Nhìn ra thế giới

Ngoại giao đa phương - Tầm nhìn tương lai

Việt Nam tăng cường “ngoại giao đa phương” để vừa bổ sung vừa đối trọng với “ngoại giao song phương” xuất hiện trong các mối bang giao quốc tế, đặc biệt là trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Đây là thông điệp được chuyển tải từ Hội nghị “Đối ngoại đa phương thế kỷ 21 và khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam”.

Hội nghị ngày 12/8/2014 tại Hà Nội là dịp tổng kết chặng đường gần 30 năm đối ngoại đa phương của Việt Nam, đánh giá thành tựu cũng như đúc rút những bài học và kinh nghiệm của Việt Nam trên các lĩnh vực ngoại giao đa phương trong thời kỳ đổi mới. Đây cũng là dịp để các bộ, ngành, địa phương cùng trao đổi kinh nghiệm với các chuyên gia hàng đầu quốc tế về hoạch định và thực tiễn triển khai đối ngoại đa phương, thống nhất nhận thức giữa các đơn vị liên quan nhằm tạo đồng thuận trong việc đẩy mạnh triển khai đối ngoại đa phương trong thời kỳ hội nhập quốc tế toàn diện.

Tuy không nêu đích danh Trung Quốc, nhưng mạch chủ đạo trong chính sách tới đây là nhằm đối phó với các thách thức của tình hình mới, thể hiện qua các phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Phó Thủ tướng-Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, Thứ trưởng Quốc Phòng, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh và cựu Phó Thủ tướng Vũ Khoan. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: “Trong công cuộc bảo vệ chủ quyền của đất nước, đặc biệt trong tình hình Biển Đông hiện nay, chúng ta cần coi trọng vai trò, tiếng nói của các thể chế, các diễn đàn đa phương, đặc biệt là Liên Hợp Quốc, ASEAN, Phong trào Không liên kết. Chính sự đoàn kết, ủng hộ mạnh mẽ của các bạn bè quốc tế tại các diễn đàn đa phương đối với lập trường chính nghĩa của Việt Nam đã góp phần quan trọng đề cao chủ trương giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, các nguyên tắc ứng xử của khu vực, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”.

Hội nghị quy tụ trên 200 cán bộ ngoại giao trung ương và địa phương trên toàn quốc do Bộ Ngoại giao phối hợp với UNDP (Chương trình Phát triển của LHQ) tổ chức. Theo thông tin chính thức, Hội nghị đã “nhìn lại gần 30 năm thực hiện chính sách đối ngoại đa phương của Việt Nam, rút ra các bài học kinh nghiệm và đề ra khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam và ASEAN”. Khách quốc tế có các ông Pascal Lamy, Chủ tịch danh dự Viện Notre Europe-Jacques Delors, nguyên Tổng Giám đốc WTO; Tiến sỹ Jayantha Dhanapala, Chủ tịch Hội nghị Pugwash về khoa học và các vấn đề thế giới, nguyên Phó Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc phụ trách giải trừ quân bị; Chủ tịch Tập đoàn Kerry Logistics, ông George Yeo, nguyên Ngoại trưởng Singpapore. Đây là lần đầu tiên sau gần ba thập kỷ thi hành chính sách “đa dạng hóa/đa phương hóa” để hội nhập mới có một cuộc thảo luận sâu rộng về lợi ích của nền “ngoại giao đa phương” vào đúng lúc Việt Nam đang rất cần được dư luận quốc tế ủng hộ trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc.

Yêu cầu của “ngoại giao đa phương”

Trong thời gian Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 2/5 đến 17/7, nhà nước Việt Nam đã trao và đề nghị Liên Hợp Quốc (LHQ) từ đầu tháng 7 /2014 “lưu hành hai văn bản về lập trường của Việt Nam đối với việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, đồng thời bác bỏ các yêu sách phi lý của Trung Quốc”. Hai văn kiện này cũng đã được phía Việt Nam gửi cho cả Liên hiệp Châu Âu (EU), 184 nước có bang giao với Việt Nam, Tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và nhiều tổ chức quốc tế.

