Góc nhìn văn hóa
Xứ Nghệ ghi dấu ấn những điểm tương đồng giữa hai danh nhân La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp và Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác
Bức tượng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp bằng chất liệu đồng thể hiện vẻ uy nghi của một người thầy tài ba (ảnh chụp tại Đền La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp ở thôn Lũy, xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc - Hà Tĩnh).
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp (1723 - 1804), Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724 - 1791) là hai “ẩn sĩ” danh tiếng tài đức và cùng có ảnh hưởng lớn bởi những biến động chính trị xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XVIII. Lê Hữu Trác bậc Thánh Y của nước nhà, danh nhân văn hóa thế giới; Nguyễn Thiếp là một danh sĩ nổi tiếng của Đại Việt, một nhà tư tưởng lớn về giáo dục và là “bậc Thầy” của vua Lê chúa Trịnh; đặc biệt ông được Hoàng đế Quang Trung tôn xưng là “La Sơn phu tử”, “La Sơn tiên sinh”. Qua các giai đoạn lịch sử với nhiều thể chể chính trị xã hội khác nhau, nhưng cuộc đời, sự nghiệp, di sản của Lê Hữu Trác và Nguyễn Thiếp luôn được hậu thế quan tâm tìm hiểu, tôn vinh và phát huy giá trị. Đặc biệt, giữa hai danh nhân Lê Hữu Trác và Nguyễn Thiếp có nhiều điểm tương đồng mà núi rừng xứ Nghệ là vùng đất ghi dấu ấn những điều đáng quan tâm đó về hai vị danh sĩ này.
Tượng đài đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác tại xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh). Nguồn ảnh: Báo Nhân dân
Xuất thân từ dòng họ danh gia vọng tộc, truyền thống khoa bảng: Hai danh nhân Lê Hữu Trác và Nguyễn Thiếp đều xuất thân từ gia thế dòng giỏi trâm anh thế phiệt. Nguyễn Thiếp quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn (nay là xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh); Ông sinh ra trong dòng tộc truyền thống khoa bảng có nhiều người đỗ đạt cao như: Tiến sỹ Nguyễn Bật Lãng, Tiến sỹ Nguyễn Hành,…Mẹ Nguyễn Thiếp là con gái dòng tộc Nguyễn Huy ở Trường Lưu, Hà Tĩnh cũng nổi tiếng là dòng họ nhiều hiền tài; Từ nhỏ Nguyễn Thiếp đã bộc lộ là một người thiên tư sáng suốt, học rộng, hiểu sâu, đi đến đâu cũng được mọi người kính trọng xem là bậc thầy về tài đức; Ông thi Hương đạt Giải Nguyên năm 20 tuổi (1743) và sau đó thi Hội đỗ Tam Trường,... Lê Hữu Trác quê thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên); Ông xuất thân trong một dòng họ danh gia vọng tộc, có 04 đời là Tiến sỹ thời Hậu Lê; Cha là Tiến sỹ Lê Hữu Mưu đỗ Đệ tam giáp Tiến sỹ và làm quan dưới triều Lê Dụ Tôn tới bậc Thượng thư; Thuở nhỏ, Lê Hữu Trác theo cha lưu học ở Thăng Long, nổi tiếng là học trò thông minh, hay chữ và đã thi đỗ Tam Trường. Qua đó cho thấy, điểm tương đồng về gia thế xuất thân của hai danh nhân, bản thân hai ông lại có tài năng, đức độ bậc cao, học hành đỗ đạt thành danh nên cùng có những điều kiện thuận lợi để tiến thân trên con đường khoa cử và quan chức dưới thời Lê - Trịnh.
