Những góc nhìn Văn hoá

Cần có kế hoạch nghiên cứu, phục dựng và bảo tồn sống di sản truyền thống hát Giặm xưa

Như đánh giá của các nhà nghiên cứu, nói đến dân ca xứ Nghệ, trước tiên phải nói đến “Giặm” vì nó độc đáo nhất. Giặm độc đáo vừa về phương diện ngữ văn, vừa về phương diện âm nhạc. Cũng như “Ví”, một số tài liệu, như “Ngũ man phong thổ ký” cho biết, “Giặm” đã từng tồn tại từ thế kỷ XVIII. Như vậy là, cho đến nay, đã từng tồn tại và phát triển được hơn 300 năm. Và, trong suốt hơn 300 năm qua, theo những kết quả nghiên cứu của các nhà chuyên môn, hát Giặm đã trải qua những thăng trằm và biến đổi, nhất là trong thời kỳ cận - hiện đại.

Cũng theo các nhà nghiên cứu, ngày xưa, Giặm thường được được sử dụng trong sinh hoạt văn nghệ quần chúng dưới hình thức đối thoại giữa hai phe nam và nữ. Đề tài của Giặm thường xoay quanh vấn đề trữ tình và cũng qua ba chặng cũng có hát dạo, hát chào, hát đố, hát xe kết, hát tiễn… gần như thủ tục của Ví. Ngoài những sinh hoạt tự phát giữa các tốp trai gái tại các làng quê, trước đây, ở một số làng, những người có khả năng hát giặm cùng nhau họp thành từng đoàn theo giới tính. Mỗi đoàn thường gồm khoảng hai hay ba, nhiều lắm là năm người, trong đó, bao giờ cũng có một người đứng đầu. Người này phải có tài năng trội hơn cả đoàn và phải “sáng tác ứng khẩu” (“be chuyện”) giỏi. Rồi thì, trong đoàn phái có một vài người “cặp” hay “hát cặp”, tức những người lặp theo giọng hát của người be chuyện để làm cho mấy giọng hát cùng hòa thành một âm thanh tập thể. Ngoài ra, như các nhà nghiên cứu đã khẳng định, thời trước Cách mạng, ở một số vùng, hát Giặm còn được ghép vào với một vài tập quán nghề nghiệp, như đi củi lượt và hát Giặm nam nữ ở làng Phù Minh (nay là Minh Lộc, Can Lộc)… Như vậy là, như nhiều thể loại hát dân ca khác ở Việt Nam và trên thế giới, Giặm là hình thức hát nam nữ và là hát theo kiểu “sáng tác ứng khẩu” chứ không hát các bài có sẵn. Và, vì vậy mà nhịp điệu và tiết tấu của Giặm, đặc biệt là Giặm xưa cũng mang đậm chất dân gian.

Theo những kết quả nghiên cứu của các nhà chuyên môn về âm nhạc, thì, nhịp điệu và tiết tấu của hát Giặm xưa, nói chung, là rõ ràng, dứt khoát, nhưng còn đơn giản, gần với nhịp lao động trong nông nghiệp. Còn những bài hát Giặm lại thường là những khúc hát gồm năm câu thơ năm chữ đơn giản của dân gian. Như các nhà chuyên môn đã nhận thấy, trong số các dân ca của các vùng miền trên đất nước, chỉ có làn điệu của hát Giặm Nghệ Tĩnh là dùng thơ năm chữ chứ không phải thơ lục bát. Rồi thì, khi hát Giặm, thường ít dùng cách đảo lộn chữ, cũng không dùng những tiếng đệm phụ nghĩa như nhiều loại dân ca khác, mà phần nhiều chỉ dùng thêm các tiếng đệm lót, đưa hơi. Ở khía cạnh nào đấy, chất đều đều, đơn giản và kéo dài của nhịp điệu, tiết tấu và những khúc thơ, như nhận xét của các nhà nghiên cứu, dễ gây nên cảm giác nặng nề cho cả người hát lẫn người nghe. Không phải ngẫu nhiên mà đã xuất hiện những câu tục ngữ: “Dại nhất là thổi tù và. Thứ hai hát Giặm, thứ ba thả diều”; “hát Giặm đồng đôi, mặt thì như cái nồi, còn ngồi hát Giặm.” Chính vì thê mà, các nhà chuyên môn cho rằng, nếu dựa theo nhạc điệu, thì có thể ngờ rằng Giặm có thể bắt nguồn từ một loại động tác lao động nào đó xuất hiện từ xa xưa mà phát triển lên và chắc chắn là có liên quan đến cách phát âm đặc biệt của người xứ Nghệ. Chính tất cả những nét rất riêng nói trên đã khiến cho hát Giặm xưa, như nhận định của các nhà chuyên môn, trở thành một thể loại văn học âm nhạc dân tộc giàu sắc thái địa phương nhất. Và, cũng chính vì bản sắc địa phượng rất đậm này, mà, trong suốt hàng trăm năm tồn tại, Giặm, khúc tâm tình của người Nghệ Tĩnh, vẫn chưa vượt ra khỏi biên giới xứ Nghệ.[1]

