Góc nhìn văn hóa
Người Nghệ với Tây Nguyên
Người Nghệ rất có duyên với vùng rừng núi Tây Nguyên. Từ trước Cách mạng Tháng Tám 1945, đã có những người Nghệ bước chân lên vùng cao nguyên bạt ngàn để khám phá văn hóa của các tộc người. Rồi trong chiến tranh, cùng có hàng ngàn người Nghệ đã chiến đấu và hi sinh trên chiến trường Tây Nguyên. Từ ngày 30/4/1975, sau khi đất nước thống nhất, người Nghệ di cư vào Tây Nguyên ngày một đông hơn. Có thể nói rằng, người Nghệ đã góp phần quan trọng vào việc nhận thức, bảo vệ và xây dựng vùng đất Tây Nguyên.
Người Nghệ với khám phá văn hóa Tây Nguyên
Có thể nói, trước 1945, những học giả người Pháp đã đặt nền móng cho nghiên cứu văn hóa Tây Nguyên với nhiều công trình quan trọng làm cho thế giới biết đến các tộc người ở vùng núi trung tâm của bán đảo Đông Dương nhiều hơn. Nhưng trong sự ít ỏi người Việt nghiên cứu về Tây Nguyên thời điểm đó, lại gắn với những người Nghệ. Đó là hai anh em học giả Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi. Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước tại làng Đông Thượng, xã Ích Hậu, Can Lộc, Hà Tĩnh nay là làng Thống Nhất, xã Ích Hậu, Lộc Hà, Hà Tĩnh. Chú ruột các ông là Nguyễn Hàng Chi, người lãnh đạo Phong trào chống thuế của Nghệ Tĩnh, bị thực dân Pháp xử chém năm 1908. Cha của các ông là nhà giáo dục học Nguyễn Hiệt Chi, đồng sáng lập Công ty Liên Thành và Trường Dục Thanh ở Phan Thiết, rồi về dạy học ở Trường Quốc học Huế và Quốc học Vinh. Từ nhỏ, hai anh em đã được ăn học đầy đủ và đều có đam mê khám phá văn hóa truyền thống. Cũng vì vậy mà họ đã trở thành những người Nghệ đầu tiên khám phá văn hóa Tây Nguyên từ góc nhìn khoa học. Công trình “Mọi Kon Tum” của Kinh Chi và Đổng Chi là kết quả của niềm đam mê đó.
Nguyễn Kinh Chi lên làm việc tại Kon Tum trước với tư cách là một bác sĩ. Sau khi ổn định cuộc sống, ông viết thư về gia đình bảo Đổng Chi lên sống cùng ông khi Đổng Chi mới học tốt nghiệp trung học. Khoảng năm 1933 thì Nguyễn Đổng Chi mới lên Kon Tum sống cùng với anh trai. Việc Đổng Chi chuyển lên cùng Kinh Chi ở Kon Tum không chỉ để “anh em chung sống cho vui”, mà nó còn có một ý nghĩa quan trọng hơn, đó là nghiên cứu và cho ra đời một công trình khoa học quan trọng của người Việt với Tây Nguyên. Tại Kon Tum, Nguyễn Kinh Chi đưa ra ý tưởng viết một cuốn sách để giới thiệu phong tục, tập quán và cách sinh hoạt của người thượng ở Kon Tum, cụ thể là người Ba-na. Theo sự phân công, Nguyễn Kinh Chi sẽ đọc tài liệu qua các nguồn thư tịch của Pháp còn Nguyễn Đổng Chi sẽ vào nghiên cứu thực địa trong vùng người Ba-na. Sau này, em trai của các ông là Nguyễn Hưng Chi kể lại: “Anh Đổng khi đó là một thanh niên 17-18 tuổi, anh vào các buôn ở xung quanh thị xã, làm quen, kết bạn với các thanh niên dân tộc ở trong vùng và cũng học cách nói chuyện, ve vãn các o dân tộc. Anh sắm một bộ y phục dân tộc gồm khố, áo, khăn choàng để đến đêm mặc vào đi chơi với bạn. Anh sưu tầm những mẩu chuyện dân gian, những bài ca hoặc câu hát đối đáp nam nữ, đi xem những cuộc hội đâm trâu v.v…”.
