II.“VIỆT HÓA” NỀN VĂN HÓA
1.Việt hóa, hay sự nhất thể hóa những thành tố văn hóa bản địa,một nhu cầu khách quan theo định hướng xây dựng và hoàn thiện nền văn hóa mang tính quốc gia – đa tộc người:
II.“VIỆT HÓA” NỀN VĂN HÓA
1.Việt hóa, hay sự nhất thể hóa những thành tố văn hóa bản địa,một nhu cầu khách quan theo định hướng xây dựng và hoàn thiện nền văn hóa mang tính quốc gia – đa tộc người:
Cần nói ngay rằng, từ hàng ngàn năm nay trong lịch sử quốc gia, thông qua phương tiện thừa hành hữu hiệu là bộ máy chính trị, giới cầm quyền – lãnh đạo nhà nước đã nỗ lực bền bỉ để thực hiện yêu cầu này, và kết quả nhìn trên tổng thể là đáng ghi nhận và đánh giá tích cực.
Để khẳng định cái riêng của cộng đồng, căn cứ trên những tư liệu tín sử còn lại đến nay, những người đầu tiên trong vùng lãnh thổ có ý thức xây dựng một chính thể, một chủ quyền độc lập về chính trị đã luôn luôn quan tâm trước hết việc giữ gìn những nét riêng, đặc thù về văn hóa. Triệu Đà, ông vua Nam Việt đầu tiên còn lưu lại vết tích trong tín sử, đã xây dựng quốc gia mình với ý thức bảo lưu và phát huy rất nhiều những yếu tố khác Hán, thậm chí là bài Hán. Ngay cả khi đã bị Lục Giả thuyết phục, đã chấp nhận làm nước phiên thuộc của đế chế Hán, Triệu Đà vẫn không mặc cảm về những phong tục tập quán, những lối sống và ứng xử từ trong triều đình ra ngoài dân gian không tuân thủ mà là tạo ra sự khác biệt có ý thức, có chủ đích. Trong đối thoại với vua Hán, với sứ giả của đế chế, ông tự xưng là Nam Man đại trưởng lão, không hề tỏ ra xấu hổ hay lung túng về danh xưng mà trong ước lệ văn hóa chính trị Hán triều lúc bấy giờ là chỉ dấu của sự kém cỏi, “chưa tiến bộ”. Từ Hai Bà Trưng, qua thời đại các cuộc khởi nghĩa giành lại quyền tự chủ của các thủ lĩnh Việt tộc suốt thời kỳ gọi là ngàn năm Bắc thuộc, về mặt văn hóa chính trị, các thủ lĩnh đó tiếp tục tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa đế chế phương Bắc, chủ yếu là văn hóa chính trị, vừa kiên trì để khẳng định và bảo lưu cái riêng, không chỉ trên bình diện chủ quyền, quyền lực chính trị mà còn trên bình diện lối sống, phong tục tập quán.