Việt Nam hành động như trên là để đáp lại Tuyên bố 5 điểm của Trung Quốc phổ biến trước đó cũng tại tại LHQ. Đó là những tuyên bố sai trái và không có cơ sở pháp lý nhằm đổ vấy trách nhiệm cho phía Việt Nam. Để tránh gây sự cố về ngoại giao, không có nước nào công khai ủng hộ lập trường chủ quyền của hai nước Việt Nam và Trung Quốc, mà đa số chỉ kêu gọi hai bên kiềm chế, không có hành động quân sự gây nguy hiểm cho lưu thông hàng hải và cần nói chuyện với nhau để giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình. Ngoại trừ Nga tránh chỉ trích hành động của Trung Quốc, các nước lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc đều đã lên án hành động “gây bất ổn định trên Biển Đông” của Bắc Kinh. Tuy nhiên, EU, theo lời một cựu quan chức Bộ Ngoại giao thì: “tuy có quan hệ tốt đẹp với Việt Nam, nhưng EU chưa lên tiếng mạnh mẽ và rõ ràng như vậy về vấn đề biển Đông… EU vẫn nhìn nhận vấn đề theo cách hạn chế, như thể đó chỉ là tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Thực tế là, quy mô của vấn đề ở tầm khu vực và trên một số phương diện, đây là vấn đề toàn cầu”.

Chính vì vẫn còn những hạn chế bất lợi cho Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế nên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu với Hội nghị rằng: “Thế giới đang hướng đến cục diện “đa cực” cùng với xu thế dân chủ hóa phát triển mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế. Tất cả các quốc gia đều rất coi trọng các thể chế, các phương thức giải quyết đa phương nhằm phục hồi kinh tế, mở rộng không gian phát triển, tạo thêm thế và lực trong cục diện mới. Trong đó, châu Á-Thái Bình Dương đang đi đầu về xu hướng liên kết đa tầng nấc và đã trở thành một trung tâm kinh tế, chính trị năng động”. Để cho “ngoại giao đa phương” đem lại kết qủa tốt, người đứng đầu chính phủ Việt Nam nêu lên 4 yêu cầu: Thứ nhất, cần đề xuất những định hướng cả trước mắt và dài hạn cho đối ngoại đa phương của Việt Nam trong thời kỳ mới. Thứ hai, cần phải đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, cách thức phối hợp liên ngành trong hoạt động đối ngoại nói chung và trong triển khai đối ngoại đa phương. Thứ ba, cần làm rõ những biện pháp để tăng cường thống nhất nhận thức và đồng thuận giữa các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân về tầm quan trọng của đối ngoại đa phương trong hội nhập quốc tế toàn diện phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thứ tư, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành thành viên Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế cần bàn sâu các biện pháp cụ thể nhằm xây dựng, kiện toàn các cơ chế phối hợp liên ngành và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngoại giao đa phương, phù hợp với chuyển biến của tình hình và đáp ứng nhu cầu mới của đất nước.

Để định hình luật chơi chung

Nhưng thế nào là thay đổi từ tư duy “tham gia tích cực” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”? Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tự đánh giá: “Vừa qua, chúng ta chủ yếu là tham gia các diễn đàn, còn hạn chế trong đề xuất sáng kiến, ý tưởng. Phối hợp liên ngành còn bất cập, phối hợp hoạt động ở các diễn đàn khác nhau chưa đồng bộ. Đội ngũ cán bộ còn thiếu chuyên nghiệp, xử lý có lúc chưa linh hoạt”. Điều này có nghĩa, từ nay Việt Nam sẽ tích cực tham gia vào các Tổ chức Quốc tế, chủ động tổ chức các Hội nghị Quốc tế, hợp tác và đưa ra sáng kiến tại các diễn đàn để cùng thảo luận, cùng làm chung để tìm hậu thuẫn cho những sáng kiến Việt Nam nhằm kiến tạo các quan hệ đối tác để tránh bị “ép buộc” bởi các cường quốc. Và để thúc đẩy công việc, các lớp huấn luyện “ngoại giao đa phương” mới sẽ được tổ chức.

Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đề xướng kế hoạch 4 bước được tóm tắt như sau: Một là, “chuyển mạnh từ tư duy “gia nhập và tham gia” sang tư duy “chủ động đóng góp, khởi xướng và tích cực tham gia định hình”, tăng cường cách tiếp cận đa ngành, chú trọng nội hàm phát triển bền vững”. Hai là, “khẩn trương đề xuất định hướng tổng thể và dài hạn của đối ngoại đa phương Việt Nam trong 10 - 20 năm tới. Đây là điều kiện tiên quyết để nâng tầm đối ngoại đa phương đáp ứng các yêu cầu mới của hội nhập quốc tế toàn diện”. Ba là, trong giai đoạn từ nay đến 2020, đối ngoại giao đa phương tập trung vào một số trọng tâm. Bốn là, “cần cải tiến, đổi mới cơ chế thông tin, phối hợp liên ngành và giữa các bộ, ban, ngành với địa phương, doanh nghiệp, phù hợp với chuyển biến của tình hình quốc tế và đáp nhu cầu mới của đất nước”.

