Hội nghị Văn hóa toàn quốc được tổ chức vào tháng 11/2021 đã đề ra các định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
1. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội
Kể từ khi lãnh đạo cách mạng Việt Nam tới nay, Đảng ta luôn nhấn mạnh vai trò của văn hóa đối với cách mạng cũng như đối với sự phát triển xã hội. Ngay trong Đề cương văn hóa năm 1943, Đảng ta đã khẳng định văn hóa là một trong ba mặt trận mà Đảng phải lãnh đạo (cùng với kinh tế và chính trị) để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Suốt trong thời gian sau đó cho tới khi thống nhất đất nước, Đảng ta luôn nhấn mạnh, văn hóa là một trong ba mặt trận, là một phần của sự nghiệp cách mạng (cách mạng tư tưởng - văn hóa), tiến hành đồng thời với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học - kỹ thuật. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thức rõ văn hóa không chỉ là vũ khí đấu tranh cách mạng mà còn thể hiện vai trò đối với sự phát triển đất nước. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” lần đầu tiên khẳng định vai trò to lớn của văn hóa “là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”. Đại hội khóa IX, X, XI nhấn mạnh văn hóa là “nền tảng tinh thần của xã hội”, là mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đại hội XII đã trở lại với quan điểm của Đại hội VIII khi khẳng định “văn hóa là sức mạnh nội sinh của sự phát triển” cho thấy bước tiến trong nhận thức của Đảng ta về vai trò của văn hóa. Văn hóa không chỉ tham gia vào sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn là sức mạnh nội sinh của sự phát triển, là động lực của sự phát triển đất nước.
Ở Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò của văn hóa với tư cách là sức mạnh nội sinh, động lực cho sự phát triển đất nước trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030: “...xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[1]. Hiện nay, Đảng ta còn cụ thể hơn nữa vai trò của văn hóa trong quá trình phát triển đất nước khi khẳng định văn hóa góp phần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trong mỗi công dân “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[2]. Bởi vì chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, để văn hóa trở thành nguồn lực nội sinh cho sự phát triển đất nước nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Phát triển văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, phát triển văn hóa, con người góp phần nâng cao sức mạnh nội sinh của đất nước, vừa giữ vững bản sắc, những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại để hiện đại hóa và làm phong phú cho văn hóa Việt Nam. Từ đó, văn hóa tạo nên động lực mạnh mẽ giúp chúng ta vươn tới các mục tiêu phát triển bền vững, đồng thời góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp để bảo vệ đất nước trước những thách thức mới.
Những năm qua, nhận thức được vai trò của văn hóa trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, con người Việt Nam, Đảng ta đã lãnh đạo quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đạt được những thành tựu nhất định.
Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh - di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại luôn được bảo tồn và phát huy. Ảnh: Ngọc Mai
Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được kế thừa và phát huy trong những hình thức mới. Truyền thống yêu nước, tinh thần nhân ái, khoan dung và khả năng thích ứng là những giá trị được hình thành trong nền văn hóa dân tộc, ngày nay tiếp tục được thể hiện qua sự tham gia tích cực của Việt Nam với tư cách một thành viên có trách nhiệm trong các tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó, nhiều di sản văn hóa được bảo tồn, tôn tạo và tham gia hiệu quả hơn vào quá trình quảng bá hình ảnh của đất nước thông qua các hoạt động du lịch, hoạt động quảng bá văn hóa. Đánh giá về những thành tựu đã đạt được trong việc phát triển văn hóa, xã hội, con người, Đại hội XIII khẳng định: “Nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa khởi sắc. Phát triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống con người được chú trọng”[3].
Tuy nhiên, trong thời gian qua lĩnh vực văn hóa chưa có nhiều đột phá, hiệu quả đạt được chưa cao: “chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn lớn; đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn khó khăn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn nhiều lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa. Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội”[4].