Miễn cưỡng lên kinh đô theo lời mời của chúa Trịnh, từ chối bổng lộc, không màng danh lợi: Một bước ngoặt lớn mở ra trong cuộc đời của Nguyễn Thiếp và Lê Hữu Trác là hai ông được chúa Trịnh Sâm (1739 - 1782) truyền gọi về kinh để phò giúp triều chính với các nhiệm vụ khác nhau. Năm 1780, chúa Trịnh Sâm cho tờ truyền mời Nguyễn Thiếp ra Thăng Long nhận chức: “Đại đức chiếu đến Nguyễn Thiếp, rất có học hạnh, và gọi tới Kinh. Đã truyền cho quan trấn thủ sai người hộ vệ và cấp bản phí trong 10 ngày… chớ có chậm chạp”1. Lệnh chúa khó cãi, Nguyễn Thiếp miễn cưỡng phải về kinh tham gia công việc của triều đình Lê - Trịnh, nhưng khi ông khuyên chúa Trịnh giữ nghĩa tôi trung và chăm lo cho muôn dân trăm họ, chúa Trịnh không nghe nên ông đã từ chức. Cũng như các bậc chân Nho khác, Nguyễn Thiếp coi lòng trung thành là thước đo giá trị của cá nhân kẻ sĩ. Nguyễn Thiếp đã từ chối và không nhận bất kỳ chức tước, bổng lộc nào của vua chúa ban cho. Xuất xử của Nguyễn Thiếp đã thể hiện khí chất kẻ sĩ đầy bản lĩnh, trí tuệ để thấu hiểu thời thế và không màng danh lợi.
Cùng thời với Nguyễn Thiếp có Lê Hữu Trác cũng được chúa Trịnh cho triệu ra kinh đô Thăng Long (1782), để chữa bệnh cho Thế tử mắc bệnh đã lâu. Nhận được lệnh chúa Trịnh truyền gọi về kinh, Lê Hữu Trác than thở với học trò: “Ta tất khó tránh phải một phen vất vả lên Kinh, rồi sẽ có lúc sẽ phải bận rộn nơi đất chúa mà phụ tình hoa cỏ chốn núi non xưa, ân hận rằng chưa ẩn mình vào được nơi núi cao rừng sâu”2. Ông bứt rứt, băn khoăn nghĩ: “Mình thuở tuổi trẻ, mài gươm đọc sách, mười lăm năm trôi nổi giang hồ, chả làm nên trò trống gì. Sau đấy, đã chẳng màng công danh, dựng lều ở Hương Sơn, phụng dưỡng mẹ già, đọc sách, thảnh thơi theo đạo Phật”3. Ta thấy, tình cảnh, tâm trạng, thái độ của Lê Hữu Trác, trước lệnh truyền gọi về Kinh lúc này khá tương đồng với trường hợp Nguyễn Thiếp. Ngày 17 tháng Giêng năm Nhâm Dần (1782), Lê Hữu Trác từ giã gia đình, học trò rời núi rừng Hương Sơn, Hà Tĩnh lên đường ra Kinh đô chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và chữa bệnh cho cả chúa Trịnh Sâm nên được ưu đãi, chúa Trịnh Sâm muốn cấp cho ông quan tước, bổng lộc, nhưng ông đều khéo léo từ chối. Thời gian ở Kinh đô, Lê Hữu Trác nhiều lần ngỏ ý muốn về thăm cố hương ở trấn Hải Dương và điều ông mong mỏi nhất là trở về quê mẹ Hương Sơn, Hà Tĩnh nhưng cũng phải đợi đến dịp có một thầy lang ở Sơn Tây (Trung Hoa) mới được tiến cử vào hầu chúa, ông mới có cơ hội. Ngày 12 tháng 11 năm 1783, ông về đến đất Hương Sơn, Hà Tĩnh, tiếp tục sứ mệnh người thầy thuốc của Nhân dân.
Sử sách đã khẳng định chúa Trịnh Sâm đã triệu Nguyễn Thiếp và Lê Hữu Trác ra Thăng Long để trọng dụng nhưng cả hai ông đều miễn cưỡng tuân theo một cách khéo léo, thận trọng. Bởi hai ông dự cảm được trước thế đạo suy vi, nhân tâm phân hóa, những cuộc tranh giành quyền lực chính trị sẽ xẩy ra biến cố cung đình. Vậy nên hai ông đã vừa khôn khéo vừa kiên quyết từ chối mọi bổng lộc, chức tước chúa ban. Với thái độ chính trị kiên quyết từ quan để thoát khỏi chốn cung đình đầy biến động phức tạp đã cho thấy hai danh sĩ có “xuất xử” khác biệt với các kẻ sĩ cùng thời. Tuy không giữ một chức quan lớn nào nhưng cả Nguyễn Thiếp và Lê Hữu Trác lại là hai nhân vật lịch sử đáng chú ý, có quan hệ trọng dụng đặc biệt trong phủ chúa Trịnh Sâm - vị chúa nổi tiếng đương thời.
