Những góc nhìn Văn hoá

Thuyền Mỹ cập bến Nam Kỳ1802 ...

 Dn Nhp

Tháng Bẩy năm 1787, Thomas Jefferson, khi đóđang làm SứThần Hoa Kỳtại Pháp, đãbày tỏmột sựquan tâm đến việc thụđắc lúa giống từViệt Nam (hay Nam Kỳ[Cochin-China], nhưvẫn thường được nói đến vào thời kỳđó). Đây cóthểtạo thành sựnhận thức chính thức đầu tiên của Hoa kỳvềxứsởhải ngoại xa xôi đó. Viết cho ông William Drayton tại South Carolina, ông Jefferson đãghi nhận, "Ông Poivre, một nông gia quan trong của vùng Isle of France, trong khi du hành xuyên qua nhiều nước tại ÁChâu, đãquan sát với sựchútâm đặc biệt đến những sản vật trong nền canh nông của họ, vàông ta cho chúng ta hay rằng tại Nam Kỳhọcanh tác 6 loại lúa màông mô tảlàba trong sốđócần đến nước, vàba loại trồng trên những vùng đất cao." (1) Sau đótrong cùng bức thư, ông Jefferson -- cótầm nhìn xa nhưbao giờ-- quyết tâm nhập cảng lúa gạo tốt nhất của Việt Nam:

"Go khôca Nam kđược tiếng trông trng nht, cókhu vngon nht, vàcónăng sut cao nht. Nếu thếcóvnótng hp được các phm cht tt ca chai loi lúa khác màchúng ta đãhay biết. Mt khi nócóththay thếcho hai loi lúa kia, đóslàmt hnh phúc vĩđại, bi nósgiúp chúng ta xóa bcác ao tùđọng nước gây quánhiu tn thương cho sc khe vàđời sng con người. Nhưng bi cósc mnh ca thói quen, vàtính tht thường ca khu vnên chúng ta không thchc chn trước được rng nócóthto ra hiu qunày hay không. Tuy nhiên sthnghim làđiu đáng làm, vàchxem làliu nócóđưa đến vic to ra mt phm cht thba, vàlàm gia tăng nhu cu hay không. Tôi sgng sc đểthu lượm vài loi lúa ging tNam K. Tuy nhiên chuyn này chưa cógìchc chn vàcòn xa vi. " (2)

Viết cho ông Drayton sáu tháng sau đó, trong tháng Một năm 1788, ông Jefferson biểu lộsựquyết tâm liên tục của mình:

"Tôi có nhiu hy vng đáng kvvic nhn được mt slúa go khôtNam K, mt ông hoàng trtui ca xđó, sau này đãra đi tnơi đây, cóbo đảm rng các lúa ging đósđược gi đến tôi. Nhưng thếnào cũng phi chđợi ít lâu cho ln đầu. Đây cũng chlànhng sthnghim; tuy nhiên khái nim sáng sut hướng dn chúng ta thnghim mi điu, vàgicht ly điu tt. "(3)

Hiển nhiên, nỗlực của ông Jefferson với ông hoàng trẻđãkhông thành công bởi vì, hơn một năm sau đó, trong tháng Ba năm 1789, ông đãviết thưcho ông Malesherbes, một nhân vật Pháp nổi tiếng cósựquan tâm nhiều ngành trong đóbao gồm cảvềthực vật học, yêu cầu ông ta dùng ảnh hưởng của mình đểthu lượm "mt trong scác loi lúa ging trng ti Nam Ktrên vùng đất cao, vàkhông cn nước nhiu hơn làlượng nước mưa bình thường."

"Mt tri vàđất vùng Carolina đủmnh đểbo đảm cho sthành công ca loi cây này, vàông Poivre đãđưa ra stường trình vphm cht ca nókhiến cóthdn dngười nông dân Carolina du nhp nóđểthay thếcho loi lúa màhđang có, vn đòi hi cxsbđặt dưới nước trong mt mùa nào đótrong năm, tiêu dit mt slượng cưdân hàng năm vi các chng bnh dch t. Nếu ông cólòng tt quan tâm vvic thu lượm giúp tôi mt vài ht ging ca loi lúa khôca vùng Nam K, ông đúng là cung cp mt công trình quýgiánht cho đồng bào tôi." (4)

Cùng ngày đó, ông Jefferson đãviết tương tựcho ông Benjamin Vaugh tại London, lại cũng trích dẫn ông Poivre vàhy vọng làông Vaugh quen biết những người"có quan hvi ÁChâu nhđóhcóththu lượm được giúp chúng tôi mt vài ht ging ca loi lúa khôtt nht tđất Nam K,"và nếu được nhưthế, "tôi chc rng ông ssn lòng gii thiu chúng tôi vi hđểnhthu lượm mt vài ht ging." (5)  Mặc dùkhông sựphúc đáp nào được ghi nhận từông Vaugh, ông Malesherbes đãtức thời trảlời ông Jefferson, cho hay làhạt giống lúa khô từNam Kỳchưa bao giờchín tại Paris và, do đó, rất làkhókhăn đểtìm thấy tại địa phương. (6)