Có đủ chứng cớ, nên hoàn toàn có thể và cần thiết thực hiện một chuyên khảo về những ý tưởng và vì vậy, về những phương thế ứng xử của các triều đại Việt, các đại diện cho nền văn hóa quốc gia đa tộc người phương Nam này nhằm giữ gìn và phát huy những kiến tạo văn hóa của tộc người và các cộng đồng tộc người quy tụ trong chính thể Đại Việt nhằm kháng cự lại những ảnh hưởng mang tính xâm lăng, chinh phục và đồng hóa văn hóa của các chính quyền cai trị ngoại xâm gốc phương Bắc trong suốt trường kỳ mấy nghìn năm lịch sử.Các vị vua sáng nghiệp như Lê Hoàn, Đinh Bộ Lĩnh, các vua đầu triều Lý, triều Trần… đều có ý thức cao độ về việc kiến tạo quốc gia về chính trị lẫn về văn hóa phải mang những yếu tố khác biệt với nền chính trị và văn hóa đế chế phương Bắc.Cách tổ chức quyền lực chính trị và quản lý cư dân trên cơ sở thấu hiểu đặc điểm văn hóa các cộng đồng tộc người của các vua nhà Lý, nhà Trần, mà tinh thần của triều đại thấm đẫm đến cả các quan lại có trách nhiệm cao trong triều đình hay các thân vương là những bằng chứng điển hình. Việc kiến tạo các nghi thức tôn giáo mang tính chất quốc gia, cách tổ chức thần điện , các hình thức, nghi thức tế tự, cho tới nghi thức thù tiếp các sứ bộ, sứ thần phương Bắc suốt các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đều cung cấp những chứng cứ tiêu biểu cho nỗ lực khẳng định những cái riêng mang tính quốc gia đó. Đáng chú ý là việc sử dụng lực lượng trí thức nhà chùa làm chính trị trong suốt mấy thế kỷ, việc thiết kế một thần điện quốc gia mà thời kỳ đầu chưa chắc đã có sự hiện diện, nhập tịch của các đấng thần linh gốc Trung Quốc nhưng lại chắc chắn có sự giáng lâm của các đấng chí linh gốc Việt như thần Đồng Cổ, thần Long Đỗ (thần sông Tô Lịch), Thần Tản Viên…Đến triều Nguyễn, thần điện quốc gia của nhà nước Việt Nam còn có thêm linh vị của các thần, nữ thần gốc Chăm. Rất có thể từ thời Lý, thần điện Việt có cả sự hiện hữu bài vị của các nhân thần hay nhiên thần của các tộc thiểu số phía Bắc - Tây Bắc, và đời Lê sơ chắc hẳn có sự góp mặt của các vị thần gốc Mường! Cũng chắc chắn là trong tín ngưỡng và văn hóa dân gian, sự sôi động của lễ hội không hề thiếu vắng niềm kính tín của cư dân các tộc người khác nhau hướng tới các đấng thần linh của các tộc người anh em khác cộng cư trên địa bàn quốc gia chung!
Nhà Trần có nguồn gốc là cư dân Bách Việt phương Nam Trung Quốc, điều đó ai cũng biết, nhưng chính dưới triều đại này, ý thức về sự tồn tại độc lập của quốc gia – dân tộc lại trỗi lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và được khởi động chính bởi các minh quân của triều đại, bắt đầu từ vị vua đầu tiên và đỉnh cao là Trần Nhân Tông.
Sự mơ hồ trong các khái niệm định danh như Việt, Bách Việt, Man, Nam Man, Tam Miêu, Nam phương nhân, sự thiếu vắng những kiến thức đáng tin cậy về các mô hình tổ chức xã hội và nhà nước, các cộng đồng tộc người thuộc “Ngũ Lĩnh chi ngoại”, trong số đó đa phần các nhà nước tộc người chỉ còn là “dư ảnh của lịch sử” nhưng vào thời đại của chúng, không hiếm những triều đại hùng mạnh, từng là chủ nhân của những nền văn hóa phát triển (Nam Chiếu - Đại Lý của tộc người Thái chẳng hạn)… tất cả những điều đó khiến cho nhận thức về lịch sử văn hóa Việt Nam bị khuyết thiếu, thậm chí có những lệch lạc nghiêm trọng. Đó chính là một trong nhiều khoảng trống mà những người làm văn hóa sử cần khẩn trương bù đắp.
Xuyên suốt lịch sử, người quan sát “từ trong ra” hay “từ ngoài vào” đều có thể chứng kiến vô vàn nỗ lực không mỏi mệt của giới cầm quyền quốc gia Việt dành cho việc thiết định, tài bồi và xây đắp nên những thành tố văn hóa, những định hướng giá trị văn hóa mang tầm quốc gia – dân tộc. Khẳng định này không hàm chứa bất cứ sắc thái dân tộc chủ nghĩa cực đoan nào, mà đơn giản là sự ghi nhận và tri ân đối với các bậc tiên liệt, các anh hùng dân tộc cũng là linh khí của núi sông.