Chán ghét cảnh quan trường, mang ý chí “ẩn sĩ”, chọn núi rừng xứ Nghệ làm điểm đến ẩn cư: Sau những năm tháng tuổi trẻ đầy khát vọng “phò vua giúp nước” cả hai ông đều là những kẻ sĩ mang chí ẩn danh. Đặc biệt, hai danh sĩ đã chọn vùng đất hai bên sườn dãy núi Thiên Nhẫn lịch sử4 thuộc vùng núi rừng xứ Nghệ làm điểm đến ẩn cư.
Nguyễn Thiếp tuy có giữ một số chức quan nhưng đó chỉ là thời thế bắt buộc, tục lệ ràng buộc “thi đậu thì ra làm quan giúp nước”. Trong thời gian 12 năm ở chốn quan trường, mà lòng Nguyễn Thiếp không nguôi ý chí ẩn sĩ, mục tiêu lớn của ông là muốn đem sở học giúp dân và chấn hưng giáo dục nước nhà với “đạo học sâu xa”. Vì vậy, sau khi từ quan danh tiếng của ông vẫn còn vang xa. Cũng vì tài đức lớn của ông mà nhiều đời vua chúa muốn trọng dụng nhưng Nguyễn Thiếp đã từ chối. Thời gian làm quan dưới triều Lê, Nguyễn Thiếp chứng kiến sự mục ruỗng của triều đình, sự suy nhược của vua Lê chúa Trịnh, chán ghét cảnh quan trường nên ông đã từ chức và về quê theo con đường ẩn sỹ (1768). Sau khi từ quan, Nguyễn Thiếp đã chọn vùng đất dưới chân núi Bùi Phong thuộc dãy núi Thiên Nhẫn (Nam Kim, Nam Đàn, Nghệ An) lập trại Bùi Phong để sinh sống, tiếp tục sự học, dạy học và nghiên cứu học thuật. Sự ham học, khổ học của Nguyễn Thiếp với mục tiêu khác với nhiều kẻ sĩ đương thời là học để có vinh hoa phú quý hay ham chức tước bổng lộc triều đình, riêng ông học để mở rộng hiểu biết, nắm vững kinh sách, tinh thông nhiều lĩnh vực để làm việc có ích cho muôn dân và phụng sự đất nước.
Lê Hữu Trác ngay sau khi rời kinh thành (1783), thì bão táp triều chính nổi lên, ông đã mừng thầm vì lựa chọn hợp lý, kịp thời: “Mình đã ẩn thân nơi rừng núi, chẳng đoái hoài gì tới chuyện công danh thành đạt. Một sớm bị triệu, mang thân già tới kinh, thấm thoát đã một năm trời. Trăm xin nghìn cầu mới được thoát khỏi”5. Sau khi thoát khỏi phủ chúa Trịnh, Lê Hữu Trác đã mang chí ẩn sĩ trở về quê mẹ ở thôn Bàu Thượng, xã Tình Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Tại chốn núi rừng Hương Sơn, Hà Tĩnh, hơn 30 năm Lê Hữu Trác đã dành trọn tâm huyết nghiên cứu Y thuật, giúp dân chữa bệnh cứu người với tinh thần nhân đạo cao cả tất cả vì sức khỏe con người: “Chỉ muốn thế gian ngươi không bệnh/Ngâm thơ, uống rượu, thả dáng nhàn”6. Cũng tại đây, trong thời gian ở ẩn, Lê Hữu Trác đã hoàn thành bộ sách thuốc quý giá Hải Thượng Y tông tâm lĩnh.
Như vậy, sau khi từ bỏ quan trường, hai danh sĩ đã cùng về ẩn cư chốn thảo dã hai bên sườn dãy núi Thiên Nhẫn của xứ Nghệ, sống ung dung tự tại, chuyên tâm nghiên cứu Nho - Y - Lý - Số để giúp dân, phụng nước; Nguyễn Thiếp với “Đạo học sâu xa”, Lê Hữu Trác với Y thuật - Y đức, Y đạo; Hai Tiên sinh đã để lại cho muôn đời những di sản vô giá vượt thời gian và vươn ra thế giới.