Mười lăm năm đãtrôi qua trước khi một thương thuyền Hoa Kỳthực sựlái vào cập bến một hải cảng của Việt Nam -- khởi điểm của tập tường trình này bắt đầu -- và ba thập niên khác đãtrôi qua trước khi một thương nhân Hoa Kỳsẽquay vềnước với ít hàng lụa vàđường mía cùng một lượng nhỏhàng gạo màbất hạnh thay đãbịhủy hoại vìmối mọt vàcác loại sâu bọkhác. Chuyến du hành lần thứnhìđóđối đầu với một tình trạng bài ngoại, với việc không quan tâm đến mậu dịch với Hoa Kỳ, với các quan chức nặng đầu óc địa phương, vàvới một loạt các chứng bịnh kỳlạ, tất cảnhững điều đóđãlàm nản lòng sựchúýcủa Hoa Kỳđến khu vực đócho mãi đến thập niên tiếp sau.

I. THƯƠNG THUYN &
THUY
N TRƯỞNG

THƯƠNG THUYN FAME VÀ
THUYN TRƯỞNG JEREMIAH BRIGGS


Năm 1802, TổHợp Crowninshields tại Salem, Tiểu Bang Massachusetts, một trong những gia đình hải vận chính yếu vùng New England, đãgửi một thương thuyền sang Nam Kỳ(Cochin-China), hiển nhiên đểtrắc nghiệm một nguồn cung cấp đường vàcàphêmới vàchưa được thửnghiệm.  TổHợp Crowninshields cóvẻtin tưởng rằng nếu chuyến du hành sang Nam Kỳthất bại, chiếc thuyền cóthểcất (mua) được một chuyến hàng đáng giátại Borneo hay một nơi nào khác trên lộtrình vàchuyến du hành sẽkhông đến nỗi vôích.  Bất kểra sao, đây làchiếc thuyền đầu tiên của Hoa kỳtrong lịch sửsang thăm viếng Việt Nam, vàvịthuyền trưởng của tàu sẽlàngười Hoa Kỳđầu tiên đặt chân lên vùng đất đó(7).

Chiếc thuyền được chọn cho cuộc hải hành, tàu Fame, được hạthủy với nhiều sựkhoa trương ầm ĩ, đãnhổneo vào ngày 17 tháng Một năm 1803, do ông Jeremiah Briggs (8) làm thuyền trưởng.  Vào ngày 15 tháng Năm năm 1802, tàu Fame đãnhìn thấy đảo Côn Sơn ngoài bờbiển phía nam của Nam Kỳ.  Sáng hôm sau, tàu nhìn thấy Mũi St. James (Vũng Tàu, nhưđược ghi chúnơi một phần sau trong nguyên văn, chúthích bởi người dịch) trên bờbiển hướng nam.  Ngày 21 tháng Năm, tàu Fame hạneo tại vịnh Turon (ngày nay là ĐàNẵng). Thuyền trưởng Briggs lên thăm một trong hai chiếc thuyền đang ởtrong vịnh vàkhám phára rằng hai chiếc tàu này thuộc quyền của "Quốc Vương Nam Kỳ" (King of Cochinchina trong nguyên văn, chúthích bởi người dịch) vàđược điều khiển bởi các người Pháp. Ông Briggs đãtới ĐàNẵng đểgặp các viên chức điều khiển các chiếc tàu này, vàtrởvềlại thuyền Fame ngày sau đó. Vịthuyền trưởng thâm niên nhất của Pháp màông Briggs đãtiếp xúc đãcốvấn ông Briggs đi đến "Cowe" (chữtrong nguyên văn, chú thích của người dịch) (được nghĩlàHuế), tức kinh đô, đểyết kiến nhàvua hầu tìm hiểu làliệu cóbất kỳkhảnăng mậu dịch nào hay không.

Ông Briggs khởi hành đi Huếngày 23 tháng Nam bằng một chiếc thuyền nhỏcùng với năm người vàmột hướng dẫn viên người BồĐào Nha đến từMa Cao vàhiện sống tại địa phương.  Họđãtrải qua đêm lại "Hai-foo (có lẽlàFai-foo tức Hội An ngày ngày, chúthích của người dịch), mt địa đim cómt shot động mu dich."  Nhật kýcủa ông Briggs ghi nhận rằng "đãkhông có mt du hiu nào vcông nghip ti đây, cưdân lànhng người lười biếng nht màtôi chưa tng trông thy bao gi, hsng chính yếu nhcámàhđánh bt được rt nhiu, các túp lu ca hnói chung nhbé, vàhoàn toàn đểtrng toang hoác, đểthích nghi vi khíhu vìtri nóng vôcùng."

