Những góc nhìn Văn hoá
Những bước chuyển đổi trong dân ca ví - dặm* Nghệ Tĩnh

Không gian văn hóa cổ truyền và phương pháp bảo tồn không gian văn hóa cổ truyền là hai vấn đề “nóng” đang được giới nghiên cứu Văn hóa và giới nghiên cứu Dân tộc nhạc học trong nước ngày nay bàn thảo nhiều. Hầu hết mọi người đều cho rằng phải bảo tồn được không gian văn hóa cổ truyền hoặc theo lối cổ truyền thì các hình thức sinh hoạt văn hóa và nghệ thuật cổ truyền mới có điều kiện tồn tại, nếu không chúng sẽ bị biến dạng, hoặc bị lai tạp, méo mó.
Để phát biểu ý kiến riêng về vấn đề này, trước hết chúng tôi xin đưa ra bảng phân loại các hình thức nghệ thuật cổ truyền Việt Nam theo tiêu chí sinh hoạt đời sống của các hình thức nghệ thuật đó. Theo tiêu chí này chúng ta có những hình thức sinh hoạt nghệ thuật sau đây:
1. Những hình thức nghệ thuật trình diễn trong các nghi lễ tín ngưỡng dân gian thờ thần (thời thành hoàng làng, thờ Tứ phủ, nhạc hiếu v.v.) và trong các nghi lễ tôn giáo (Phật giáo, Đạo giáo, Thiên Chúa giáo v.v.).
2. Những hình thức nghệ thuật trình diễn trong sinh hoạt giải trí ở gia đình và cộng đồng (hát ru, đồng giao, ngâm thơ, hát lí, hát trống quân v.v.).
3. Những hình thức nghệ thuật trình diễn trong các không gian thực hành lao động (hò sông nước, hò trên cạn, hát phường nghề v.v).
Nhìn vào bảng phân loại trên đây và căn cứ vào những kết quả khảo sát nghiên cứu âm nhạc dân gian Việt Nam của chúng tôi trong nhiều năm trở lại đây, xin có mấy lời chia sẻ về vấn đề này:
- Thứ nhất, không gian giành cho các loại hình nghệ thuật trình diễn trong các nghi lễ tín ngưỡng dân gian thờ thần và trong các tôn giáo ít bị biến động và ít có khả năng biến mất, thậm chí nó còn tiếp tục phát triển. Nguyên nhân do nơi sinh hoạt, phương thức sinh hoạt, niềm tin nơi thần thánh của các tín ngưỡng và tôn giáo này đang được bảo toàn và mở rộng.
- Thứ hai, không gian giành cho nghệ thuật giải trí và lao động đang bị thay đổi từng ngày, thậm chí là từng giờ. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng nguyên nhân chính làm ảnh hưởng trực tiếp tới những hình thức nghệ thuật gắn liền với sinh hoạt giải trí cộng đồng với thực hành lao động xã hội thì nguy cơ biến mất của các hình thức nghệ thuật này là to lớn.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, nhiều hình thức nghệ thuật giải trí trong gia đình và cộng đồng đã và đang tiếp tục bị biến mất do không tranh chấp nổi với nhiều, rất nhiều các hình thức nghệ thuật giải trí trên các phương tiện truyền thông đa phương tiện - những phương tiện vừa hiện đại vừa có nhiều nội dung hấp dẫn. Đặc biệt các sản phẩm văn hóa của nó lại rất rẻ.
Còn các hình thức nghệ thuật sinh ra và gắn liền với thực hành lao động xã hội thì nguy cơ biến mất đã đạt tới mức phi mã. Trước hết do cơ cấu nông nghiệp, thương nghiệp, thủ công nghiệp của xã hội hiện đại ngày nay đã và đang có những thay đổi đáng kể (nếu không nói là hoàn toàn) so với ngày xưa. Đời sống của người nông dân, thương nhân, thợ thủ công đã biến đổi theo nhịp sống hiện đại. Thông tin đa phương tiện đã và đang biến họ thành lớp người hưởng thụ nghệ thuật chứ không tự sản sinh nghệ thuật như xưa nữa.
