Góc nhìn văn hóa

Từ bình dân học vụ “chữ” đến bình dân học vụ “số”: Hành trình 80 năm giải quyết vấn đề phát triển dân trí ở Việt Nam

Bác Hồ thăm một lớp bình dân học vụ. Ảnh: TTXVN

Sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, phong trào bình dân học vụ được đẩy lên cao nhằm tiêu diệt giặc dốt. Sự thành công của phong trào là làm cho tỷ lệ người dân biết chữ được tăng cao hơn. Nhưng quan trọng hơn, bình dân học vụ còn khẳng định người dân Việt Nam là công dân của một quốc gia độc lập, được học tập để vươn lên làm chủ chứ không phải những người nô lệ. Giá trị quan trọng đó thể hiện sự quan trọng của giáo dục cũng như khẳng định tinh thần hiếu học của con người Việt Nam. Hiện nay, khi đất nước bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thì chúng ta lại tiếp tục một phong trào bình dân học vụ khác. Đó là bình dân học vụ số. Bởi chúng ta đang bước vào Kỷ nguyên số, vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nên bình dân học vụ số là một vấn đề quan trọng để “phổ cập số học”, để người dân tiếp cận với văn hóa số, xã hội số, kinh tế số, và để một lần nữa khẳng định tinh thần, năng lực làm chủ trong kỷ nguyên mới của người Việt Nam.

Kỷ nguyên độc lập và bình dân học vụ “chữ”

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc. Một đất nước Việt Nam độc lập đúng nghĩa được hình thành. Nhưng giành được độc lập đã khó, giữ được nền độc lập đó càng khó hơn, và lại vô cùng khó khi phải phát triển đất nước để có đủ nguồn lực, đủ sức mạnh để củng cố độc lập. Cách mạng đã thành công, đã giành được chính quyền, nhưng ngay khi đó, Việt Nam cũng phải đối diện với tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nổi lên là ba loại giặc cần phải đánh đuổi. Đó là “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm. Khẳng định như vậy cũng là một cách thức để nhấn mạnh rằng chúng ta cần phải đẩy mạnh đánh giặc trên ba mặt trận chống lại ba kẻ thù nguy hiểm đó.

Về “giặc dốt”, trong gần một thế kỷ cai trị, thực dân Pháp đã thực hiện các chính sách ngu dân, “hạn chế mở trường học, không muốn cho dân ta biết chữ” nên đã gây những hậu quả hết sức nặng nề đối với đất nước, với con người Việt Nam: Trên 95% dân chúng Việt Nam không biết một thứ chữ gì, đặc biệt là chữ quốc ngữ lúc đó. Riêng với phụ nữ, nạn mù chữ rất nặng nề với tỷ lệ 97,1% - 99,7%. Tính trung bình thì trong 100 người dân chỉ có 3 trẻ em từ 8 đến 16 tuổi được đi học, 2 người lớn biết chữ, còn 95 người bị mù chữ. Đó là chưa kể đến vùng thôn xóm hẻo lánh hay vùng đồng bào thiểu số, ở đó, tỷ số người mù chữ lên tới 100%. Người dân không biết chữ đồng nghĩa với nhiều vấn đề lớn như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Đó là nền dân trí thấp. Đó là không tiếp cận được các chính sách của Nhà nước. Đó là nền giáo dục quá lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu của cách mạng. Và quan trọng nhất, người dân không biết chữ là một hạn chế vô cùng to lớn trong quá trình làm chủ cuộc sống, làm chủ đất nước, trở thành một công dân độc lập. Vậy nên, diệt giặc dốt, xóa nạn mù chữ là một con đường thiết yếu để phát triển con người Việt Nam đủ năng lực làm chủ một quốc gia độc lập.