Ngày kếtiếp, ông Briggs tiếp tục khởi hành đến Huế, ngược dòng sông "Hai-Foo" (sông Thu Bồn (?), chúthích của người dịch), màông Briggs nhận thấy cóthểhải hành bằng các thuyền buồm vàngay cảtàu nhỏ.  Khi ông Briggs tới Huế, ông lên thăm một chiến thuyền thảneo ởđóvàtìm gặp vịchỉhuy người Pháp.  Ông Briggs đãởtrên chiến thuyền ba ngày với vịchỉhuy người Pháp vàđược cho hay rằng ông ta "chưa hềnghe thấy sựviệc nhưlàviệc cất (mua) đường mía từbờbiển này, vàrằng ông ta không nghĩđiều đócóthểxảy ra."  Tuy nhiên, vịchỉhuy người Pháp đãtìm kiếm sựchấp thuận của NhàVua cho phép ông Briggs được mua bán ởbất kỳhải cảng nào dọc bờbiển.  Nhàvua đãtrao cho ông sựchấp thuận này, nhưng ông Briggs đãghi nhận rằng ông "rất cảnh giác từđầu rằng chúng ta sẽgiao dịch với các đối thủcủa mình, khi ông ta chỉđược phép giao dịch tại đây trong vòng khoảng 6 tháng."

Sau khi rời tàu trong 6 ngày ông Briggs đãtrởlại thương thuyền Fame với giấy phép mậu dịch của nhàvua.  Trong 10 ngày sau đó, thương thuyền Fame đãđi thăm dòdọc bờbiển, nhưng hiển nhiên làkhông hềđặt chân lại trên đất liền bởi gặp phải các triều sóng to.  Vào ngày 10 tháng Sáu, thương thuyền Fame đổi hướng sang Manila.

Phần còn lại trong chương nhật kýcủa thuyền trưởng Briggs vềNam Kỳbao gồm một sựmôtảvềxứsởđó, tin tức được nghĩlàông ta thu thập được xuyên qua các sựtiếp xúc với các vịchỉhuy tàu Pháp tại địa phương, vàmột sựtường thuật ngắn vềcác biến cốchính trịgần cận tại Nam Kỳ, trong đóông ta ghi nhận sựgia tăng ảnh hưởng của Pháp tại đó.  Thuyền trưởng Briggs cũng đãmôtảngắn gọn vềthành phốHuế, các sựphòng vệbằng súng thần công (đại bác) đáng nểcủa nó, CơMật Viện (Council House), thành Huế, vàvềnhàvua, các cung phi, thịvệ, cùng các thớt voi.  Sau hết, nhật kýhải hành của ông Briggs ghi nhận rằng nhàvua đãphái một vịlinh mục người Pháp đến gặp thuyền trưởng Briggs đểthu thập một sựmôtảvềHoa Kỳvàcác biên giới của nước này.

THUYN HAI BUM FRANKLIN VÀ
THUYN TRƯỞNG JOHN WHITE

Sựtường thuật thứnhìghi nhận một người Hoa Kỳthăm viếng Việt Nam làhồi kýcủa ông John White, một trung úy hải quân Hoa Kỳ, đi thuyền hai buồm Franklin, bỏneo tại Cape St. James (mũi Vũng Tàu) hôm 7 tháng Sáu năm 1819. Ông White, sinh tại Marblehead, Massachusetts, vào năm 1782, đãđược bầu làm hội viên Hội Hàng Hải Đông Ấn (East India Marine Society) tại Salem, Massachusetts vào năm 1806.  Ông đãtừtrần tại Boston năm 1840 sau khi đãvươn tới cấp thuyền trưởng. (9)

Sựtường thuật của White vềchuyến hải hành được ấn hành năm 1823 tại Boston dưới nhan đềLịch SửMột Chuyến Du Hành Đến Biển Trung Hoa (A History of a Voyahe to the China Sea).  Trong đó, ông White phát biểu sựtin tưởng của ông rằng chiếc thuyền Franklin làchiếc thuyền Hoa Kỳđầu tiên đãtrương lácờ"sao vàsọc tại thành phốSàigòn." Người chủbiên của ông đềcập đến nhiều nỗlực không thành công của các tàu thuyền Hoa Kỳtìm kiếm các mối hàng đểbuôn tại Việt Nam xảy ra trước cuộc thăm viếng của ông White, kểcảcuộc hải hành của thương thuyền Fame do ông Jeremiah Briggs làm thuyền trưởng.  Chính ông White cónhìn nhận rằng đãcóhai người Hoa Kỳthực sựđãđặt chân lên đất Sàigòn không lâu trước khi ông đến, thếnhưng một người, ông Olivier Blanchard, thuyền trưởng chiếc thuyền Marmion, đến từBoston, đãngãbệnh tại Sài gòn vàchết trước khi chiếc tàu của ông ta rời khỏi hải phận Việt Nam. Ông White đềcập tới hai chiếc thuyền Hoa Kỳkhác đãthăm viếng Nam Kỳtrong cùng một thời gian -- chiếc Beverly, thuộc cùng quyền sởhữu chủcủa chiếc Marmion vàdo John Gardner làm thuyền trưởng, vàchiếc Aurora, từSalem, Massachusetts, do ông Robert Gould làm thuyền trưởng. (10)

Trong hồi kýcủa mình, ông White không đưa ra một manh mối nào vềlýdo tại sao ông đảm nhận một chuyến hải hành sang Nam Kỳ. Nhiệm vụcủa ông rõràng cótính chất thương mại -- tìm kiếm vàmang vềmột chuyến hàng hóa sinh lợi nhuận -- nhưng ông không giải thích tại sao một chiếc thuyền hai buồm dưới sựchỉhuy của một sĩquan hải quân Hoa Kỳlại được giao phómột nhiệm vụnhưthếhay ai làngười đãtài trợcho phái bộ. Ông White cũng không cho thấy đâu làquyền lợi nói chung của Hoa Kỳvào lúc đótại chính vùng Nam Kỳhay ngay cảvềsựhiểu biết bao nhiêu của nền cộng hòa non trẻđối với phần đất cábiệt đócủa thếgiới.