Vậy nếu cứ bảo tồn là buộc phải trôn trọng, hay phải bảo toàn không gian văn hóa nghệ thuật cổ truyền thì có chăng chúng ta chỉ có thể bảo toàn được các không gian trình diễn nghệ thuật tín ngưỡng, còn nghệ thuật trình diễn trong sinh hoạt giải trí ở gia đình và cộng đồng hay nghệ thuật trình diễn trong các không gian thực hành lao động xã hội thì việc bảo tồn trở nên bế tắc. Để giải quyết bế tắc, theo chúng tôi, trong những trường hợp cụ thể nên có một cái nhìn cởi mở hơn, thoáng đãng hơn, thậm chí phát triển hơn.
Vẫn biết chúng ta rất cần bảo tồn và giữ “nguyên vẹn” những giá trị văn hóa và nghệ thuật trong các không gian văn hóa cổ truyền đến hết khả năng mà chúng ta có thể có. Mặt khác để bảo tồn được những hình thức nghệ thuât này chúng ta cũng cần chấp nhận việc biểu diễn những hình thức nghệ thuật cổ truyền đích thực còn được cộng đồng yêu thích ở những địa điểm khác truyền thống trong đời sống hiện đại và coi đó là việc chuyển đổi tất yếu.
Nếu không chấp nhận sự chuyển đổi tất yếu đó, chúng ta sẽ để mất đi rất nhiều những hình thức nghệ thuật có giá trị văn hóa cao và giá trị nghệ thuật kiệt tác do nhân dân sáng tạo trong trường kì lịch sử. Nếu không chấp nhận, chúng ta sẽ không tìm được tiếng nói đồng thuận, không tìm được những giải pháp có tính khoa học để bảo tồn những giá trị nghệ thuật của quá khứ cho mai sau. Tuy nhiên, việc chuyển đổi địa điểm trình diễn không đồng nghĩa với việc làm méo mó nội dung âm nhạc, cấu trúc âm nhạc của dân ca và dân nhạc cổ truyền.
Đến đây chúng ta có thể đặt câu hỏi: Dân ca Ví-Dặm Nghệ Tĩnh ngày nay có đích thực là Dân ca Ví-Dặm cổ truyền hay không? Hay là Dân ca Ví-Dặm Nghệ Tĩnh đang là dân ca Ví-Dặm chuyển đổi (tức Dân ca Ví Dặm giải trí, Dân ca Ví-Dặm sân khấu, Dân ca Ví-Dặm của Nghệ sỹ chuyên nghiệp, Dân ca Ví-Dặm của các sản phẩm công nghệ giá rẻ như Dân ca Ví Dặm trên các đĩa CD, DVD và trên sóng phát thanh truyền hình v.v.).
Dân ca Ví-Dặm Nghệ Tĩnh thuở xưa đã được mô tả rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, các học giả, các nhạc sỹ như: PGS Ninh Viết Giao, Nhạc sỹ Lê Hàm, Nhạc sỹ Thanh Lưu, Nhạc sỹ Vi Phong, Nhạc sỹ Đào Việt Hưng và nhiều nhạc sỹ, nhà nghiên cứu khác.
Trong bài viết của mình FGS Ninh Viết Giao mô tả: “Quanh năm trên đất Hồng Lam, lúc nào cũng có tiếng hát ví của bà con lao động… Tiếng hát ví đò đưa như nhớ thương người, theo nhịp mái chèo từ mặt nước sông Lam, sông La, sông Phố vẳng lên quyện với giọng hát ví phường vải… “êm như nhiễu, nhẹ như tơ”, trầm ấm man mác từ các thôn xóm vọng ra, lan tỏa khắp động nội cỏ cây…”[1]. Còn nhạc sỹ Vi Phong viết: “ví trèo non là ví đi củi, nhưng gọi là ví trèo non chính xác hơn vì trèo non là leo núi, có thể là đi củi mà chủ yếu là đi bứt củi lá như lá sim, lá mua, lá bổi, lá giành giành (trện), cũng có thể là đi bứt cỏ rú cho trâu bò ăn. Công việc nói chung là giống nhau và đều phải trèo non cả”[2]. Còn “Ví phường buôn… ở Phù Minh có một phường buôn khá đông là phường Ca Kiu. Ca Kiu chính là cà chua “ta” loại quả nhỏ nhưng ăn thơm và độ chua hấp dẫn. Phường này thường đi đến chợ từ đầu hôm, ngủ ngay tại lều chợ và gần như hát ví thâu đêm suốt sáng”[3].