Các thiếu nữ Ba-na ở Kon Tum
Năm 1937, cuốn “Mọi Kon Tum” ra đời, đó là kết quả mà hai anh em Kinh Chi và Đổng Chi đã dày công nghiên cứu tài liệu và thực địa tại Kon Tum trong mấy năm. Cuốn sách là một công trình nghiên cứu dân tộc học đặc biệt về một dân tộc ở Tây Nguyên, do người Việt Nam biên soạn, nó đặt vấn đề cho việc nghiên cứu các nền văn minh khác ở Tây Nguyên của người Việt. Đây cũng là một trong những công trình quan trọng, cùng với “Việt Nam văn hóa sử cương” (1938) của Đào Duy Anh và “Văn minh Việt Nam” (1939) của Nguyễn Văn Huyên là những trước tác đặt nền móng cho nền khoa học xã hội Việt Nam. Khi đọc để viết lời giới thiệu cuốn sách này trong lần tái bản năm 2011 (với tên gọi “Người Ba-na ở Kon Tum”), GS Andrew Hardy-một nhà nghiên cứu người Pháp làm việc tại Viện Viễn đông Bác cổ đã đánh giá là: “một sản phẩm khoa học có chất lượng cao nhất. Kinh Chi là một bác sỹ và Đổng Chi chưa đầy 20 tuổi, nhưng cuốn sách của họ là dân tộc học thực sự, được nghiên cứu và viết ra bằng phương pháp khoa học và với tinh thần phê phán”. Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi cũng trở thành những người Nghệ nói riêng và người Việt nói chung mở đầu cho nghiên cứu văn hóa tộc người ở Tây Nguyên. Ngày nay, với những người quan tâm, nghiên cứu về Tây Nguyên thì công trình nghiên cứu của hai anh em Kinh Chi và Đổng Chi là tài liệu tham khảo không thể thiếu.
Người Nghệ với quá trình bảo vệ và xây dựng Tây Nguyên
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ để bảo vệ Tổ quốc, có hàng vạn chiến sĩ người Nghệ đã vào miền Nam chiến đấu, trong đó có rất nhiều người đã gắn mình với Tây Nguyên. Chiến trường Tây Nguyên luôn giữ vị trí quan trọng trong kháng chiến và việc người Nghệ chiến đấu, hi sinh ở Tây Nguyên là không hề ít. Người Nghệ với tính cách kiên cường, dũng cảm, không ngại hi sinh, luôn đi tiên trong trên chiến trận, là lực lượng nồng cốt ở nhiều đơn vị. Một trong những tên tuổi anh hùng gắn với chiến trường Tây Nguyên chính là Đại tướng Chu Huy Mân cũng là một người Nghệ.
Đại tướng Chu Huy Mân - Một người Nghệ có nhiều đóng góp trong Chiến dịch Tây Nguyên (Ảnh tư liệu của TTXVN)
Đại tướng Chu Huy Mân, tên khai sinh là Chu Văn Điều, sinh ngày 17/3/1913, tại xã Yên Lưu, Tổng Yên Trường, phủ Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Hòa, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An). Ông tham gia cách mạng từ rất sớm, khi mới 17 tuổi. Sau này trở thành một tướng lĩnh chỉ huy trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông cũng là vị tướng có nhiều đóng góp trên chiến trường Tây Nguyên. Tháng 7 năm 1965, tướng Chu Huy Mân được cử lên Tây Nguyên làm Tư lệnh kiêm Chính ủy mặt trận. Những chiến thắng quan trọng như chiến dịch Pleime, chiến dịch Sa Thầy đều gắn với tài cầm quân của ông. Và nó góp phần quan trọng để đánh đuổi toàn bộ quân Mỹ rút khỏi Tây Nguyên. Đương nhiên, Đại tướng Chu Huy Mân chỉ là một tấm gương tiêu biểu trong hàng ngàn, hàng vạn chiến sĩ người Nghệ đã chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên, trong đó có nhiều người đã nằm mãi mãi với đất rừng Tây Nguyên. Họ là những người Nghệ đã không ngại hi sinh để bảo vệ vùng đất Tây Nguyên.
Sau khi đất nước thống nhất, tiếp bước các cha, anh đi trước, hàng vạn người Nghệ khác lại lên đường vào Tây Nguyên, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng Tây Nguyên ngày một giàu đẹp, khang trang hơn. Ban đầu, có nhiều chiến sĩ bộ đội đã chiến đấu và gắn bó với Tây Nguyên nhiều năm, sau khi hòa bình và đất nước thống nhất, họ quyết định ở lại Tây Nguyên để sinh sống. Dần họ đưa theo gia đình, họ hàng vào, cùng nhau xây dựng lại vùng đất mà họ đã từng không tiếc xương máu để bảo vệ. Những người này không nhiều so với các nhóm khác nhưng là nhóm có tình yêu mãnh liệt với vùng cao nguyên rừng núi bát ngàn này.