Để diệt giặc dốt thì cần phải xây dựng và phát triển một nền giáo dục mới. Điều này được khẳng định trong Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về kháng chiến, kiến quốc ngày 25/11/1945: “… tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ, cổ động văn hóa cứu quốc”. Chỉ thị cũng nhấn mạnh đến tính chất của nền giáo dục cách mạng với bộ ba nguyên tắc: khoa học hóa, đại chúng hóa, dân tộc hóa. “Mở chiến dịch chống nạn mù chữ” là nhiệm vụ quan trọng thứ hai trong 6 nhiệm vụ cấp bách được Chính phủ cách mạng thảo luận trong phiên họp đầu tiên vào ngày 3/9/1945. Ngay sau đó, ngày 8/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký nhiều sắc lệnh liên quan đến giáo dục như: Sắc lệnh số 17/SL thành lập Nha Bình dân học vụ trong Bộ Quốc gia Giáo dục, quy định mọi người phải ra sức diệt giặc dốt, đi liền với diệt giặc đói và giặc ngoại xâm. Nhiệm vụ thanh toán nạn mù chữ được đặt lên hàng đầu, đồng thời tiếng Việt được quyết định dùng làm ngôn ngữ của nền giáo dục và cho mọi công văn giấy tờ; Sắc lệnh số 18/SL bãi bỏ ngạch học quan do chính sách thực dân Pháp đặt ra; Sắc lệnh số 19/SL hạn trong 6 tháng, làng nào và thị trấn nào cũng phải có ít ra là 1 lớp học bình dân dạy được ít nhất là 30 người; Sắc lệnh số 20/SL quy định việc bắt buộc học chữ Quốc ngữ trong toàn quốc, quy định học không mất tiền, hạn trong một năm tất cả mọi người Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ… Bình dân học vụ để xóa nạn mù chữ trở thành một nội dung trọng điểm của cách mạng Việt Nam lúc đó.

Tinh thần của phong trào bình dân học vụ được khẳng định qua lời kêu gọi toàn dân “Chống nạn thất học” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ, như các anh chị em trong sáu, bảy năm nay đã gây phong trào truyền bá quốc ngữ, giúp đồng bào thất học. Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi...”. Các loại học phí, lệ phí được miễn trừ, người dân được đi học miễn phí. Các quỹ hỗ trợ bình dân học vụ được xây dựng, sách vở tài liệu được in ấn nhiều hơn nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của người dân. Ngay trong năm đầu tiên thực hiện bình dân học vụ đã có 9,6 vạn người xung phong đi làm giáo viên dạy chữ cho các lớp học. Tính đến tháng 9/1946, sau 1 năm thực hiện đẩy mạnh bình dân học vụ, đã có 75.806 lớp học được mở với sự tham gia của 97.664 người dạy học, cung cấp cho phong trào 2.500.000 cuốn sách. Kết quả là cả nước đã có thêm 2.520.600 người biết đọc, biết viết. Chỉ trong vòng một năm, có 3 triệu người đã biết chữ trong tổng số 15 triệu người mù chữ lúc bấy giờ. Đây là một kết quả to lớn cả về mặt giáo dục, chính trị cũng như một cột mốc quan trọng khẳng định con người Việt Nam đủ năng lực và nỗ lực để học tập, rèn luyện và trưởng thành để làm chủ đất nước.

Kỷ nguyên số và bình dân học vụ số

Các đại biểu ấn nút phát động Phong trào “Bình dân học vụ số” và Khai trương Cổng Thông tin điện tử thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW tỉnh Nghệ An

Việt Nam đang chuyển mình vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc như Tổng Bí thư Trung ương Đảng Tô Lâm đã khẳng định. Kỷ nguyên mới được đặt trên nhiều trụ cột khác nhau từ chính trị, kinh tế, văn hóa và cả con người Việt Nam. Để vươn mình trong kỷ nguyên mới, khoa học công nghệ sẽ là nhân tố quan trọng bậc nhất. Khoa học công nghệ đã thể hiện được vai trò chủ chốt trong quá trình phát triển của đất nước nhiều năm qua. Trong kỷ nguyên mới, khoa học công nghệ sẽ càng trở nên quan trọng hơn nữa bởi hầu như mọi hoạt động, mọi lĩnh vực đều gắn với sự phát triển của khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ là bệ đỡ quan trọng để đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng chính quyền số, chính quyền điện tử. Khoa học công nghệ là động lực cơ bản để phát triển nền kinh tế số mà trụ cột là thương mại điện tử. Khoa học công nghệ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển nền văn hóa số, văn minh tri thức trong bối cảnh hiện nay. Không những vậy, khoa học công nghệ còn góp phần phát triển con người Việt Nam trong nền văn minh trí tuệ, văn minh số được thúc đẩy bởi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Vậy nên, Kỷ nguyên mới hiện nay cũng có thể được coi là Kỷ nguyên số.