Tuy nhiên, hồi kýcủa ông cóđưa ra một vài bằng chứng vềsựhiểu biết khu vực đó, ngay trong văn bản hay nơi các cước chú, vềcác nguồn tin tức khảcung vềNam Kỳ(kểcảông Poivre, người cócác bài viết được Thomas Jefferson đểýtới). (11)  Trong thực tế, ông White đãphải đọc đến cùng đoạn văn của ông Poivre vốn đãlôi cuốn sựtòmòcủa Thomas Jefferson vềlúa gạo vùng Nam Kỳ.  Giống nhưJefferson, ông White nhắc đến sáu loại lúa được trồng tại Nam Kỳmặc dùông White cho rằng cóhai loại thuộc loại lúa trồng vùng thượng du hay miền núi, trong khi Jefferson lại nói vềba loại lúa thượng du. Giống nhưJefferson, ông White tìm cách đem vềquê các mẫu lúa gạo, "nhưng, bất hạnh thay, các chúchồn vànhững loại sâu bọkhác, đãhủy diệt mọi hạt mầm thực vật." (12)  Cuối cùng, ông White thường nhắc đến các đồvật màông đãmang vềvàkýthác tại Bảo Tàng Viện Hội Hàng Hải Đông Ấn tại Salem, Massachusetts.   Một sốtrong các đồvật này hiện vẫn còn được lưu giữtại Bảo Tàng Viện Peabody trong thành phốđó.

Sựtường thuật của ông John White vềchuyến du hành sang Nam Kỳthìhoàn toàn đơn giản làmột sựtường thuật vềchính chuyến du hành, vềnhững người màông đãgặp gỡ, đặc tính, phong tục, thói quen, chính phủvàxứsởcủa họ.  Điều đáng chúýcủa quyển sách đối với độc giảthời nay nằm chính yếu ởsựkiện đólàmột sựtường thuật chi tiết -- vàđược ấn hành -- vềmột cuộc thăm viếng của người Hoa Kỳtại Việt Nam, vàởviệc nócung cấp một thídụlinh hoạt vềmột phản ứng ban đầu của Hoa Kỳđối với người Việt vàcác sựsinh hoạt của họ.

Trung Úy White trương buồm từSalem, Massachusetts, vào ngày thứBẩy, 2 tháng Một năm 1819, trên chiếc thuyền hai buồm Franklin, một chiếc thuyền "trọng tải" 250 tấn.  Sau một cuộc tiếp xúc sơkhởi với các giới chức địa phương tại Vũng Tàu, chiếc thuyền Franklin trong ngày kếtiếp đãdi chuyển đến ngôi làng tại Canjeo (Cần Giờ) , cách Vũng Tàu khoảng 7 đặm vềphía tây, và chờđợi giấy phép đểngược đòng lên tới Sàigòn.  Giấy phép không bao giờđến, vàsau vài ngày thảo luận nhiều bực tức với các giới chức địa phương, ông White đãkết luận rằng các giới chức địa phương đãkhông cóthẩm quyền cho phép ông tiến vào Sàigòn.   Vì thế, vào ngày 12 tháng Sáu, ông đãnhổneo đểđi đến Huế, thủđôcủa Nam Kỳvànơi cưtrúcủa nhàvua.  Các quan lại địa phương tại Cần Giờđãbảo đảm với ông White rằng nếu ông ta trởlại từHuếvới giấy tờthích hợp từnhàvua, ông ta cóthểtiến lên Sàigòn.

Chiếc thuyền Franklin đãđến Turon (tức ĐàNẵng ngày nay) vào ngày 18 tháng Sáu.  Nótức thời được thăm viếng bởi các thẩm quyền địa phương, các người đãthông báo ông White rằng nhàvua hiện không cómặt ởHuếvìđang ra ngoài Bắc Kỳ(Đông Kinh, tức Bắc Việt Nam), rằng xứsởđang hồi phục từnhiều cuộc chiến tranh tàn phá, vàrằng sản lượng ít ỏi (đường mía vàtơsống) cótrong nước dành cho các giao dịch thương mại đãbịhứa bán cho hai chiếc thuyền của Pháp trước đây đãkết ước đểcung cấp cho nhàvua "các vật dụng kỳlạ" cùng với vũkhívàquân phục cho binh lính của ngài.  Trong tháng Bẩy, ông White đãtiến tới Manila đểtìm kiếm một vài người nói được tiếng Việt vàcóthểđi cùng họquay trởlại Nam Kỳ, vàgiúp họcóđược giấy phép đi ngược giòng sông đểđến Sàigòn ("bởi đóvẫn làđịa điểm màchúng ta muốn nhắm tới.")