Những bước chân Nam tiến của người Nghệ liên tục không ngừng nghỉ, nhất là làn sóng di cư vào Tây Nguyên sau ngày đất nước thống nhất. Từ 1976, khi tình hình ổn định, Nghệ An và sau đó là Nghệ Tĩnh bắt đầu thực hiện các chính sách di cư, chủ yếu đưa người dân vùng đồng bằng lên miền núi khai phá, trong đó có Tây Nguyên. Nhiều người Nghệ đã rời quê vào Tây Nguyên để xây dựng cuộc sống mới. Đầu năm 1979, Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh còn ra Nghị quyết số 169 “Về việc chuyển dân đi xây dựng vùng kinh tế mới” để tiếp tục nhìn nhận lại và thực hiện chính sách di dân lên miền núi. Theo kế hoạch đề ra, giai đoạn từ 1979-1985 sẽ di chuyển 80 vạn người đi xây dựng các vùng kinh tế mới, trong đó có 50 vạn đi ra ngoài tỉnh mà chủ yếu là vào Tây Nguyên và 30 vạn người lên vùng miền núi nội tỉnh. Đây là một lượng dân cư lớn và khi di cư vào vùng kinh tế mới đã gần như rải khắp các tỉnh Tây Nguyên. Họ cũng là những người ban đầu làm cầu nối để sau đó đưa thêm những người quen, gia đình vào xây dựng quê mới.
Bên cạnh những người di cư tự giác theo chính sách nhà nước thì còn hàng vạn người di cư tự do qua mạng lưới xã hội của người Nghệ. Những người đi trước vào trong đó thấy đất đai rộng rãi, màu mỡ, dễ bề sinh sống thì về kêu gọi, đưa anh em, họ hàng, hàng xóm, bạn bè cũng vào. Ban đầu vào một hai người, sau đưa cả gia đình vào sinh sống. Đặc biệt sau những đợt thiên tai, lũ lụt như lụt lớn năm 1978, 1988, hay bão lớn năm 1991… nhiều vùng ở khu vực ven sông Lam và các vùng biển bị thiệt hại nhiều nên hàng ngàn người đã lựa chọn con đường di cư vào Tây Nguyên tìm cuộc sống mới. Cứ như vậy, một cộng đồng người Nghệ ở Tây Nguyên dần hình thành và phát triển không ngừng.
Có một cộng đồng người Nghệ ở Tây Nguyên luôn hướng về quê hương
Trong một chuyến đi khảo sát các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, chúng tôi đã đi dọc qua 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Dù về địa phương nào, chúng tôi cũng gặp rất nhiều người Nghệ sinh sống cả ở đô thị lẫn ở trong các huyện, các xã. Trong các đơn vị quân đội, công ty quốc phòng hay lực lượng an ninh cũng đều có những người Nghệ đang công tác. Đông nhất là làm việc trong các cấp chính quyền địa phương. Hầu hết họ là những người di cư vào Tây nguyên sau năm 1975 vì nhiều lý do khác nhau. Khi đi, chúng tôi mang theo khá nhiều kẹo ku đơ vì biết chắc chắn sẽ gặp nhiều đồng hương trên chuyến hành trình đó. Từ Kon Tum qua Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, chúng tôi đều gặp được nhiều người quê Đức Thọ, Hương Sơn, Can Lộc, Thanh Chương, Nam Đàn, Đô Lương, Hưng Nguyên, Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu… Cứ mỗi lần gặp được một người Nghệ thì tối hôm đó họ lại mời chúng tôi về nhà rồi gọi thêm nhiều đồng hương nữa đến để gặp nhau. Cùng nhau uống rượu, ăn ku đơ, uống chè xanh, nghe thật ấm áp. Cũng cuộc rượu, cũng ku đơ, cũng chè xanh, nhưng hình như ngồi với nhau ở xa quê lại thấy khác lạ, ấm áp và tự dưng cũng thấy yêu quê hương hơn. Bởi lúc đó, những cái gì tốt đẹp nhất của quê nhà đều được đưa ra để làm quà với nhau…
Một điều lạ là ở đâu có người Nghệ thì ở đó sẽ có hội đồng hương. Hầu hết các huyện thị đều có hội đồng hương người Nghệ. Những xã có đông người Nghệ thì họ cũng lập hội đồng hương, còn không thì mấy xã gần nhau cũng lập hội đồng hương Nghệ Tĩnh. Bởi với họ, được gặp đồng hương là vui, là gắn kết với quê. Người vào trước giúp người đến sau, cùng nhau vun vén, bảo vệ và hỗ trợ nhau để phát triển nơi từng là đất lạ. Như anh Nguyễn Văn Hải, một người quê Thanh Chương, vào Kon Tum đã hơn hai mươi năm và làm nghề chạy xe chia sẻ: Nhiều năm nay, cứ dịp đầu năm anh thường lái xe chở những người cùng quê đi họp đồng hương ở nhiều nơi hay đi thăm hỏi anh em. Có những chuyến cả hơn hai chục người đi dọc Tây Nguyên để gặp gỡ bạn bè đồng hương xứ Nghệ. Rồi thỉnh thoảng các bác cựu chiến binh ở quê vào thăm lại chiến trường thì cũng gọi anh chở đi bởi anh cũng từng đi lính, và lái xe nên biết nhiều nơi…