Nếu lược bỏ những mô tả giàu tính văn học về hát Ví của FGS Ninh Viết Giao chúng ta có được không gian trình diễn thật của hát Ví là hát trên sông của những người chèo đò, hát trong xóm nhỏ của những người quay xa trong phường vải. Còn nhạc sỹ Vi Phong mô tả chân thật nơi trình diễn của hai điệu Ví, là Ví trèo non và Ví phường buôn. Ví trèo non là không gian của những người đi củi, còn Ví phường buôn là ví của những người đi bán nông sản do chính họ sản xuất ra, họ đến chợ từ đầu hôm không phải để giành chỗ bán mà để được hát ví với nhau cho thỏa lòng.
Tôi được tiếp xúc với dân ca Ví Dăm từ những năm 60, 70, đó là những lần đi biểu diễn cho nhân dân vùng tuyến lửa. Những lần tiếp xúc ấy không phải ở những không gian thực hành lao động, mà trong các buổi trình diễn của đoàn văn công, những lần sinh hoạt văn nghệ tự biên tự diễn của các tổ chức thanh niên xung phong, những người cảm tử đội bom đạn mở đường, nối đường, vá đường cho quân đi. Họ ít hát riêng từng điệu Ví điệu Dặm mà thông thường họ đặt nó vào trong các hoạt kê, hoạt cảnh, hoặc hát đối nam nữ vừa có lời thoại vừa có ca hát vừa có đàn nhị, đàn bầu, và sáo trúc đệm theo. Nội dung là những lời động viên, khích lệ, ca ngợi lòng dũng cảm của những chiến sỹ mở đường. Sau này tôi lại được xem những vở diễn của Đoàn Dân ca Ví-Dặm (nay đoàn đã trở thành nhà hát), những giọng đơn ca Ví-Dặm trong các liên hoan Ca-múa-nhạc chuyên nghiệp.
Vào những năm 90 thế kỉ XX khi chúng tôi làm phim tài liệu âm nhạc “Quê Bác Một Vùng Dân Ca”, chúng tôi đã nhận được sự tham gia của nhiều nghệ nhân cao tuổi, các bác các cụ nghệ nhân hát rất hay, nhưng khi trò chuyện về lối hát Ví-Dặm ngày xưa, các cụ cũng cười và nói: “thuở ấy chúng tôi cũng còn đang bé, nghe các cụ kể lại là như thế đấy, nhưng mình có được tham gia đâu. Mình học hát là hát thế thôi chứ có hát theo nghề theo phường gì đâu”.
Từ những dữ kiện trên đây, tôi tin rằng những không gian văn hóa cổ truyền để hát Ví-Dặm theo lối xưa đã không còn tồn tại. Có điều chưa ai có thể đưa ra chính xác mốc giới của cái ngày biến mất đó. Song rất may sự biến mất ấy đã không kéo theo sự biến mất của làn điệu (tức nhạc) dân ca Ví-Dặm. Dân ca Ví-Dặm vẫn tồn tại, tồn tại không lệ thuộc vào những không gian văn hóa, nơi khởi nguồn, nơi sinh ra và nuôi dưỡng Ví-Dặm, mà nó tồn tại do đã được cộng đồng Ví-Dặm chuyển đổi chức năng muôn thuở của nó: Chức năng thực hành lao động sang chức năng Ví-Dặm giải trí và Ví Dặm sân khấu để nó phù hợp với tâm lí thưởng thức của con người đương thời.
Không gian Ví-Dặm giải trí được chuyển đổi sớm nhất có lẽ là do các nghệ nhân hát rong. Họ đã biết sử dụng điệu hát Dặm Vè 4 phách nhip C barre có dấu nhấn đột xuất ở 2 phách cuối tạo nhịp điệu lao động khỏe sang hát Dặm Xẩm 2 phách nhịp 2/4, tốc độ chậm, tạo giai điệu mềm mại, uyển chuyển phục vụ giải trí cộng đồng. Rồi những người yêu Ví Dặm cũng đã đặt ra muôn vàn lời ca có nội dung khác nhau, cách sắp xếp làn điệu khác nhau để biểu diễn trong cộng đồng. Những điệu như Dặm Nối, Dặm Đức Sơn, Dặm Cửa Quyền mà nhạc sỹ Vi Phong đã viết trong cuốn Dân ca Nghệ Tĩnh của ông có lẽ cũng được sinh ra nhằm mục đích này. Về sau, những bài Ví Dặm kể chuyện đã làm nẩy sinh lối biểu diễn Ví Dặm kể chuyện. Đây là căn cứ, là nguyên nhân làm nảy sinh ra Sân khấu Ví Dặm ở nửa giữa thế kỉ XX.