Từ nay đến 2020, trọng tâm của ngoại giao đa phương của Việt Nam bao gồm: đảm nhận thành công các trọng trách và đăng cai tổ chức các hoạt động đa phương lớn, đặc biệt là đăng cai Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới năm 2015; đảm nhận vai trò thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 và Hội đồng kinh tế-xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018; đăng cai Hội nghị Cấp cao APEC năm 2017; đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, ứng cử vào Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021... Hoàn tất các cam kết quốc tế lớn có thời hạn vào 2015-2020, nhất là hoàn tất xây dựng Cộng đồng ASEAN và Tầm nhìn ASEAN sau 2015, tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN; các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), tham gia xây dựng các Mục tiêu phát triển (SDGs) của Liên hợp quốc sau năm 2015; hoàn tất các cam kết gia nhập WTO vào năm 2018 cùng các hiệp định thương mại tự do nhiều bên.

Các vĩ thanh

Có hai băn khoăn về Hội nghị 12/8. Thứ nhất là tên gọi. Tại sao “multilateral diplomacy” là một khái niệm phổ biến, thậm chí nó đã trở thành một môn học trong khoa học quan hệ quốc tế lại không được chuyển ngữ thành “ngoại giao đa phương” mà lại chuyển thành “đối ngoại đa phương” (multilateral foreign affairs)? Vẫn hiểu ở đây các nhà tổ chức muốn mở rộng nội hàm của ngoại giao thành đối ngoại; không chỉ hoạt động của riêng Bộ Ngoại giao, mà còn là đối ngoại quốc phòng, đối ngoại đảng, đối ngoại quốc hội… Nhưng ngay trong Hội nghị 12/8, hai khái niệm “đối ngoại” và “ngoại giao” ấy vẫn được dùng thay thế nhau, mà không có sự phân biệt nào cả. Vấn đề ở đây không phải là tầm chương trích cú, mà vấn đề là khi sử dụng hình dung từ “đối ngoại” thay thế danh từ “ngoại giao” thì dễ gây ấn tượng Việt Nam vẫn theo một mô thức riêng, không giống ai. Điều này, đến lượt nó, có thể trở thành rào cản cho sự nghiệp “hội nhập toàn diện” mà Bộ Chính trị đã có Nghị quyết riêng để thúc đẩy.

Thứ hai là vấn đề “phi ý thức hệ”. Dù không tuyên bố một cách công khai, song khi nhấn mạnh vai trò của “ngoại giao đa phương” trên thực tế, các bên liên quan đều quan tâm đến vấn “phi ý thức hệ” trong bang giao quốc tế của Việt Nam. Đây rõ ràng là một góc nhìn nhậy cảm đối với nền chính trị đối ngoại đa dạng hóa/đa phương hóa bao lâu nay. Tuy vậy theo nhận định của nhiều chuyên gia, thì trong quan hệ quốc tế của Hà Nội,  Bắc Kinh vẫn cố tình tác động theo hướng tiêu cực. Và chừng nào “tư duy ý thức hệ” vẫn còn thì chừng đó, vấn đề xác định bạn-thù trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, dầu là song hay đa phương vẫn là một tập hợp mờ. Thực tế Việt Nam đã tuyên bố và thực thi chính sách đa phương hóa các quan hệ và hình thành đối tác chiến lược với hơn 10 nước, nhưng chưa có Mỹ dù cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ đều muốn trở thành đối tác chiến lược của nhau.

Kể từ 1/9 tới đây, đại diện 12 nước tham gia Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ tiếp tục đàm phán tại Hà Nội. Cuộc họp cấp chuyên gia kéo dài mười ngày sẽ tìm cách san bằng các bất đồng trong một số lãnh vực, như quyền sở hữu trí tuệ, công việc cải tổ doanh nghiệp nhà nước. Liệu một khi Việt Nam trở thành thành viên TPP, một quy chế rõ ràng do “ngoại giao đa phương” mang lại, thì tiến trình nâng cấp quan hệ, từ “đối tác toàn diện” lên “đối tác chiến lược” giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có diễn ra chóng vánh hay vẫn là một tiến trình “hai bước tiến, một bước lùi” như thường thấy trước đây. Sự “trồi trụt” trong bang giao Việt-Mỹ từ trước đến nay liệu có được khắc phục bằng sự năng động mới từ “ngoại giao đa phương” hay không? Đây thực sự là một thách đố đối với cả nền ngoại giao song phương lẫn các hoạt động đối ngoại đa phương trong thời gian tới./. 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577354

Hôm nay

2218

Hôm qua

2335

Tuần này

2553

Tháng này

224411

Tháng qua

130677

Tất cả

114577354