Một trong những địa phương tập trung đông người Nghệ bậc nhất Tây Nguyên là tỉnh Lâm Đồng. Hầu hết các huyện ở Lâm Đồng đều có người Nghệ sinh sống. Đông nhất có lẽ là Đà Lạt, Di Linh, Bảo Lộc… Ở cao nguyên Di Linh, hiện có hơn mười hội đồng hương của người Nghệ: Có hội đồng hương người Nghệ, có hội đồng hương Nghệ An, Hà Tĩnh, cũng có các hội đồng hương tính theo cấp huyện… Và điều quan trọng là các hội đồng hương đều liên hệ với nhau một cách chặt chẽ. Những người Nghệ đầu tiên di cư vào đây lập nghiệp từ cuối những năm 1970. Tuy nhiên, phải cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 thì số người Nghệ di cư vào đây đông hơn. Điều này dễ hiểu vì đây là quãng thời gian kinh tế ở vùng xứ Nghệ gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước. Năm 1988 có trận lụt lịch sử khiến cư dân các huyện ven các con sông lớn, đặc biệt là vùng ven sông Lam bị thiệt hại nặng, hoa màu bị hư hại, nhà cửa bị đổ, đê điều bị hỏng, ruộng đồng phải bỏ hoang. Sự thiệt hại còn chưa kịp phục hồi thì trận bão lịch sử năm 1991 lại đổ bộ vào vùng xứ Nghệ khiến người dân đã nghèo khó lại càng khổ hơn. Và đây chính là thời gian mà người Nghệ di cư đi nhiều nơi để tìm sự sống. Một bộ phận người Nghệ đã di cư vào vùng Di Linh, Lâm Đồng xây dựng kinh tế mới và xây dựng cuộc sống mới ở đây.
Hội đồng hương Nghệ An ở huyện Di Linh (Lâm Đồng) trao thưởng cho con học có thành tích học tập tốt
Theo chia sẻ của ông Nguyễn Đình Uyển, ông Nguyễn Đình Đồng, những người đầu tiên di cư vào vùng Di Linh từ cuối những năm 1970 và là những người thành lập ra Hội đồng hương người Nghệ ở Di Linh thì: Sống ở quê mới, người Nghệ luôn hướng về quê hương của mình. Đa phần hội đồng hương đều tổ chức sinh hoạt họp mặt vào đầu năm và vào cuối hè. Cuộc họp đầu năm để chúc mừng năm mới, thăm hỏi lẫn nhau, trao đổi về các hoạt động của hội trong năm và thông qua việc giúp đỡ các gia đình khó khăn. Cuộc họp thứ hai vào đầu tháng 9 dương lịch để chuẩn bị kỷ niệm ngày Xô viết Nghệ Tĩnh (lấy ngày 12/9/1930, ngày diễn ra sự kiện người dân huyện Hưng Nguyên biểu tình và sau đó lan rộng ra các vùng khác). Sở dĩ họ chọn thời điểm này vì những người vào đây lập nghiệp muốn con cháu nêu cao tinh thần yêu nước mà tinh thần Xô viết Nghệ Tĩnh được họ coi là tấm gương điển hình. Trong cuộc gặp mặt đầu năm, bên cạnh thăm hỏi lẫn nhau và thông qua các hoạt động lớn của hội, còn tổ chức trò chuyện về truyền thống hiếu học, tinh thần cách mạng của quê hương xứ Nghệ cho các con em biết thêm. Còn cuộc gặp mặt tháng 9 thường cũng để trao thưởng cho con em có thành tích tốt trong năm học và xem lại các hoạt động tương trợ của hội. Bên cạnh đó là nói chuyện về tinh thần cách mạng của quê hương cho con em nghe và nói về tình hình quê hương hiện nay để mọi người cùng nắm được. Đây là một hoạt động có tính giáo dục tinh thần cách mạng của quê hương, qua đó giúp cho con cháu hiểu quê, yêu quê hơn. Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng làm cho người Nghệ, dù ở bất cứ nơi đâu, vẫn luôn thể hiện được khí chất của mình: Yêu quê, yêu nước, yêu người./.
tin tức liên quan
Videos
Nguyễn Bính và bài thơ xuân cuối cùng
"Bia Huda - Đậm tình miền Trung" Đơn vị tài trợ cho Chương trình "Chào năm mới 2023"
Thị xã Hoàng Mai: Những nỗ lực bảo tồn và phát huy giá trị di tích
Tiếng Hán trong thơ Hồ Chí Minh
Lần đầu tiên Festival Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An
Thống kê truy cập
114579570

2218

2273

2491

226627

130677

114579570