Ông White trú lại Manila trong hai tháng, trong thời gian này, nhờvận may, ông cógặp Thuyền Trưởng John Brown của chiếc thuyền Marmion đến từBoston, nguyên thủy dưới quyền chỉhuy của Thuyền Trưởng Oliver Blanchard.  Chiếc thuyền Marmion rõràng làđãđến Vũng Tàu vàCần Giờít ngày sau khi chiếc tàu Franklin khởi hành. Thuyền Trưởng Blanchard vàcác sĩquan đồng sựđãnhận được đón tiếp nồng hậu hơn bởi các quan lại địa phương, rõràng nhờởphản ứng của vịphóvương (kinh lược sứ[?], chúthích của người dịch) ởSài gòn trước tin tức cho hay vềsựcập bến của chiếc tầu Franklin dưới cửa sông.  Dùsao đi nữa, vịphóvương đãgửi xuống một thông dịch viên cókhảnăng đàm thoại "hạng xoàng" tiếng "Đông BộBồĐào Nha."  Qua thông dịch viên này, Blanchard đãnhận được phép tiến lên Sàigòn trong một chiếc thuyền bản xứcùng với một sĩquan khác, một ông Putnam nào đó, vàmột thủy thủbiết nói đôi chút tiếng BồĐào Nha.  Tuy nhiên, khi tới Sàigòn rồi, ông Blanchard nhận thấy rằng ông chỉcóthểchi tiêu bằng đồng tiền vàng với tỷsuất chiết khấu quácao vàrằng các giới chức ởSàigòn ưa thích tiền tệcủa Tây Ban Nha hơn vìlàđồng tiền màhọquen thuộc nhiều hơn. VìthếBlanchard đãtừbỏýnghĩchất hàng tại Sàigòn vàquyết định tiến tới Manila trong mục đích này.  Không may, ông ta ngãbệnh tại Sàigòn vàđãchết ngay trước khi chiếc thuyền Marmion rời khỏi sông ởVũng Tàu.  Ông John Brown đãnắm quyền chỉhuy chiếc thuyền vàtiếp tục hướng vềPhi Luật Tân vàđãđến nơi hôm 22 tháng Sáu.  Trong thời gian họtrúngụtại Manila, một chiếc thuyền Hoa Kỳkhác cũng đãcập bến sau chuyến viếng thăm ngắn ngủi, không thành công tại vùng Nam Kỳ.  Đây làchiếc thuyền Beverly, thuộc cùng sởhữu chủcủa chiếc thuyền Marmion, đãcốgắng lái thuyền xuôi nam đọc theo bờbiển từĐàNẵng xuống Vũng Tàu nhưng bịđẩy ra khơi bởi các cơn giómùa.

Các thuyền trưởng White vàBrown đãquyết định liên kết lực lượng vàquay trởlại Sàigòn bằng càhai chiếc thuyền, tính toán rằng hai chiếc thuyền cóthểđủmạnh đểđi tới Sàigòn ngay dùcác thẩm quyền địa phương tại Vũng Tàu vàCần Giờkháng cựlại. Thủy thủđoàn trang bịđầy đủcác phụtùng sửa chữa trên chiếc thuyền Marmion, đổi đồng tiền vàng lấy tiền Tây Ban Nha, chờđợi cho hết giómùa tây nam, xong một lần nữa giăng buồm đi đến Nam Kỳhôm 6 tháng Chín.  Hai chiếc thuyền đãbỏneo ởVũng Tàu lần thứnhìvào ngày 25 tháng Chín.  Tiến tới Cần Giờvào ngày sau đó, chúng đãnhận được phép đi đến Sàigòn trong vòng ít ngày và, vào ngày 7 tháng Mười, sau chuyến du hành bẩy ngày ngược dòng sông Đồng Nai (hành trình dài 59 dặm rưỡi, theo thuyền trưởng White), chiếc thuyền Franklin, theo sau không xa bởi chiếc thuyền Marmion, đãthảneo xuống lòng sông đối diện với Sàigòn.  Vào ngày 9 tháng Mười, hai thuyền trưởng, cùng với hai viên chức phụtácủa họlàông Bessel của thuyền Franklin vàông Putnam của thuyền Marmion, cùng một thủy thủcủa tàu Marmion biết nói tiếng BồĐào Nha, đãbước vào thành phốSàigòn.  Họđãsớm hay biết qua viên thông ngôn được cung cấp bởi phía Nam Kỳrằng hai chiếc thuyền khác của Hoa Kỳđãthăm viếng Nam Kỳkhi từchiếc thuyền Franklin bỏneo lần đầu tiên tại Cần Giờ.  Một trong hai chiếc này làthuyền Aurora từthành phốSalem, được chỉhuy bởi Thuyền Trưởng Robert Gould.  Giống nhưthuyền Franklin, tàu Aurora ởngoài khơi Vũng Tàu trong vài ngày sau khi chiếc thuyền Marmion đãbỏđi, xong đãngược lên phía trên đểđến ĐàNẵng nhưng không mua bán gìđược ởđó, vàtiếp tục đi đến Manila.  Chiếc thuyền thứnhìlàchiếc Beverly, chỉhuy bởi thuyền trưởng John Gardner, người màông White đãgặp tại Manila.