2.Việt hóa – bản địa hóa những thành tố văn hóa ngoại nhập, ý nghĩa và những thách thức đối với nền văn hóa Việt Nam
Vị trí địa lý tự nhiên của Việt Nam đã khiến nước ta trở thành ngã tư của những cuộc di cư và giao lưu, gặp gỡ của các cộng đồng cư dân khu vực nói riêng và cư dân quốc tế nói chung. Không phải vào thời cận hiện đại, mà điều đó đã diễn ra và kéo dài liên tục suốt từ thời tiền sử, sơ sử.
Vào những năm 70, 80 của thế kỷ trước, ý thức về vai trò của lịch sử, về truyền thống văn hóa đối với việc giải quyết những vấn đề mang tính hiện tại, đương đại, nhiều định hướng tìm tòi “sức mạnh nội sinh” đã được hoạch định, triển khai. Cuộc tìm kiếm, hình dung và thuyết minh về bản sắc văn hóa Việt Nam đã trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều cá nhân có trách nhiệm lẫn các tầng lớp xã hội.
Sự khuyết thiếu những tài liệu trên nhiều quỹ đạo tri thức về lịch sử quốc gia - dân tộc khiến cho giới nghiên cứu, trước hết là những người có chức năng và cương vị hình dung / trình bày một bức tranh tổng thể cùng những đường hướng nghiên cứu cơ bản bộc lộ không ít lúng túng, phân vân.Và bức tranh tổng thể mang tính định hướng ấy rốt cuộc đã được phác ra với không ít đường nét thiếu rõ ràng, thậm chí đôi chỗ rơi vào nghịch lý. Với khung khổ được xác định về mặt thời gian chí ít ra là 4000 năm, nhưng quá nửa trong khung khổ thời gian đó đã phải và chỉ có thể “dàn cảnh” bằng tài liệu folklore (truyền thuyết, huyền thoại, truyện cổ tích lịch sử, thậm chí ca dao, dân ca), bằng thư tịch tôn giáo, chỉ càng về sau mới càng được làm dày thêm bằng những di vật, di chỉ khảo cổ học. Tài liệu mang tính tín sử chỉ cho ta nói những điều gì đó chắc chắn về văn hóa tộc người Việt và văn hóa đa tộc người của quốc gia Đại Việt – Việt Nam trong một khung khổ thời gian từ thời Triệu Đà tới nay.Không thiếu những mệnh đề, những khẳng định in đậm dấu vết của một nền khoa học “phục vụ những mục tiêu cách mạng”, nói khác, đậm dấu vết xác tín chủ quan, ý chí luận, nói theo cách của Hégel, đó là ý thức tha hóa vào lịch sử, thay chỗ cho những bằng chứng sử thực.
Tồn tại quyết định ý thức, có một tồn tại Việt tộc, tồn tại của quốc gia Việt Nam xuyên qua mấy ngàn năm, chắc chắn là phải đi kèm với những thuộc tính, đặc tính nào đó của chính tồn tại ấy, cho riêng tồn tại ấy. Nhưng thuộc tính là thứ nằm phía sau tồn tại, thuộc tính của tồn tại, chứ không phải được kiểm chứng theo cách kiểm chứng bản thân tồn tại. Cũng vào nửa sau của thế kỷ trước, nhiều người bắt đầu nói về cơ tầng văn hóa Đông Nam Á của Việt Nam, điều dễ thừa nhận, dễ đồng thuận nhưng cũng là điều khó xác định mạch lạc. Điểm người ta nói tới nhiều, chữ người ta dùng nhiều là “văn minh lúa nước”. Nhưng “văn minh lúa nước” có phải là khởi sinh từ Đông Nam Á, hay chỉ từ Đông Nam Á, thì bản thân giới khoa học Việt Nam, giới khoa học Đông Nam Á không tự trưng ra những bằng chứng xác quyết được.
