Góc nhìn văn hóa

Xô viết Nghệ Tĩnh - Bản anh hùng ca vang mãi cùng non sông, đất nước

Xứ Nghệ (Nghệ An và Hà Tĩnh) là vùng đất anh hùng, địa linh nhân kiệt, ghi dấu nhiều chiến công trong trang sử oai hùng của dân tộc. Cao trào 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh đến hôm nay vẫn vang vọng khí thiêng sông núi, để lại những giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc cho hôm nay và mai sau. Dòng máu Xô viết anh hùng vẫn chảy trong huyết quản nhiều thế hệ, trở thành niềm tự hào thiêng liêng, ví như bản anh hùng ca vang mãi cùng non sông, đất nước của người xứ Nghệ, những giá trị đó đang được giữ gìn và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới.

Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo Nhân dân ta vùng lên đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai. Cao trào cách mạng của quần chúng nhân dân đã diễn ra trên 25 tỉnh, thành trong cả nước, đặc biệt mạnh mẽ từ ngày Quốc tế Lao động 1/5/1930.

Ở Nghệ Tĩnh, phong trào đấu tranh bùng nổ vào sáng ngày 1/5/1930 với sự tham gia của công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy và nông dân các huyện lân cận đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy dệt Nam Định, ủng hộ Liên bang Xô viết. Sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu cho phong trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Xử ủy Trung Kỳ, cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh được mở đầu bằng cuộc biểu tình của công nhân Nhà máy Diêm, Nhà máy Cưa Bến Thủy cùng Nhân dân 5 xã ven thị xã Vinh tỉnh Nghệ An vào ngày 1/5/1930.

Từ đó đến tháng 8/1930, ở Nghệ Tĩnh đã có đến 97 cuộc bãi công, biểu tình của công nhân và nông dân; trong đó, đáng chú ý là cuộc bãi công kéo dài của công nhân Nhà máy Diêm Bến Thủy đã dẫn tới cuộc tổng bãi công của công nhân khu công nghiệp Bến Thủy và sau đó là sự tham gia hưởng ứng của hàng chục nghìn quấn chúng nông dân trong 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.

Các cuộc biểu tình diễn ra đồng loạt, mạnh mẽ đã làm cho bộ máy chính quyền thực dân và bộ máy chính quyền tay sai lâm vào tê liệt, tan rã. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, tổ chức Nông hội (xã bộ nông) đã được thành lập. Song, phải sang đến tháng 9 phong trào đấu tranh của Nhân dân ta mới lên đến đỉnh cao. Ngày 1/9/1930, 20.000 nông dân huyện Thanh Chương biểu tình đòi bỏ thuế, thả tù chính trị. Lính Pháp nổ súng nhưng những người biểu tình vẫn tiến vào huyện đường, phá nhà giam, thả tù nhân, đốt hồ sơ, sổ sách và đánh đổ chính quyền huyện huyện. Trước sự tấn công ồ ạt của Nhân dân, bọn hào lý địa phương đã phải bỏ chạy. Hầu hết các thôn thuộc huyện Thanh Chương rơi vào tình thế không có chính quyền quản lý. Nhân dân xã Võ Liệt đã tự động đứng ra tổ chức điều hành các công việc trong xã.

Ngày 5/9/1930, nông dân huyện Anh Sơn biểu tình ủng hộ Nhân dân huyện Thanh Chương với các khẩu hiệu “bãi bỏ thuế thân”, “chia lại ruộng đất”, “thả tù chính trị”. Tiếp đó, trong 2 ngày (5/9 và ngày 7/9) nông dân 2 huyện Diễn Châu, Can Lộc đốt phá nhà giam của thực dân và phong kiến tay sai. Từ ngày 8/9 đến ngày 11/9/1930, khí thế đấu tranh càng sục sôi và lên cao khi hàng chục nghìn nông dân của các huyện: Nam Đàn, Thanh Chương, Diễn Châu, Can Lộc… đồng loạt nổi dậy. 

…Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước

Nọ Thanh Chương tiếp bước, bước lên

Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên

Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi

Trên gió cả cờ đào phất thẳng

Dưới đất bằng giấy trắng tung ra

Giữa thành một trận xông pha

Bên kia đạn sắt bên ta gan vàng….”

