Nguyễn Thù là danh thần sinh sống dưới thời Hậu Lê. Ông đậu Tiến sĩ và từng có thời gian dài làm quan trong triều Lê Sơ. Sau khi đất nước xảy ra biến loạn, ông chọn con đường ẩn dật, đến vùng đất mới khai hoang, lập làng, gây dựng sự nghiệp.
Nguyễn Thù là danh thần sinh sống dưới thời Hậu Lê. Ông đậu Tiến sĩ và từng có thời gian dài làm quan trong triều Lê Sơ. Sau khi đất nước xảy ra biến loạn, ông chọn con đường ẩn dật, đến vùng đất mới khai hoang, lập làng, gây dựng sự nghiệp.
Đền Cả, xã Đại Đồng, tỉnh Nghệ An
Trung thần thời Lê Sơ
Nguyễn Thù húy là Châu Chu, sinh ra và lớn lên tại làng Bình Hồ, huyện Đông An, phủ Khoái Châu (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Từ nhỏ, Nguyễn Thù đã nổi tiếng thông minh, sáng dạ và có tài ứng đối văn chương, kiến thức vượt xa các bạn cùng trang lứa. Theo “Lịch triều đăng khoa lục”, ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487) đời vua Lê Thánh Tông. Sau khi đỗ đạt, ông được triều đình bổ nhiệm làm quan ở xứ Sơn Đông, rồi lần lượt giữ các chức: Giám sát ngự sử, Cẩn sự lang kinh đạo; Quang tiến Thận lộc Đại phu, Hộ khoa cấp sự trung; Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Chính sứ tán trị, Thừa chính sứ ty, Tham chính,... Trải qua các triều vua với nhiều chức vụ, vị trí quan trọng khác nhau, bằng tài năng và đức độ, lòng trung thành và sự liêm khiết của mình, Nguyễn Thù được triều đình Lê Sơ hết mực tin tưởng, trọng dụng. Tuy nhiên, kể từ sau khi Lê Uy Mục lên ngôi, nhiều phong trào khởi nghĩa liên tiếp nổ ra ở khắp nơi: khởi nghĩa Nguyễn Nghiêm ở Sơn Tây (1512), khởi nghĩa Phùng Chương ở Tam Đảo (1515), khởi nghĩa Đặng Hân và Lê Hất ở Thanh Hóa (1515), đặc biệt là loạn Trần Cảo năm Hồng Thuận thứ 8 (1516),... Đỉnh điểm là sự tiếm ngôi của Mạc Đăng Dung, mở ra Vương triều nhà Mạc.
Trước tình cảnh đó, Nguyễn Thù vốn bước ra từ “Cửa Khổng sân Trình”, chịu ảnh hưởng to lớn bởi quan niệm Nho giáo “tôi trung không thờ hai vua” nên không chịu phục tùng vương triều mới. Vì vậy, ông bị nhà Mạc ra sức truy lùng, đuổi cùng giết tận nhằm diệt trừ họa, củng cố vương triều. Để tránh họa sát thân, ông cùng gia đình phải đã phải chạy loạn khắp nơi.
Cơ duyên với vùng đất Lãng Khê
Khi nghe tin An Thành hầu Nguyễn Kim lập Lê Duy Ninh lên ngôi vua ở Ai Lao (tức Trang Tông hoàng đế), Nguyễn Thù đã nương theo ngọn cờ “phù Lê - diệt Mạc”, cùng gia đình Nam tiến. Đi theo ông còn có người của 5 dòng họ khác là: họ Trương, họ Nguyễn Đình, họ Trịnh, họ Đậu, họ Nguyễn Văn. Trên hành trình Nam tiến, đoàn di chuyển qua nhiều nơi, khi đến xứ Đồng Luân, huyện Nam Đường, trấn Nghệ An (nay là xã Đại Đồng, tỉnh Nghệ An) thấy cảnh núi sông hùng vĩ, có nhiều khe suối, lại ít người qua lại, thích hợp để ẩn cư, Nguyễn Thù và mọi người đã chọn mảnh đất này an cư lập nghiệp, mưu sự lâu dài. Ngay sau đó, dưới sự chỉ huy của ông, mọi người trong đoàn phối hợp với cư dân bản địa bắt tay vào công cuộc khai hoang đồng ruộng, mở mang đất đai. Ông cho đổi tên vùng đất này thành Lãng Khê (vùng đất trong sáng, nơi có nhiều khe suối chảy qua). Không lâu sau đó, Lãng Khê trở thành một vùng trù phú, được liệt vào hạng “nhất thôn, nhất xã”. Đất của làng Lãng Khê xưa trải rộng trên địa bàn 3 xã Đồng Văn, Thanh Ngọc, Thị trấn Dùng của huyện Thanh Chương cũ (nay thuộc xã Đại Đồng).