Từ hàng thế kỷ nay, lời khẳng định về bản sắc văn hóa, về cái riêng, cái đặc thù của nền văn hóa Việt Nam đã vang lên từ nhiều phía, từ các bậc thức giả Việt Nam đến các nhà khoa học phương Tây, thậm chí các học giả thực dân, từ các chính khách Nhật Bản đến các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, và điều đó đáng được tin chắc, nhưng bản sắc ấy là gì, biểu hiện cụ thể hóa như thế nào, thì lại đòi hỏi một sự suy ngẫm thâm viễn, nghiêm túc và nghiêm khắc, thậm chí là cả những trăn trở đớn đau! Cũng đã có nhiều phương án, nhiều đáp án được đưa ra, trong đó không hiếm những đề xuất gây nhiễu, gây rối nhận thức ở quy mô lớn. Cho tới nay, theo cảm nhận của cá nhân, tôi cho rằng phương pháp tìm kiếm câu trả lời và những kết quả bước đầu được tích hợp trong bài viết “Vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc” của cố giáo sư học giả Trần Đình Hượu[1]là nhiều triển vọng khai thác bởi nó gần với sự thật hơn cả. Bài viết chỉ trên một chục trang in ấy cần được tiếp nhận một cách thực sự cầu thị và trân trọng hơn.Hãy thử dõi theo cái nhìn của ông: “Chắc chắn là văn hóa Việt Nam –văn hóa của dân tộc chủ thể là người Kinh – và phần đặc sắc của nó chịu sự chi phối của vùng đất cư trú làm môi trường thiên nhiên, làm điều kiện sống cho nó.Đó là vùng đồi núi, vùng song nước, vùng ven biển. Đó là vùng gió mùa, vùng bão lụt hàng năm. Tóm lại, đó là mảnh đất phức tạp, khắc nghiệt, đặt ra nhiều điều kiện khó khăn cho cư dân. Đó là vùng trồng lúa nước bắt con người phải định cư. Đứng trên mỏm đất ven biển trên con đường giao lưu văn hóa , bị thu hút một bên bởi nền văn minh Ấn Độ, và bên khác bởi nền văn minh Trung Hoa, hai nền văn minh cổ phong phú và rất khác nhau. Từ trước Công nguyên chúng ta đã đụng độ với xu hướng bành trướng của người Hán, và từ đó luôn luôn bị đe dọa xâm lược.Tâm hồn, trí tuệ, sức sáng tạo đều phải tập trung giải quyết vấn đề khó khăn do thực tế đó đặt ra”. Và đây là sự sòng phẳng, thẳng thắn hiếm có của một người yêu nước, yêu nền văn hóa quốc gia mình vô hạn: “2. Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nền văn hóa của chúng ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật.Ở một số dân tộc, hoặc là một tôn giáo, hay một trường phái triết học,một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội họa…phát triển rất cao, ảnh hưởng phổ biến và lâu dài đến toàn bộ văn hóa, thành đặc sắc văn hóa của dân tộc đó, thành thiên huwongs của văn hóa dân tộc đó.Ở ta, thân fhtoại không phong phú – hay là có nhưng một thời gian nào đó đã mất hứng thú lưu truyền? Tôn giáo hay triết học cũng đều không phát triển. Người Việt Nam không có tâm lý kiền thành, cuồng tín tôn giáo, mà cũng không say mê tranh biện triết học. Các tôn giáo đều có mặt, nhưng thường biến thành một lối thờ cúng, ít ai quan tâm đến giáo lý.Không có một ngành khoa học, kỹ thuật, giả khoa học nào phát triển đến thành truyền thống. Âm nhạc hội họa, kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kỹ. Trong các ngành nghệ thuật cái phát triển nhất là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể, cũng có dịp làm dăm ba câu thơ…Xã hội có trọng văn chương nhưng chưa bao giờ tôn ai lên làm thi bá, và bản thân các nhà thơ cũng không ai nghĩ cuộc đời, sự nghiệp của mình là ở thơ ca. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, một ngành văn hóa nào đó trở thành đài danh dự, thu hút, quy tụ cả nền văn hóa.Thực tế cho ta biết khuynh hướng, hứng thú, sự ưa thích, nhưng hơn thế còn cho ta biết sự hạn chế của trình độ sản xuất, của đời sống xã hội.Đó là văn hóa của dân nông nghiệp định cư, không có nhu cầu lưu chuyển, trao đổi, không có sự kích thích của đô thị”.[2]
Yếu tố hằng xuyên, như cố giáo sư Trần Quốc Vượng vẫn ưa gọi vậy, trên đó thiết định nên nền văn hóa tộc người chủ thể, và về cơ bản cũng là mẫu số chung về môi trường cho đa số các tộc người khác ở Việt Nam, là như thế.