Sựcập bến Sàigòn của ông White đãđược nối tiếp bởi bốn tháng nghi lễhầu nhưchằng cókết quảgìcảvàviệc mặc cảgiằng co với các giới chức Nam Kỳ.  Trong thời gian lưu ngụtại đó, ông White đãđi đến một sựđánh giácao tiềm năng chính trịvàkinh tếcủa Nam Kỳvàngười dân ởđó.  Nhưng ấn tượng này đãhoàn toàn bịche phủbởi sựchán ghét sâu sắc của ông ta vềcác thói quen, văn hóa của họ, vànhất làvềtính tráo trởtoàn diện vàvôliêm sỉcủa họ:

"Điu sto ra stnht cho độc gi, vàlàm chính tôi đau lòng, làvic tóm tt vtính côn đồvàsđêtin thường trc màchúng tôi đãcókinh nghim tnhng người dân này, trong thi gian cưtrútrong xsđó.  Sthiếu vng hoàn toàn đức tin ca h, shăm hsn sàng di gt vàđánh la chúng ta, vàsngoan cca hđểmưu toan thli, bng vic tráo trvàdùng thđon, nhng gìmàhcó ththu hoch được mt cách nhiu hơn vàddàng hơn vi thái độci mvàtrao đổi công bng; nhng hình thc vànghi ltnht trong vic trao đổi mi loi doanh nghip, được thc hin ngay cvi nhng giao dch lt vt nht; sbt trc ca sphêchun ti hu trên bt ksmc cnào, (ít nht hy vng làm gim lòng kiên nhn ca người mua, vàkhuyến dn người đótrgiáthêm chút na, đủđểxóa bbt ksquy định bng ming nào) vàkhông cóchuyn kháng ngh, trkhi nào cóhp đồng viết tay, điu không bao gixy ra, cho đến khi mi mánh khóe đãđược dra, vàmi phương tin moi tin đãđược vn hành vàkhông còn thu thêm li lc gìna; tt cnhng sphin toái này, cng vi thái độtham lam, bt tín, độc đoán vàchng li sthương mi ca chính phs, chng nào mànhng nguyên do này còn tn ti, biến Nam Kthành mt xsít hp dn nht đối vi nhng thương gia mo him.  Nhng nguyên do này đãlàm cho người Nht tbsmu dch; chúng đãxua đui các người BĐào Nha ti Áo Môn (Macao) ra khi xs, vàchuyn hot động thương mi ca hqua các đường kênh khác; đang làm suy gim hàng năm vàmt cách mau lsgiao thương ca hvi Trung Hoa vàXiêm La.  Nhàtthin, doanh gia, vàthếgii văn minh nói chung, chcóthnhìn vào tình trng thng khhin ti ca xscóthiên nhiên xinh tươi không gìkhác hơn mt nim ht tiếc vàthương xót sâu xa."(13)

Trong sựtường thuật của mình, ông White đãcông khai bày tỏsựchán nản của ông qua chính những kinh nghiệm bản thân, vàông đã tham chiếu trong một vài chỗcác tài liệu khác vềNam Kỳvốn đãdẫn ông ta đến việc dựliệu một sựtiếp nhận hoàn toàn khác biêt.  Ông quy kết sựđối chọi toàn diện giữa những tài liệu này với kinh nghiệm của chính ông cho một suy sụp rõrệt trong các điều kiện sống của người dân Nam Kỳgây ra bởi một giới lãnh đạo ngày càng độc đoán hơn tại Huế.  Giới lãnh đạo đó, theo ông White, chỉbận tâm ngày càng nhiều hơn vào những cuộc chiến tranh chinh phục vàsựxa hoa trụy lạc, đểphímột đất nước phìnhiêu và phong phú tài nguyên, và phá hủy tinh thần vàphúc lợi của người đân của nó.  Ông White ghi nhận rằng người Pháp đãtừng cómột ảnh hưởng rất tích cực vàxây dựng trên người dân Nam Kỳtrong nhiều năm qua, nhưng tình trạng hiện tại đang trởnên bấp bênh, bắt buộc người Pháp phải chuẩn bịđểtừbỏchính sách thực dân mạo hiểm của họ.  Ông ghi nhận rằng đức giám mục người Pháp Adran, mất đi vài năm trước đó, đãlàmột nhân vật cao vời tại Nam Kỳ, vàông White nêu ýkiến rằng sựtừtrần của ngài đãđưa đến tình trạng suy sụp.  Ông White đãkểlại sựvụnày đểcảnh giác những ai còn bịquyến rũđểtìm kiếm những cơhội mậu dich tại đất nước "khốn khổ" Nam Kỳnày.