Kỷ nguyên số không phải bắt đầu từ khi diễn ngôn về kỷ nguyên mới được lan rộng, mà nó còn là kết quả của quá trình chuyển đổi số trong nhiều năm qua. Ngày 27/9/2919, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đến ngày 17/4/2020, Chính phủ ra Nghị quyết số 50/NQ-CP về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư… Đây là những căn cứ quan trọng để chuẩn bị cho một chương trình chuyển đổi số quốc gia vốn được xem là điều kiện cần thiết để phát triển đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Đến ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Tầm nhìn của Chương trình này là đưa “Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp”. Mục tiêu cơ bản là “nhằm mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu”. Trong đó, Chương trình chuyển đổi số quốc gia cũng đưa ra những mục tiêu cụ thể hơn với nhiều tiêu chí được định ra cho cả giai đoạn đến 2025 và đến 2030. Đây là chính sách quan trọng, không chỉ thể hiện định hướng phát triển khoa học công nghệ quốc gia, mà còn là kim chỉ nam để các địa phương, ban ngành xây dựng chương trình chuyển đổi số của riêng mình sao cho phù hợp với bối cảnh và điều kiện cụ thể.

Để phát triển trong Kỷ nguyên số thì vấn đề đào tạo kiến thức về số cho người dân vô cùng quan trọng. Nó không khác gì xóa mù chữ cho người dân ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945 vậy. Vậy nên, chúng ta lại thực hiện một phong trào bình dân học vụ mới. Đó là phong trào bình dân học vụ số. Phong trào bình dân học vụ số hiện nay mang trong mình sứ mệnh mới: Phổ cập kỹ năng số, giúp mọi người dân có thể tiếp cận, sử dụng và làm chủ công nghệ một cách hiệu quả. Vây nên, khi phát động phong trào bình dân học vụ số, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Chúng ta không chỉ kế thừa di sản quý báu của lịch sử, mà còn phải biết ứng dụng nó vào thực tiễn hiện nay. Việc trang bị tri thức số sẽ giúp người dân tự tin hơn trong môi trường số, chủ động nắm bắt cơ hội và thích nghi với sự phát triển của công nghệ". Để thực hiện điều đó, một hệ thống trực tuyến được xây dựng nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực số và khả năng sử dụng công nghệ, thiết bị, ứng dụng số cho người dân, cũng được gọi là nền tảng bình dân học vụ số. Nền tảng trực tuyến này hỗ trợ giúp người dân phổ cập kiến thức, kỹ năng số cơ bản; Tổ chức các khóa học trực tuyến về kỹ năng số thiết yếu; Hướng dẫn sử dụng máy tính, thiết bị thông minh, mạng xã hội và dịch vụ công trực tuyến; Hỗ trợ người dân tương tác với chính quyền qua nền tảng số; Tuyên truyền về an toàn thông tin, phòng tránh lừa đảo số, nhận diện tin giả, bảo mật dữ liệu cá nhân trên không gian mạng.