Giữ trọn Đạo vua tôi và khí chất của bậc chân Nho: Qua những nét tương đồng về xuất xử cho thấy, Lê Hữu Trác và Nguyễn Thiếp là những nhà Nho, trí thức vốn có ý chí ẩn dật, họ không chọn con đường tiến thân và dốc lòng phò tá nhà Lê - Trịnh như những nhà Nho đương thời. Sự miễn cưỡng hợp tác của Nguyễn Thiếp, Lê Hữu Trác với nhà Lê - Trịnh còn có nguyên do bởi thể chế triều chính đương thời vua Lê hư vị, chúa Trịnh chiếm quyền lực. Hơn ai hết, Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp là những Nho sĩ đầy bản lĩnh, trí tuệ rất thấu hiểu thời thế. Suốt bao nhiêu năm khuôn mình theo Nho giáo, họ đương nhiên có những tư tưởng mang tính chuẩn mực, trong đó có “Đạo vua tôi”. Cũng như các bậc chân Nho khác, họ coi lòng trung là thước đo giá trị của cá nhân kẻ sĩ trong cuộc đời và thấu hiểu luân lý: “Tôi trung không thờ hai Chúa”. Nếu giúp chúa Trịnh nắm quyền hoặc lật đổ nhà Lê thì sẽ mang tiếng bất trung. Có lẽ vì thế, mà họ cam tâm làm một kẻ lỡ thời, ẩn dật để nghiên cứu tinh hoa Y học, Đạo học, vừa để giữ tròn khí tiết thanh cao, trung nghĩa của kẻ sĩ. Đây cũng chính là quan niệm “xuất xử” của một nhóm, một bộ phận Nho sĩ thời Lê - Trịnh. Họ đã biết lựa chọn một con đường đi phù hợp trước thời vận khi cuối thời vua Lê - chúa Trịnh, thể chế xã hội còn nhiễu nhương không thể thực hiện chủ trương “Đức trị” của Nho giáo thì lui về ở ẩn, chờ thời.
Nguyễn Thiếp và Lê Hữu Trác là kiểu mẫu nhà Nho muốn thi hành, thực hành những nguyên tắc, đạo lí Nho giáo; sẵn sàng dấn thân, nhập cuộc với lí tưởng “phò vua giúp nước”, mang khát vọng xây dựng một xã hội thái bình thịnh trị theo lý tưởng Nho giáo. Tuy nhiên, do thất vọng, bất mãn trước hiện thực, chán ghét cảnh đua chen chốn quan trường, nên hai ông đều chọn cách từ quan về ở ẩn “tiến lui, xuất xử” theo thời thế, giữ gìn khí tiết phẩm cách kẻ sĩ cao đẹp. Khi bất phùng thời, Nguyễn Thiếp và Lê Hữu Trác đều lui về nơi rừng núi thâm sâu để hòa mình với thiên nhiên vạn vật, toàn tâm nghiên cứu Nho - Y - Lý Số, chữa bệnh cứu người, làm thơ, viết văn, dạy học... Nguyễn Thiếp và Lê Hữu Trác đều mang tầm vóc, vị thế của những bậc Hiền triết, hiểu mình, hiểu đời, biết lựa chọn con đường đi đúng đắn nhất trước thời cuộc phức tạp bấy giờ, nên các ông bảo toàn được bản thân và sau đó tiếp tục có đóng góp lớn cho đời về y học, văn hóa`, giáo dục… Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Thiếp và Lê Hữu Trác chính là tấm gương “kiểu mẫu” của một bộ phận trí thức thời phong kiến Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII “Đức trị làm quan, thời loạn ở ẩn”. Đọc thơ văn Nguyễn Thiếp, Lê Hữu Trác hậu thế cũng dễ nhận thấy, thơ văn của hai ông cùng ẩn chứa nhiều suy tư về nhân tình thế thái và thể hiện khí tiết phẩm cách kẻ sĩ cao đẹp, đúng như lời Phan Huy Chú đã bình phẩm thơ Nguyễn Thiếp: “Đều tao nhã thoát ý, lý thú thung dung, thật là lời của một người có đức, các tao nhân ngâm khách không thể sánh được”. Còn Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác là tác phẩm đặc sắc “Tuy lấy ký sự, một loại hình văn xuôi nghệ thuật