Sựtường thuật của White bao gồm một sựmôtảhoàng thành tại Huếtương nhưsựmôtảcủa thuyền trưởng Briggs, mặc dùkhác biệt đáng kểtrong chi tiết đặc thù.  Thuyền trưởng White xác nhận đãnhận được sựmôtảtừmột "người đàn ông thượng lưu Hoa Kỳđãcómặt tại ĐàNẵng (Turon) một thời gian ngắn sau khi ông White đãbỏđi ..."  Ông White khởi đi từsựmôtảnày đểtổng quát hóa vềcảxứsởnhưsau:

"Nhng người dân này cókhnăng nhn thc mau l, vàcókhuynh hướng ham thu thp kiến thc vnghthut vàkhoa hc, và, vi trường hp ngoi lca thuyn bèchy ven bin ca h, nht định làrt thô sơ, hđã, dưới sdy dca người Pháp, thc hin các stiến bđáng ktrong vic xây dng hi quân, theo các ýtưởng Âu Châu hay hcũng không phi làkhông chúýđến scng cthành quách, nghthut quân snói chung, vàcác ngành sn xut liên hđến chiến tranh.  Các skin này minh chng, mt cách ququyết, rng trong hkhông hcóskhiếm khuyết nào vthcht; vàcác biên niên sca đất nước, vi schng nhn ca các du khách, cho thy rng, vmt các đặc tính tinh thn, khi hđược trvìbi mt chính quyn ôn hòa vàcông chính, hlàmt dân tc ttế, hiếu khách, lch s, hot bát, thc thà, vàcn mn.

Nam Kcól, trong stt ccác quyn lc ti ÁChâu, làvùng đất thích nghi nht vi công cuc kinh doanh hàng hi; tvtrí bn địa ca nóđối vi các quyn lc khác; tnhng tin nghi hướng đến skhai sinh mt hi quân hùng mnh đểbo vnn thương mi ca nó; ttính cht tuyt ho ca nhng hi cng ca nó, vàtbn cht hp thy ca sdân sng dc bbin, người An Nam (trong nguyên bn ghi Nam [Onamese], cólnh hưởng cách gi ca người Trung Hoa, chúthích ca người dch) lànhng thy thcóthcnh tranh ngay cvi người Trung Hoa."

Liên tục luồng tưtưởng này, ông White đãáp dụng các sựphán đoán giátrị  trên các mục tiêu ưu tiên của Nam Kỳphản ảnh căn gốc hải quân của ông ta vàcóvẻthích hợp với một Hợp Chúng Quốc năng động, trẻtrung hơn làđối với một dân tộc vàvăn hóa cổđiển:

"Mt ông hoàng cóhiu biết, vàtheo đui các quyn li thc sca xsca mình, s, thay vìxây dng các thành phnhưHuế, dành các tài nguyên phong phúca mình cho đại dương, dưới sbo vca mt hi quân hùng mnh, vn cũng sbo đảm cho san toàn ca biên cương hàng hi cùng vi strgiúp ca scng cthành quách thích hp, mt sít lc lượng đồn trúnhsđủbo vhu hiu phn ni địa, sn được phòng vmt cách tnhiên bi các núi non cao sng sng vàhim tr, cùng các khu rng bao la vàkhông thbxuyên thng, chng li các sxâm nhp ca mt đội quân thù địch; vquân vương đóstháo bcác hn chếnhng nhiu, theo đónn thương mai hin đang btrói buc, vàmi gi các nước láng ging cùng các nước xa ltham dmt cách phóng khoáng các ưu đãi thiên nhiên, cùng mt lúc cũng lànhng phương cách đểlàm giu cho xsca chính vquân vương, vàdu nhp các nghthut ca các nước văn minh vàtao nhãhơn.  Tuy nhiên e rng điu này khócóthsm được thc hin; bi ông hoàng tngăm đen, khóchu được chđịnh kếngôi An Nam làmt ktham lam, có tưtưởng cht hp ... (và) sphn sp ti ca xscóvthêlương.(14)

Vào ngày 30 tháng Một 1820, trởthành một người buồn bãhơn vàthông thái hơn -- vàmắc phải chứng bịnh màông ta môtảlàchứng phùvoi -- Trung Úy White đãdẫn cảhai chiếc thuyền rời Sàigòn với các kiện hàng ít ỏi vềđường mía vàtơsống. Thương thuyền Franklin vàthương thuyền Marmion thu mua chuyến hàng còn thiếu tại Java (Nam Dương) vàquay buồm hồi hương. Thuyền Franklin đãchia tay với thuyền Marmion tại đảo Mauritius và trởvềđến Salem hôm 31 tháng Tám năm 1982, khoảng hai mươi tháng sau ngày khởi hành.

Một quan sát viên hiện đại người Pháp phán đoán kinh nghiệm của ông White tại Nam Kỳmột cách nghiêm khắc, môtảông White nhưmột "người theo thanh giáo cứng ngắc" đãnhận định người dân địa phương từmột nhãn quan hạn chếvàlà"kẻkhông bao giờsuy tưởng dến mức độmàthái độcủa người Việt Nam đãbịtùy thuộc bỏi chính thái độcủa ông ta."  Dùthế, quan sát viên này nhìn nhận rằng sựtường thuật của ông White vềNam Việt Nam, được soạn thảo đểtrởthành một tác phẩm hữu dụng cho nền thương mai của xứsởông ta, đãvẽnên một bức tranh, bất kểnhững sựnhầm lẫn vàthiếu sót, linh động vàngoạn mục.  Nhàquan sát này cũng cho rằng sựtường thuật được ấn hành của thuyền trưởng White đãđưa đến sựđổi hướng các chiếc tàu Hoa Kỳkhông đến Đông Dương và"chính từđóngăn trởsựcập bến của các ngoại kiều khác màsựhiện diện cóthểtạo ra một chướng ngại vật nghiêm trọng cho người Pháp ..." Nhàquan sát này tuyên bốrằng đãkhông cómột thương thuyền Hoa Kỳnào cómặt tại Sàigòn trong thời khoảng từnăm 1820 đến năm 1860. (15)