Phong trào bình dân học vụ số hiện đang được phát triển rộng rãi từ Trung ương đến địa phương, tạo thành một phong trào học tập không thua kém gì không khí bình dân học vụ của 80 năm trước. Sự phát động và thực hiện bình dân học vụ số đã đánh dấu bước ngoặt trong việc phổ cập tri thức và kỹ năng số, xây dựng nền tảng vững chắc cho một xã hội số, kinh tế số và công dân số. Đây là những nhân tố cơ bản để hình thành và phát triển kỷ nguyên số. Bây giờ, những tri thức và kỹ năng số trở nên phổ biến và cần thiết gần như cho mọi người. Để phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số và văn hóa số thì con người phải làm chủ kỹ năng số. Vậy nên, phong trào bình dân học vụ số là một bước phổ cập quan trọng để nâng cao năng lực con người trong kỷ nguyên số.

Dân trí và sự nâng cao năng lực tự chủ để phát triển đất nước trước sự thay đổi của lịch sử

Chúng ta đang bước vào Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, như Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu”. Về cơ bản, những mục tiêu được đưa ra trong “kỷ nguyên vươn mình” không phải là cái gì xa lạ, mà là sự tiếp nối các mục tiêu của Đảng, Nhà nước, của cách mạng đặt ra trong nhiều thập kỷ qua. Nhưng bên cạnh đó, “kỷ nguyên vươn mình” được đặt ra những mục tiêu mới với động lực mới và những biện pháp thực hiện mạnh mẽ hơn, gắn với xu thế phát triển của toàn thế giới và phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đặc biệt, “kỷ nguyên vươn mình” cũng nhấn mạnh đến nhiều nhân tố của thời đại, như khoa học công nghệ, con người, kinh tế số, chính quyền số, văn minh số… và xem chuyển đổi số gắn với phát triển khoa học công nghệ 4.0 là nhân tố then chốt. Đặt trong bối cảnh đó, phong trào bình dân học vụ số lại càng có nhiều ý nghĩa.

Hai cuộc bình dân học vụ được phát động cách nhau 80 năm nhưng đều có nhiều điểm chung. Trước hết là cả hai phong trào bình dân học vụ được thực hiện trong bối cảnh đất nước đối diện với những thay đổi to lớn của lịch sử, là quá trình chuyển giao sâu sắc với những tác động khác nhau. Sự thay đổi của đất nước trong những thời điểm này đều rất quan trọng, mang tính định hình tương lai của đất nước Việt Nam. Nếu Cách mạng Tháng Tám 1945 mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, thì hiện nay chính là cuộc cách mạng để đưa đất nước vươn mình vào kỷ nguyên số, vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay vào nền văn minh trí tuệ. Điểm chung thứ hai chính là mục tiêu. Cả hai phong trào bình dân học vụ đều hướng đến nâng cao, phát triển dân trí, phát triển con người Việt Nam. Điểm chung thứ ba là cách thức thực hiện từ trên xuống, từ sự phát động và lãnh đạo của Đảng, sự tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và sự tham gia của toàn thể người dân, đưa một phong trào học tập thành một phong trào chính trị xã hội rộng lớn.

Từ phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến phong trào bình dân học vụ số trong bối cảnh hiện nay đều có một mục tiêu chung là nâng cao dân trí, nâng cao năng lực làm chủ cho người dân để phát triển đất nước trước sự thay đổi của lịch sử. Nếu bình dân học vụ xóa nạn mù chữ những năm 1945-1946 là nâng cao dân trí trên phương diện xóa nạn mù chữ, làm cho con người Việt Nam biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ, tiếp cận được các chính sách và tiến tới làm chủ một đất nước độc lập, thì bình dân học vụ số hiện nay cũng vậy, mục tiêu là nâng cao kiến thức và kỹ năng số để người dân có đủ năng lực làm chủ cuộc sống, làm chủ đất nước trong kỷ nguyên số.

Từ phong trào bình dân học vụ xóa nạn mù chữ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến phong trào bình dân học vụ số hiện nay thể hiện một quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong hành trình hơn 80 năm xây dựng và phát triển đất nước. Đó là lấy con người làm trung tâm, lấy con người làm mục tiêu trong quá trình phát triển./.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114606707

Hôm nay

216

Hôm qua

2398

Tuần này

21651

Tháng này

221959

Tháng qua

131673

Tất cả

114606707