Vừa khai hoang đất đai, Nguyễn Thù vừa chỉ đạo cho xây đắp, mở rộng một số các công trình thủy lợi, đê điều để phục vụ tưới tiêu, điều hòa nguồn nước. Một trong những công trình thủy lợi mang dấu ấn của ông vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay chính là đào và mở rộng khe Son (khe Minh), đưa nước từ sông Lam vào các vùng đồng ruộng cao ở Bàu Lạt, Bàu Truông, Bàu Rạng. Bên cạnh đó, ông cũng rất chú trọng việc phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp, như nghề trồng dâu nuôi tằm dệt vải, nghề đan lát, nghề rèn,... Song song với phát triển kinh tế, Nguyễn Thù còn đặc biệt chú ý tới việc tổ chức dân cư, phát triển làng xã. Dưới sự chủ trì của ông và quá trình hợp sức của các dòng họ, nhiều trang, ấp đã được hình thành như Yên Trung, Yên Mỹ, Đông Yên, Thượng Yên, Trang Trịnh… tạo nên sự cố kết cộng đồng làng xã, cố kết giữa lưu dân với cư dân bản địa.
Những cống hiến của Nguyễn Thù đã góp phần to lớn trong việc hình thành nên những địa bàn cư trú mới cho cư dân nông nghiệp, giúp họ ổn định cuộc sống, nhất là đối với các lưu dân chạy loạn. Cũng vì vậy, đóng góp của ông không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi làng Lãng Khê mà còn góp phần ổn định tình hình xã hội trong bối cảnh biến động. Do đó, sau khi Nguyễn Thù qua đời, để tưởng nhớ công ơn của ông với quê hương, với vùng đất Lãng Khê, dân làng Lãng Khê và các làng lân cận đã trân trọng gọi ông là Đức Thánh Cả và tôn làm Thành Hoàng làng, thờ phụng ở đền Cả (nay thuộc xã Đại Đồng, tỉnh Nghệ An). Đức Thánh Cả được các triều đại phong kiến ban tặng nhiều sắc phong thần. Đến nay, dòng họ Trịnh vẫn còn lưu giữ được 5 đạo sắc, gồm 4 sắc phong thời Lê Trung hưng (1674, 1683, 1783, 1796) và 01 sắc phong thời Nguyễn (1844), ghi nhận công lao và phong thần Khai Canh. Vị hiệu của thần tại đền như sau “Bản cảnh Tả phủ phán Thành Hoàng, Uyên mô Duệ trí, Hoằng tạo Bình thành đại vương, sắc phong Hiển ứng Phù chính, Bảo quốc Hộ dân, Đôn ngưng Chính trực, Dực bảo Trung hưng, Linh phù Trác vĩ Thượng, Thượng đẳng tối linh tôn thần”.
Như vậy, dù khi còn là vị quan cao chức trọng hay lúc ẩn dật chạy loạn, Nguyễn Thù vẫn luôn một lòng tận trung, tận lực cống hiến cho dân, cho nước. Ý tưởng “kinh bang tế thế” luôn thường trực trong tâm trí của nhà Nho yêu nước ngay cả khi bị đẩy vào tình cảnh khốn cùng, phải mai danh ẩn tích. Nhờ ý chí đó, một vùng đất trù phú của xứ Nghệ đã được hình thành, những lưu dân phiêu tán đã có quê hương mới, có mảnh đất để “cắm dùi”. Cái tên “Đền Cả”, “Đức Thánh Cả” không chỉ minh chứng cho vị trí của Nguyễn Thù trong lòng người dân Lãng Khê mà còn như minh chứng cho chính công lao của ông đối với mảnh đất này./.
2250
2535
22289
224015
134927
114634919