làm thể tài ghi - thuật, nhưng âm hưởng của tác phẩm như một bài thơ trữ tình chứa chan niềm tâm sự của tác giả”. Qua Thượng kinh ký sự kể lại cuộc hành trình của Lê Hữu Trác lên kinh chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm, cho ta thấy tư tưởng ông là thái độ “chối bỏ” đối với thể chế xã hội phong kiến đương thời. Đó cũng là nét tâm lý, lối hành xử tiêu biểu cho một bộ phận trí thức Nho giáo lúc bấy giờ. Họ chán công danh, muốn xa lánh cảnh đời rối ren, quay lưng lại sự mời mọc của vua chúa nhưng không quay lưng lại với đời mà họ chọn con đường ẩn sĩ sống ung dung tự tại dành tấm huyết giúp dân, cứu đời, độ thế. Hai danh sĩ Lê Hữu Trác và Nguyễn Thiếp là hai nhân vật tiêu biểu giữ trọn Đạo vua tôi và khí chất của bậc chân Nho.
Hai bên sườn Đông và Tây dãy núi Thiên Nhẫn của xứ Nghệ đã in dấu bước chân cuộc đời, sự nghiệp của hai danh sĩ tầm vóc bậc Hiền triết, Tiên sinh với nhiều nhiều điểm tương đồng đặc biệt. Di tích Quốc gia La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp và Quần thể di tích Quốc gia đặc biệt Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã/đang được các cấp chính quyền cùng Nhân dân bảo tồn và tích cực phát huy giá trị di sản. Dấu ấn của hai danh nhân đã tô điểm cho non sông thêm đẹp, văn hóa xứ Nghệ thêm phần phong phú rực rỡ, mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới về phát triển kinh tế du lịch văn hóa tâm linh./.
Chú thích:
1. Hoàng Xuân Hãn (1998), La Sơn Phu Tử, trong sách La Sơn Yên Hồ, Tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.135.
2, 3. Lê Hữu Trác (1997), Thượng Kinh ký sự (Bùi Hạnh Cẩn dịch), trong sách Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.368.
4. Thiên Nhẫn là tên một dãy núi nằm giáp ranh giữa các huyện: Hương Sơn, Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh và Thanh Chương, Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Minh thế kỷ XV, Lê Lợi đã xây dựng trên núi Thiên Nhẫn một thành đá chạy dài hàng trăm mét gọi là thành Lục Niên. Dấu vết còn lại của thành Lục Niên hiện nay là một dãy đá được xếp dựng đứng trên đỉnh núi. Sau cuộc kháng chiến thành công, Nhân dân đã xây dựng một đền thờ các vị anh hùng dân tộc ngay bên bờ sông Ngàn Phố gọi là đền Trúc. Năm 2004, đền Trúc đã được bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
5. Lê Hữu Trác (1997), Thượng Kinh ký sự (Bùi Hạnh Cẩn dịch), trong sách Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Nxb Thé giới, Hà Nội, tr.369.
6. Lê Hữu Trác (1998), Hải Thượng y tông tâm lĩnh, trong Y lý thâu nhàn, (Dịch giả: Đinh Thụ Hoàng Văn Hòe Hoàng Đình Khoa), Tập I, H. Y học, tr.268.
tin tức liên quan
Videos
Chuyên gia: Sẽ rất sai lầm nếu không thấy sức mạnh chính trị tuyệt vời của Donald Trump
"Phố âm phủ"
Thư viện Nghệ An tiếp nhận sách Hán Nôm do người nhà Tú tài Nguyễn Văn Giáp tặng
"Lang bạt kỳ hồ" và thói quen làm khoa học ếch ngồi đáy giếng
Nhà văn Hoàng Quốc Hải: Làm hàng xóm tốt hoặc trở nên cừu thù là do phía Trung Hoa quyết định!
Thống kê truy cập
114544503

228

2296

21546

214825

1114325557

114544503