Sân khấu Ví-Dặm ra đời là bước chuyển thứ hai, bước chuyển này đã tạo ra các thế hệ nghệ sỹ Ví-Dặm sân khấu. Các nghệ sỹ này đã biến đổi lối hát mộc mạc của Ví-Dặm dân gian thành Ví-Dặm chuyên nghiệp. Giọng hát của các nghệ sỹ Ví-Dặm chuyên nghiệp chau chuốt hơn, khi hát thêm nhiều luyến láy hơn, có dàn nhạc với nhiều nhạc cụ cổ truyền được các nhạc sỹ phối khí cẩn thận, làm cho giai điệu Ví-Dặm uyển chuyển, hấp dẫn hơn.
Hiện tượng từng bước dịch chuyển của dân ca Ví Dặm từ lối hát thực hành lao động, lối hát trao duyên trong các phường nghề, chuyển sang lối hát chơi (tức lối hát không còn gắn với mục đích thực hành lao động nữa) của các nghệ nhân, nghệ sỹ dân gian rồi tiến lên đến sân khấu Ví-Dặm là hai bước chuyển đổi lớn của dân ca Ví-Dặm. Sự dịch chuyển này làm ta liên tưởng tới sự dịch chuyển từ nhạc Tài tử Nam Bộ, thành sân khấu Cải lương Nam Bộ, hai hình thức nghệ thuật khác nhau nhưng có chung cội nguồn. Cội nguồn của nhạc Cải lương là nhạc Tài tử; cội nguồn của sân khấu Ví Dặm là dân ca Ví-Dặm.
Một tất yếu của sự kiện chuyển đổi đã xảy ra, đó là những người làm công việc của sân khấu Ví Dặm buộc phải sân khấu hóa dân ca Ví Dặm. Họ phải hát thế nào để các điệu Ví-Dặm phù hợp với các tâm trạng nhân vật, như: vui, buồn, tức giận, điên cuồng và các tình huống kịch: căng thẳng, bạo liệt, yên bình. Và thế là trong điệu Ví-Dặm có đài từ sân khấu, tiết tấu sân khấu, tiết tấu nhân vật. Cuối cùng cái nguyên bản mộc mạc, chân thật, dản dị của giai điệu dân ca Ví-Dặm khi chuyển sang sân khấu đã không còn giữ được toàn vẹn cái giá trị dung dị dân gian đó nữa.
Sự biến chuyển từ cách thức sinh hoạt này sang cách thức sinh hoạt khác của dân ca nói chung và trong trường hợp cụ thể ở đây là dân ca Ví- Dặm là sự chuyển đổi tất yếu. Sự chuyển đối đó nảy sinh từ sự chuyển đổi chế độ xã hội, tổ chức xã hội, cơ cấu nghề nghiệp và phương thức thực hành nghề nghiệp xã hội. Ngày nay máy móc nông nghiệp thay cho trâu cày, người cấy; xuồng máy, tầu máy thay cho thuyền chèo tay; các nhà máy dệt hiện đại thay cho khung dệt đạp chân; Tivi, băng đĩa nhạc giá rẻ lấn chiếm thời giờ rảnh rỗi của người dân đã và đang là những nguyên nhân làm biến mất các không gian thực hành xã hội của dân ca. Tuy nhiên, guồng quay của xã hội hiện đại không làm cho chúng ta quá lo lắng vì ở Việt Nam không chỉ có Ví-Dặm mà nhiều hình thức dân ca khác gắn với thực hành lao động xã hội đã được, đang được các nghệ nhân, nghệ sỹ tìm mọi cách chuyển đổi phương thức trình diễn để nó tồn tại. Bởi vậy, không gian trình diễn cổ truyền của dân ca Ví-Dặm tuy không còn, song vẫn còn đó những làn điệu Ví-Dặm, kho tàng lời ca Ví-Dặm và cách thức sinh hoạt Ví-Dặm giải trí. Phần còn lại này tuy không toàn vẹn ý nghĩa “văn hóa nghệ thuật cổ truyền” nhưng nó vẫn còn “nguyên vẹn” nội dung âm nhạc Ví-Dặm cổ truyền. Có