Giữa các nền văn hóa đến từ bên ngoài, như đã biết. suốt thời trung đại (và thời trung đại ở Việt Nam kéo dài cho tới hết thế kỷ XIX) các tộc người ở Việt Nam trong khi vừa gom góp với nhau để tạo nên một gia tài chung là nền văn hóa quốc gia đa tộc người, lại vừa tiếp thu, chịu ảnh hướng sâu đậm của hai nền văn hóa lớn là Trung Quốc và Ấn Độ.Tùy theo vị trí địa lý của khu vực cư trú, tùy thuộc theo quán tính văn hóa của nhóm tộc người mà mỗi tộc người chịu ảnh hưởng của một trong hai nền văn hóa đó sâu đậm hơn so với tộc người khác.Phần lớn các tộc người cư trú dọc theo dãy Trường Sơn và cả Tây Nguyên ít chịu ảnh hưởng của Trung Quốc và Ấn Độ một cách trực tiếp, các tộc người ở đồng bằng và miền núi phía Bắc chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đậm hơn, trong khi các tộc người cư trú từ trung Trung bộ trở vào bị Ấn hóa sâu hơn.
Bắt đầu từ thế kỷ XVII đã từng bước xuất hiện và ngày càng bám sâu vào cộng đồng người Việt một hình thức tôn giáo mà cũng là hình thái văn hóa mới, có nguồn gốc châu Âu, đó là Thiên chúa giáo. Lịch sử Thiên chúa giáo ở Việt Nam là một lịch sử thăng trầm, đóng góp của tôn giáo này vào văn hóa Việt Nam cần phải được hình dung là nhiều mặt và tác động khá phức tạp.[3]Dù sao mặc lòng, không thể chối bỏ sự thật lịch sử là cho đến cuối thế kỷ XIX, giáo hội Thiên chúa giáo đã đóng vai trò là người đi tiền trạm, những sứ giả mở lối đắc lực của chủ nghĩa thực dân[4].
Từ góc nhìn thực thể Việt, các nền văn hóa có nguồn gốc phương Tây, đặc biệt nền văn hóa Pháp và chủ nghĩa thực dân, văn hóa Mỹ trong và sau thời kỳ thế giới chia làm hai phe, hậu chiến tranh lạnh và ngày càng trở nên đa cực hóa, các nền văn hóa của các quốc gia có những liên hệ lịch sử sâu đậm với văn hóa Việt Nam khác như Nhật Bản, Cam pu chia, Lào không thể nào thiếu vắng trong bức tranh về những mối quan hệ cơ bản đối với văn hóa Việt Nam.
Cần xác định một cách mạch lạc, vì thế, khẳng định một trật tự ưu tiên trong quy trình nghiên cứu, những ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện, liên tục của nền văn hóa mang tính quốc gia – dân tộc của nền văn hóa Trung Quốc lên nền văn hóa quốc gia – dân tộc ở Việt Nam. Trong thực tiễn nghiên cứu, từ trước tới nay dù điều đó đã được nhận thức và triển khai, thì theo tôi, kết quả vẫn còn xa mới đáp ứng đúng nhu cầu cần thiết. Vấn đề càng trở nên cấp bách trong tình hình mối quan hệ giữa hai quốc gia trở nên phức tạp hơn bao giờ hết như hiện nay.
Việc am hiểu các nền văn hóa mang tính quốc gia – dân tộc từng và đang có những mối tương quan mật thiết với nền văn hóa Việt Nam, định hướng để chủ động duy trì và phát triển, tiếp thu và đề kháng những phương diện khác nhau của cộng đồng và quốc gia Việt đối với các nền văn hóa đó, đang là một thực tế vô cùng sống động và hàm chứa nhiều thách thức đối với những người nghiên cứu và hoạt động thực tiễn trong nền văn hóa chúng ta ngày nay.
Hà Nội tháng 8/ 2014
T.N.V.
2308
2335
2643
224501
130677
114577444