo đức xã hội, tham nhũng. Đây là một điểm nghẽn cần giải quyết triệt để để chúng ta có được một nguồn nhân lực lao động chất lượng cao đủ sức gánh vác trách nhiệm xã hội.
7. Quan sát sự phát triển của thế giới chúng ta nhận thấy mô hình phát triển của các nước rất khác nhau. Quê hương của cách mạng dân chủ tư sản chọn mô hình lưỡng viện và dân chủ tư sản. Nước Mỹ cũng chọn mô hình này. Nhưng các nước Anh, Nhật, Tây Ban Nha, Nhật, Thái Lan…chọn mô hình kết hợp cả dân chủ tư sản và quân chủ nhưng thực chất vẫn nghiêng về chế độ dân chủ tư sản. Trung Quốc là một mô hình đặc biệt. Nhưng ở các nước này văn hóa và con người đều được đánh giá giá trị từ góc nhìn bản thể, từ những giá trị xã hội đem lại cho đất nước. Như vậy, thể chế đa đảng hay độc đảng, có đảng cầm quyền không phải là yếu tố quan trọng nhất mà vấn đề con người và tổ chức xã hội với những hệ thống văn bản pháp quy (một thành tố quan trọng của văn hóa) mới là quan trọng nhất. Ở đó vai trò của sáng kiến, cá tính, cạnh tranh về giá trị ở mỗi con người, tổ chức đều được ghi nhận. Cá nhân và tổ chức có thể làm mọi việc không bị pháp luật ngăn cấm và những đóng góp đều được trả công xứng đáng. Như vậy mỗi cá nhân đều có thể đóng góp cho xã hội những gì tinh túy nhất của mình và cống hiến của họ được tôn vinh. Bởi, như thực tế đã chỉ ra, chỉ có cạnh tranh mới tạo ra những sản phẩm tốt nhất cho xã hội. Với con người cũng vậy.
8. Khi đã nhìn ra “điểm nghẽn của điểm nghẽn” về văn hóa và con người thì việc tháo gỡ những cái lỗi thời sẽ rõ ràng và hiệu quả hơn. Như Tổng Bí thư nói, không có rào cản, không có ngoại lệ, đây là thời điểm cần hành động đồng bộ, triệt để mang tinh thần cách mạng chứ không nửa vời. Nếu xóa bỏ những nhận thức sai rồi xóa bỏ những cơ chế sai đã kìm hãm sự phát triển của văn hóa thì văn hóa sẽ góp phần không nhỏ để dân tộc vươn mình trong phát triển đất nước. Bắt đầu từ nhận thức, từ sự minh triết và dũng cảm tự vượt lên mình, phủ nhận mình để phát triển, không phải của cá nhân mà của cả xã hội. Đó là điểm nghẽn đầu tiên cần nghĩ đến và tháo gỡ.
(Bài đã đăng VHTT Nghệ An số Tết Ất Tỵ - Tháng 01/2025)
2150
2270
2895
216651
1114325557
114546329