Mặc dùnhàquan sát người Pháp này cóthểchỉchính xác phần nào trong lời tuyên bốcủa ông rằng đãkhông cóthương thuyền Hoa Kỳnào xuất hiện tại Sàigòn trong thời khoảng từ1820 đến 1860, cóvẻtrách nhiệm nặng nềđãchỉnằm trên vai của một mình thuyền trưởng White.  Cóđiều chắc chắn là, sựthất bại của chính phủHoa Kỳtrong việc thương thuyết những hiệp ước thương mại với Nam Kỳtrong cùng giai đoạn đó, cùng với thái độcủa các giới chức thẩm quyền Nam Kỳđược môtảbởi chính ông White, tối thiểu, cũng mang một ảnh hưởng tiêu cực ngang nhau trên bất kỳtiềm năng mậu dịch của Hoa Kỳtại đó.

Ngô Bắc dịch

------------
(1) Xem The Papers of Thomas Jefferson, Princeton, N.J.: Princeton University Press, 1958, vol;. 11, trang 645.  Nam Kỳ (Cochin-China đã là tên gọi khu vực gần bằng với miền nam Việt Nam ngày nay.  Ông Poivre được nói đến là Pierre Poivre, người đã viết tập Voyages d'un philosophe, ou Observations sur les Moeurs et les Arts des Peuples de l'Afrique, de l'Asie, et de l'Amerique, Yverdon: 1768.
(2) Sách dẫn trên, trang 646.
(3) Sách dẫn trên, vol. 12, trang 508.  The "young prince" mà ông Jefferson nói đến là con trai của Chúa Nguyễn Ánh, người sau này trở thành Hoàng Đế Gia Long.  Ông hoàng tử trẻ này được đưa sang Paris bởi một nhà truyền giáo Pháp, Pigneau de Behaine, Giám Mục Adran (giám mục Bá Đa Lộc), người muốn tìm kiếm sự ủng hộ cho tương lai của hoàng tử này chống lại những mưu toan của anh em nhà Tây Sơn trong cuộc nổi dậy của họ chống lại vương triều.  Cuộc gặp gỡ của ông Jefferson với vị hoàng tử trẻ của Nam Kỳ có lẽ đã là sự tiếp xúc đầu tiên giữa các người Hoa Kỳ với người Việt Nam.
(4) Sách dẫn trên, vol. 14, các trang 636-637.
(5) Sách dẫn trên, trang 641.
(6) Sách dẫn trên, trang 647.
 (7) Chương này dựa phần lớn vào tài liệu nguyên gốc tại Bảo Tàng Viện Peabody, Salem, Massachusetts -- thư tín gia đình Crowninshield và nhật ký hải hành của Thuyền Trưởng Jeremiah Briggs về hành trình của thương The Fame.  Bài có trích dẫn từ nhật ký hải hành của Thuyền Trưởng Briggs.
(8) Xem Samuel Eliot Morison, The Maritime History of Massachusetts, 1783-1860, Boston: Houghton Mifflin Company, 1921, trang 100
(9). Xem P. Midan, "Les Europeens Qui Ont Vu Le Vieux Hue: John White," Bulletin des Amis du Vieux Hue, năm thứ 24, số 23, Tháng Tư - Tháng Chín 1937, các trang 93-96.
(10). Tham khảo về thương thuyền Aurora và vị thuyền trưởng của nó, Robert Gould, xin xem Henry Wyckoff Belknap, "The Wheatlands of Salem and Their Vessels," không ghi nhật kỳ ấn hành, Essex Institute, Salem, Mass.
(11). Bài tường thuật của ông White có tham khảo đến bài "View of China" của Dr. Morrisson; bài "Treatise on the Language and Literature of the Indo-Chinese Nations" của Dr. Leyden trong tạp chí Asiatic Researches, một tạp chí của Anh Quốc lúc bấy giờ; đến bài viết "Voyage to Cochin-China (1792-3) của Sir John Barrow; đến bài "Voyages and Discoveries, 1699 của Abbe' Rochon; đến bài "Embassy to Ava, 1795" của Thiếu Tá Michael Symes và đến tác giả Poivre.
(12). Xem John White, A Voyage to Cochin-China, Oxford in Asia Historical Reprints, Oxford University Press, Kuala Lumpur and Singapore, 1972, trang 251.
(13). Sách dẫn trên, các trang 246-247.
(14). Sách dẫn trên, các trang 264-266.
(15). Xem Midan, "Les Europeens."

----
Nguồn: gio-o.com/The United States and Vietnam 1787 - 1941, Robert Hopkins Miller, National Defense University Press, Washington D.C., 1990

 

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114602587

Hôm nay

257

Hôm qua

2334

Tuần này

257

Tháng này

229204

Tháng qua

131357

Tất cả

114602587