Phong trào được đẩy lên đỉnh cao bằng cuộc biểu tình đấu tranh của 8.000 nông dân huyện Hưng Nguyên vào ngày 12/9/1930 với các khẩu hiệu: “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc! Đả đảo phong kiến”, “Bỏ sưu thuếbớt giờ làmchống khủng bố trắng, đòi bồi thường cho các gia đình bị tàn sát trong cuộc bạo động Yên Bái... đòi chia lại ruộng đất…”. Đoàn biểu tình này xếp hàng dài hơn 1 cây số, tập trung kéo về thành phố Vinh. Theo mô tả, đi đầu là những người cầm cờ đỏ, đi hai bên là đội viên tự vệ được trang bị các loại dao, gậy. Trên đường đi, đoàn biểu tình có lúc dừng lại để diễn thuyết và chỉnh đốn đội ngũ; dòng người càng đi càng được bổ sung thêm cho đến khi đến gần Vinh con số đã lên tới 30.000 người và xếp hàng dài tới hơn 4 km. Thực dân Pháp đã cho máy bay ném bom, xả súng liên thanh vào đoàn biểu tình, làm chết 217 người, bị thương 125 người, đốt cháy 177 nóc nhà, hàng trăm người bị thường và hàng chục người bị bắt giam, một số làng bị thiêu rụi hoàn toàn. Song điều đó cũng không ngăn cản được phong trào đấu tranh của quần chúng nông dân mà càng làm cho cuộc đấu tranh thêm sục sôi khiến cho chính quyền thực dân hoảng sợ.

Trước sự sụp đổ của chính quyền thực dân và phong kiến ở Nghệ Tĩnh, các chi bộ và tổ chức Nông hội đỏ đã quản lý điều hành hoạt động trong làng xã. Những người cách mạng đã lập ra chính quyền Xô viết đầu tiên ở Việt Nam (chính quyền cách mạng sơ khai do giai cấp công nhân lãnh đạo). Chính quyền mới đã ban hành nhiều chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa. Về chính trị, Nhân dân được quyền tự do hội họp, thảo luận và hoạt động trong các tổ chức đoàn thể: Nông hội, Công hội, Đoàn thanh niên cộng sản…Về kinh tế, Nhân dân được chia ruộng, bãi bỏ các thứ thuế vô lý, bất công, thực hiện giảm tô và xóa nợ cho dân nghèo. Về văn hóa, chính quyền cách mạng đã tổ chức đời sống mới, mở các lớp dạy chữ Quốc ngữ, xóa bỏ các tệ nạn, hủ tục lạc hậu, xây dựng tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau.

Đến giữa năm 1931, thực dân Pháp thực hiện chính sách khủng bố, trấn áp. Nhiều cơ quan đầu não của Đảng, các cơ sở trong dân bị phá vỡ, nhiều đảng viên, người biểu tình bị bắt giam hoặc hành quyết. Đã có hàng trăm người bị bắt, bị kết án tù giam trong các nhà tù của thực dân, đế quốc ở Nghệ An, Đà Nẵng, Buôn Mê Thuột và Côn Đảo. Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh dần lắng xuống, rồi thoái trào và cuối cùng đi đến thất bại.

Mặc dù bị kẻ địch khủng bố, đàn áp phong trào trong biển máu, hàng ngàn đồng bào, chiến sỹ cách mạng của Đảng đã hi sinh và bị địch bắt bớ, tù đày nhưng Xô viết Nghệ Tĩnh đã mang lại thành quả to lớn, ý nghĩa và bài học lịch sử sâu sắc đối với Đảng ta và cách mạng nước ta.

Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh được đánh giá là đỉnh cao của phong trào cách mạng trong những năm 1930 - 1931. Đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên trong cả nước để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Đây thật sự là cao trào cách mạng đầu tiên của quần chúng công nông do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo, đánh dấu sự chuyển biến căn bản từ tính chất đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác của phong trào cách mạng Việt Nam; thể hiện ý chí kiên cường, bất khuất, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng tiến công. Xô viết Nghệ Tĩnh là một sự kiện lịch sử trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và đã để lại cho cách mạng nước ta nhiều bài học sâu sắc.

Tuy chỉ tồn tại trong 7 tháng nhưng cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã để lại những dấu ấn tốt đẹp về một Nhà nước công nông đầu tiên, chưa có trong tiền lệ lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của người dân mất nước, nô lệ. Thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh là đã khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân thông qua chính đảng tiên phong của mình, đoàn kết với các tầng lớp nhân dân yêu nước có đủ khả năng đánh đổ nền thống trị của đế quốc, phong kiến tay sai, giải phóng dân tộc, đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân.

Phong trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh không chỉ đặt ra vấn đề liên minh công nông, vấn đề ruộng đất và dân cày, mà còn thực sự là cuộc diễn tập đầu tiên của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, vấn đề đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, từng bước tạo thế và lực để cách mạng Việt Nam và dân tộc ta đi tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Từ phong trào này, lần đầu tiên công nhân và nông dân trong cả nước đã liên minh với nhau trong cuộc đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; chính quyền cách mạng ở một số vùng nông thôn đã ra đời.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử to lớn của cao trào cách mạng 1930-1931, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tuy đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào đó trong một biển máu, nhưng Xôviết Nghệ - Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này”[1]. Trong khi đó Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn khẳng định: “Nếu không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930-1931, trong đó công nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình, thì không thể có cao trào những năm 1936-1939”.