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu, giao thoa giữa các nền văn hóa, cũng khiến cho nhiều quan niệm lai căng, trái với thuần phong mỹ tục xuất hiện. Dưới danh nghĩa “hiện đại hóa”, nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc bị mai một, lối sống hẹp hòi ích kỷ, tôn sùng các giá trị vật chất có xu hướng gia tăng, đặc biệt là trong giới trẻ. Không những thế, sự phát triển kinh tế, xã hội trong những năm qua của đất nước ta diễn ra nhanh chóng, dẫn tới nhiều “khoảng trống” mà văn hóa chưa theo kịp. Con người Việt Nam với tư cách chủ thể của văn hóa Việt Nam tuy đã khẳng định được vị thế, sức mạnh trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nhưng trong bối cảnh mới còn bộc lộ một số mặt hạn chế, chủ yếu là những mặt trái được hình thành từ bối cảnh của nền sản xuất nông nghiệp và văn hóa làng xã cổ truyền. Bởi vậy, quá trình xây dựng và phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước còn nhiều thử thách.
Về mặt quản lý, dù Đảng ta nhấn mạnh tới việc xây dựng văn hóa là “nền tảng tinh thần” của xã hội song việc thể chế hóa các quan điểm, nghị quyết của Đảng còn chậm. Việc quản lý các hoạt động văn hóa chưa thực sự có được sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan, ban ngành các cấp. Vì thế, chất lượng của nhiều hoạt động văn hóa, biểu diễn chưa cao, có những nghệ sĩ có phát ngôn, ứng xử không phù hợp. Văn hóa nước ngoài được giới thiệu ở Việt Nam cũng chưa được quản lý chặt chẽ và đồng bộ, khiến một bộ phận người dân tiếp thu những giá trị ngoại lai lệch lạc. Nguyên nhân của những điều này một phần do chúng ta còn thiếu những văn bản pháp lý để quản lý, điều chỉnh các hoạt động văn hóa, mặt khác do sự thiếu và yếu về mặt nguồn nhân lực quản lý văn hóa.
Ngoài ra, về mặt nguồn lực, nguồn đầu tư cho phát triển văn hóa ở nước ta vẫn chủ yếu từ ngân sách nhà nước, tuy đã được quan tâm nhưng tổng thể vẫn còn thấp, nhất là so với yêu cầu thực tiễn. Cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa như rạp chiếu phim, nhà hát. đa số trong tình trạng xuống cấp và thiếu đồng bộ.
3. Một số giải pháp cơ bản
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức lý luận của các tầng lớp nhân dân về vai trò của văn hóa, phát triển văn hóa đối với phát triển đất nước trong tình hình mới của đất nước và bối cảnh quốc tế. Đảng ta khẳng định phát triển là bước tiến toàn diện trên tất cả các mặt, không chỉ kinh tế mà còn cả chính trị, xã hội, văn hóa và môi trường. Chính vì vậy, văn hóa không thể đứng ngoài phát triển mà là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Những chủ trương, định hướng đúng đắn này phải được nhận thức rõ và hiện thực hóa, trở thành kế hoạch, chương trình hành động bởi các bộ, ngành các lực lượng cán bộ và nhân dân mới mang lại hiệu quả thiết thực. Quá trình giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho mọi lực lượng cần chú trọng tới phương pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp với mỗi đối tượng, phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong từng giai đoạn cụ thể.
Thứ hai, tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện với những phẩm chất phù hợp với yêu cầu của thời đại mới, gắn kết hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Với tư cách là chủ thể của quá trình phát triển đất nước, cần khơi dậy trong con người Việt Nam những phẩm chất quan trọng như yêu nước, nhân ái, đoàn kết, cần cù, sáng tạo và khát vọng phát triển đất nước: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[5]. Có thể thấy, cùng với những phẩm chất tốt đẹp từ truyền thống, Đảng ta đã nhấn mạnh đến việc khơi dậy khát vọng phát triển đất nước của mỗi người dân Việt Nam gắn liền với tinh thần sáng tạo, trí tuệ của người Việt cũng như ý thức đạo đức, trách nhiệm công dân, lối sống tự trọng, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Muốn thế, văn hóa phải được thấm nhuần trong cuộc sống, trong từng hoạt động của con người, trở thành các chuẩn mực văn hóa trong cư xử của cán bộ và nhân dân để hình thành nên môi trường văn hóa lành mạnh nơi công sở, doanh nghiệp và trong Nhân dân.
Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ giá trị mới cho văn hóa Việt Nam nhằm định hướng con người phát triển, hoàn thiện. Hệ giá trị của Việt Nam đã tồn tại, hoạt động và chi phối các hành vi, hoạt động của cộng đồng người Việt qua nhiều thế hệ, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc. Song trong bối cảnh hội nhập quốc tế với nhiều biến động như hiện nay, hệ giá trị có sự biến đổi không ngừng, có những giá trị còn phù hợp và có những giá trị không còn phù hợp. Những biến động này diễn ra hàng ngày trong đời sống, tác động tới suy nghĩ, hành vi của người Việt Nam. Vì vậy, việc xác định rõ một bảng giá trị mới gồm những giá trị cốt lõi, định hình bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, giúp phân biệt với hệ giá trị các dân tộc, quốc gia khác là một việc cần thiết. Đảng ta nhấn mạnh: “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”. Đó là những giá trị tiêu biểu trong hệ giá trị của người Việt truyền thống, có ảnh hưởng đậm nét lên tâm thức, kiểu tư duy, cách ứng xử của người Việt, tạo nên lịch sử oai hùng của dân tộc trong quá khứ, đồng thời cả những giá trị hiện đại, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của nhân loại. Hệ giá trị này sẽ đóng vai trò định hướng để con người Việt Nam vừa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa mà vẫn giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng được nền văn hóa Việt Nam vừa tiên tiến lại đậm đà bản sắc dân tộc, từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới.
Thứ ba, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa nhằm tạo ra các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, vừa đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa của người dân, vừa góp phần lan tỏa những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc ra bên ngoài lãnh thổ. Nếu như trước đây, đã từng có thời kỳ chúng ta quan niệm rằng văn hóa là ngành nghề phi sản xuất, tách rời với kinh tế, thì trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, văn hóa không chỉ đóng khung trong các hoạt động tinh thần mà còn trở thành một ngành sản xuất, có khả năng tạo ra các sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời góp phần phát huy sức mạnh của đất nước. Đại hội XIII của Đảng khi xác định nhiệm vụ phát triển văn hóa xã hội trong năm năm tới cũng nhấn mạnh việc “khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”[6].
Thứ tư, hoàn thiện thể chế quản lý để thúc đẩy sự phát triển văn hóa. Trong Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường…,tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Như vậy, Đảng ta đã nhìn nhận thể chế không chỉ là yếu tố đảm bảo cho sự vận hành của các lĩnh vực đời sống, từ kinh tế tới chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường.. mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của toàn xã hội. Thể chế phát triển bền vững có thể tháo gỡ khó khăn và khơi dậy tiềm năng, nguồn lực cho sự phát triển bền vững của đất nước, trong đó, thể chế quản lý văn hóa phù hợp sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển sáng tạo, đóng góp hiệu quả vào quá trình phát triển xã hội, phát triển con người. Việc hoàn thiện các chính sách phát triển văn hóa cần được chú trọng để khắc phục sự mất cân đối, không đồng bộ giữa phát triển kinh tế và văn hóa, đồng thời giúp huy động được tối đa các nguồn lực cho phát triển văn hóa. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa”[7]. Bên cạnh đó, cần đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý văn hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho văn hóa phát triển theo định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cần đầu tư và đa dạng hóa các nguồn lực cho văn hóa, đặc biệt cần quan tâm tới nguồn nhân lực văn hóa. Vì vậy, Đảng ta chỉ rõ, cần đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, nhất là cán bộ chủ chốt thực sự am hiểu về văn hóa, có phẩm chất, bản lĩnh, năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Tóm lại, sự phát triển của văn hóa đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước bởi nó là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, các Văn kiện của Đảng, nhất là Văn kiện Đại hội XIII đã thể hiện nhận thức lý luận đầy đủ, sâu sắc hơn về văn hóa với tư cách là sức mạnh nội sinh của sự phát triển. Điều đó cho thấy quyết tâm cao của Đảng ta trong việc xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tạo động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
(Bài đã đăng VHTT Nghệ An số 18 - Tháng 9/2025)
Chú thích:
[1] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.115-116.
[2] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr.110.
[3] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr.64-65.
[4] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr.84-85.
[5] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr.34.
[6] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr.145.
[7] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr.146.