được sự nguyên vẹn âm nhạc Vi-Dặm ấy cho đến ngày nay là nhờ vẫn còn đó nhiều nghệ nhân Ví-Dặm cao tuổi. Họ là những người đã từng được cha anh truyền dạy, đã từng theo cha anh đến với lối sinh hoạt Ví-Dặm nơi thôn dã, trên cánh đồng hoặc trong những con đò bập bềnh sóng nước ở tuổi thiếu thời. Mặc dù họ chưa từng được ca hát trong các không gian thực hành xã hội đích thực, nhưng họ lại là chứng nhân, là nghệ nhân, nghệ sỹ trình diễn Ví-Dặm rất tài ba trong sinh hoạt giải trí cộng đồng. Thế hệ nghệ nhân này cũng là những nhà thực hành công việc chuyển đổi chức năng cho dân ca Ví-Dặm từ chức năng nghệ thuật thực hành xã hội sang chức năng nghệ thuật giải trí cộng đồng. Sự chuyển đổi chức năng một cách tự nhiên và hữu lí này cũng đã cung cấp cho chúng ta một bài học quý giá để giải quyết bài toán khó về bảo tồn nghệ thuật cổ truyền trong sự biến động mãnh liệt của tổ chức xã hội hiện đại.
Không cùng với cách hành xử khôn khéo của các nghệ nhân để bảo tồn nguyên vẹn những điệu hát Ví-Dặm, các nhà làm nghệ thuật và quản lí văn hóa nghệ thuật Nghệ-Tĩnh đã bước một bước mạnh mẽ hơn. Họ dựa trên dân ca Ví-Dặm để xây dựng sân khấu Ví-Dặm. Đây là việc làm đã có tiền lệ ở nước ta (hiện tượng sân khấu Cải lương ra đời trên cơ sở Nhạc tài tử Nam Bộ là một ví dụ). Mới thoạt nghĩ, có thể cho rằng sân khấu Ví-Dặm ra đời cũng nhằm mục đích bảo tồn dân ca Ví Dặm. Song, thực chất dân ca Ví-Dặm và sân khẫu Ví-Dặm lại là hai loại hình nghệ thuật rất khác nhau. Một đằng dân ca Ví-Dặm thuộc loại hình âm nhạc giải trí dân gian, một đằng Sân khấu Ví-Dặm thuộc loại hình nghệ thuật biểu diễn sân khấu. Nếu dân ca Ví Dặm giải trí có thể hát bất cứ đâu, hát bất cứ lúc nào, có thể tổ chức hát đông người, có thể tổ chức hát ít người tùy theo hoàn cảnh. Người ứng tác lời ca Ví-Dặm giải trí là công chúng Ví-Dặm, là những người yêu thơ ca Ví-Dặm. Thì ngược lại, Sân khấu Ví Dặm có tính chuyên nghiệp cao, có tổ chức nghệ thuật chặt chẽ, tổ chức sân khấu chính quy. Nghệ sỹ sân khấu phải hát những điệu Ví, điệu Dặm đúng với tâm trạng nhân vật kịch, tính cách nhân vật kịch thuộc các tình huống kịch cụ thể. Để thực hiện được đúng yêu cầu này nghệ sỹ phải biết hát thế nào cho giai điệu Ví-Dặm dân gian trở thành giai điệu Ví-Dặm có tính kịch, lại phải có dàn nhạc phối hợp để đẩy tính kịch đó lên. Và như vậy điệu hát Ví-Dặm sân khấu không còn giữ tính hồn nhiên trong ca hát, phóng khoáng trong lối chơi của dân ca Ví- Dặm. Mặt khác hai loại hình nghệ thuật “khác biệt” này, sinh ra hai giới thực hành nghệ thuật có tên gọi khác nhau. Một bên được gọi là nghệ sỹ, một bên được gọi là nghệ nhân. Một bên đã được nhà nước có quy chế phong tặng danh hiệu, còn một bên nhà nước vẫn chưa cho quy chế phong tăng danh hiệu. Song sự khác biệt đến rành rẽ của nó lại chính là tổ chức và cơ cấu nghệ thuật.