Cao trào 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh đã để lại bài học lớn về sức lôi cuốn, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân của Đảng ta thông qua đường lối, chủ trương, khẩu hiệu đấu tranh đúng đắn, đáp ứng khát vọng cháy bỏng của nhân dân. Từ đó, rút ra kinh nghiệm lịch sử quý báu là bao giờ nhân dân lao động cảm nhận được những lợi ích của mình trong các chủ trương, chính sách, việc làm cụ thể của giai cấp lãnh đạo, thì họ sẽ tích cực, tự giác tham gia hưởng ứng. Và chính Đảng ta, ngay từ đầu đã giúp Nhân dân ta cảm nhận được những lợi ích cơ bản và cấp bách của mình thông qua các chủ trương, khẩu hiệu đúng đắn là: giành độc lập thoát khỏi ách nô lệ, giành ruộng đất, nhà máy về tay công - nông, thực hiện những quyền dân sinh, dân chủ cơ bản đầu tiên...; từ đó, khơi dậy và thúc đẩy động lực cách mạng trong quần chúng nhân dân cả nước. 

95 năm đã trôi qua song khí thế cách mạng ngất trời của Xô viết Nghệ Tĩnh trong những năm 30 của thế kỷ XX cho đến nay vẫn luôn bừng cháy trong lòng những người dân yêu nước Việt Nam. Đảng ta đúc kết rằng, nhờ có sự đoàn kết một lòng, vững chí của Nhân dân, mà phong cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã dáng một đòn bất tử khiến thực dân Pháp kinh hoàng khiếp sợ. Mặc dù trong cuộc đấu tranh đẫm máu này, nhiều người con quê hương xứ Nghệ đã ngã xuống, nhưng đó là sự ngã xuống vinh quang cho dân tộc đứng dậy.

Đã hơn 9 thập kỷ năm trôi qua, biến cố thăng trầm của lịch sử cũng không bao giờ làm lu mờ tinh thần đấu tranh của Nhân dân Nghệ An và Hà Tĩnh thời đó. Thật vậy, người xứ Nghệ ngàn năm qua và hôm nay vẫn một lòng nồng nàn yêu nước, trung thành với Đảng, với Tổ quốc. Truyền thống của các “làng đỏ” ở Nghệ An, Hà Tĩnh luôn được phát huy. Trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc ở thế kỷ XX, Nghệ An, Hà Tĩnh luôn là những tỉnh “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Người xứ Nghệ luôn can trường, dũng cảm, không ngại gian khổ, hy sinh, hiếu học, yêu đời, say sưa sáng tạo văn hóa, hiền hòa, khoan dung, lãng mạn mà thấm đẫm ân tình.

Văn hóa, con người xứ Nghệ, khí chất Xô viết đã trở thành tài sản tinh thần vô giá, sức mạnh nội sinh to lớn để Nhân dân Nghệ An - Hà Tĩnh vượt qua mưa bom bão đạn, vượt qua nắng hạn bão giông, đoàn kết bên nhau chống kẻ thù chung, chinh phục thiên nhiên, tô đẹp non sông gấm vóc, xây dựng cuộc sống mới, xứng đáng với công lao của các bậc tiền nhân. Trong dòng thác đổi mới của đất nước, hai tỉnh Nghệ An - Hà Tĩnh đã có những bước chuyển mạnh mẽ làm thay đổi diện mạo vùng đất núi Hồng - sông Lam. Suốt dọc dải đất xứ Nghệ, cuộc sống mới đang đổi thay từng ngày. Chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng, văn hóa - xã hội có những dấu ấn phát triển, đời sống người dân ngày càng no ấm, hạnh phúc, bộ mặt nông thôn mới các vùng quê rạng rỡ, tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng con người được khai thác, phát huy, xứng đáng với mong ước của cha ông ngàn đời.

Tinh thần Xô viết Nghệ Tĩnh không chỉ đồng hành cùng Nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức để giành thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước mà nó vẫn là bản hùng ca bất tử tiếp tục được gìn giữ, kế thừa và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc hiện nay./.

 

* Học viện Chính trị (Bộ QP)

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.407-408.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114609032

Hôm nay

27

Hôm qua

2476

Tuần này

2983

Tháng này

224284

Tháng qua

131673

Tất cả

114609032