Tóm lại, trong trường kì lịch sử phát triển và tồn tại, dân ca Ví-Dặm Nghệ -Tĩnh đã trải qua hai lần chuyển đổi lớn. Xét về bản chất:
- Lần chuyển đổi thứ nhất chỉ chuyển đổi cách thức và địa điểm trình diễn, còn âm nhạc và lời ca Ví-Dặm cổ truyền vẫn được bảo toàn.
- Lần chuyển đổi thứ hai đã biến dân ca Ví-Dặm thành phương tiện thể hiện tình huống, tâm trạng nhân vật kịch của Sân khấu Ví-Dặm. Do đó âm nhạc và lời ca Ví-Dặm dân gian được thay thế bằng lời ca và âm nhạc phục vụ câu chuyện kịch, nhân vật kịch.
Với sự khác biệt như vậy, theo chúng tôi nên sắp xếp dân ca Ví-Dặm giải trí và Sân khấu dân ca Ví Dặm thành hai loại hình nghệ thuật độc lập:
- Dân ca Ví-Dặm giải trí nên xếp vào kho tàng di sản âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
- Sân khấu Ví-Dặm Nghệ Tĩnh nên xếp vào kho tàng di sản nghệ thuật sân khấu Việt Nam.
Sắp xếp như vậy sẽ tương đồng với cách sắp xếp Đờn ca tài tử vào kho tàng di sản âm nhạc cổ truyền Việt Nam, còn Cải Lương sắp xếp vào kho tàng di sản sân khấu cổ truyền Việt Nam như người dân Nam Bộ đã làm. Sự sắp xếp minh bạch như vậy sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn khi xác định hình thức di sản, giá trị di sản của từng loại hình nghệ thuật trong bảng phân loại các hình thức và thể loại di sản nghệ thuật cổ truyền Việt Nam. Sự minh bạch trong phân loại sẽ giúp chúng ta có chương trình hành động quốc gia và các phương án đầu tư tài chính hợp lí để dân ca Ví-Dặm giải trí tồn tại và phát huy rộng rãi trong đời sống các cộng đồng là chủ thể văn hóa của loại hình dân ca nhiều giá trị này.
*Chúng tôi dùng từ Dặm với nghĩa dặm khơi, dặm đường chứ không phải tử Giặm với nghĩa giặm thêm vào. Khi nghiên cứu âm nhạc của điệu Dặm chúng tôi thấy nhịp điệu của nó giống với nhịp điệu hè nhau để di chuyển một vật gì đó, ví như đẩy con đò dọc, đò ngang vượt cạn, hoặc đẩy xe trâu kéo gỗ vượt lầy v.v. khi các phương tiên này đang di chuyển trên những dặm đường thủy, bộ. Đây là điệu hát gắn với một việc làm trực tiếp của người lao động ở các phường nghề thuở xưa ở Ngệ An. Dần dà về sau nó được dân gian chau chuốt và trở thành điệu hát Dặm ngày nay, tuy nhiên cái motive âm nhạc đầu tiên vẫn còn được giữ lại trong điệu Dặm ngày nay, đó là hai dấu nhấn đột ngột ở hai phách cuối của nhịp C barre. Trong cuốn Dân ca Nghệ Tĩnh của Vi Phong do Sở VHTT Hà Tĩnh xuất bản năm 2000 có sử dụng từ dặm như Dặm ru, Dặm xẩm, Dặm nối...
[1]FGS Ninh Viết Giao viết trong cuốn Âm nhạc Dân gian xứ Nghệ, chủ biên Lê Hàm. Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An – 2000.
[2]Vi Phong, Dân ca Nghệ Tĩnh, Sở VHTT Hà Tĩnh - 2000
[3]Vi Phong, sách đã dẫn, tr. 102
tin tức liên quan
Videos
Phải tôn trọng sự thật lịch sử để ứng xử với các di sản văn hoá
Văn và sự xây dựng hệ thống lý luận trong Văn tâm điêu long
Nhìn lại đoạn khởi đầu của Dự án Một vành đai - một con đường
Thư viện Nghệ An đạt giải xuất sắc tại Liên hoan Cán bộ thư viện toàn quốc tuyên truyền chủ đề “Điện Biên Phủ - Vang mãi bản hùng ca”
Cạnh tranh Mỹ - Trung ở Đông Nam Á, Biển Đông và ứng xử của Việt Nam
Thống kê truy cập
114602503

2307

2406

23104

229120

131357

114602503