Ngoài hát nam nữ, trong Giặm xưa, còn có hình thức vè giặm. Như mô tả của các nhà nghiên cứu, truyền thống kể vè Giặm trước Cách mạng, thường thấy ở một số chợ lớn Nghệ Tĩnh do những nghệ nhân biểu diễn. Ngoài ra, mỗi khi trong địa phương có hội hè đình đám, có những cuộc họp dưới ánh trăng, hay những khi năm bảy anh em ngồi lại bên cạnh ấm chè xanh, các nghệ nhân không sinh nhai bằng nghệ thuật của mình cũng vui lòng thi thố tài năng. Vào thời kháng chiến, có những cán bộ đặt vè và đọc vè Giặm.

Tất cả những nét đặc trưng trên của hát Giặm xưa, mà tiêu biểu là: 1. là sáng tạo của những người dân quê hay những người thuộc tầng lớp thấp của xã hội; 2. sản phẩm của một vùng văn hóa dân tộc (người Việt vùng Nghệ Tĩnh); 3. hình thức hát sáng tác ứng khẩu; 4. đã tồn tại và được thực hành trong một thời gian dài và trải qua nhiều thế hệ; 5. các bài hát chỉ được nhớ và lưu truyền bằng truyền khẩu chứ không có quyền tác giả; 6. sinh hoạt văn nghệ không mang tính thương mại…, xét dưới góc độ lý thuyết của văn hóa dân gian, chính là những đặc trưng của nhạc dân gian truyền thống. Cũng dưới góc độ của văn hóa học, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những định nghĩa và những tiêu chí đễ xác định và phân biệt nhạc dân gian (hay nhạc dân gian truyền thống) với nhạc dân gian đương đại hay nhạc dân gian phục hồi (cải biên). Có người gọi nhạc dân gian là nhạc mà người dân hát. Người thì nhìn nhận nhạc dân gian như biểu hiện xác thực cho một cách sống mà giờ đã là quá khứ hoặc gần như đã chết, trong một số trường hợp được bảo vệ và được phục hồi. Có người lại đồng nhất nhạc dân gian với giai tầng xã hội thấp. Và, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã xác định được một số đặc trưng của nhạc dân gian, như: 1. là âm nhạc truyền khẩu; 2. là âm nhạc gắn với văn hóa dân tộc có nguồn gốc từ một vùng hay một văn hóa đặc biệt; 3. là âm nhạc kỷ niệm những sự kiện của lịch sử và của cá nhân trong những dịp nhất định nào đó trong năm, như Giáng sinh, đám ma, đám cưới, hội hè…; 4. là những bài hát được thực hiện theo phong tục trong cả một thời gian dài, ít nhất phải vài thế hệ; 5. là âm nhạc không có quyền tác giả về bài hát; 6. là âm nhạc không mang tính thương mại…[2]

***

Và, cũng như hát dân ca truyền thống ở những nơi khác trên thế giới và Việt Nam, bức vào thời kỳ cận và hiện đại, hát Giặm Nghệ tĩnh xưa cũng đã phải thay đổi và biến dạng. Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã nhận thấy những sự biến đổi và phát triển này của hát Giặm. Xin dẫn ra đây một số nhận xét. Các tác giả của cuốn “Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh” có một số ý kiến vừa mang tính chuyên môn và cũng vừa từ những điều tra thực tế, như: “Cũng nên biết, trong Giặm, cách hát dùng nhiều tiếng đệm lót, đưa hơi ngày xưa thì nay dễ có phần vắng bóng, nhất là ở lớp trẻ. Điều đó không đáng lấy làm lạ vì nhịp điệu sôi nổi khẩn trương của cuộc sống ngày nay nhất định ảnh hưởng không nhiều thì ít tới hát Giặm một khi nó muốn tồn tại”; hay “Do sáng tác bằng Giặm khó hơn Ví nhiều, vì vậy ở xứ Nghệ, nếu ngày xưa hát Giặm nam nữ phổ biến nhiều nơi, thì về sau, nó đã trở nên hiếm dần. Vào thời cận đại, hiện tượng dùng Giặm trong đối thoại nam nữ chỉ thấy tập trung ở một số vùng như Thạch Hà, Cẩm Xuyên, lác đác thấy ở Đô Lương, Hưng Nguyên. Cho đến trước Cách mạng chừng vài chục năm, sinh hoạt Giặm nói trên hầu như vắng bóng và đã nhưỡng chỗ cho hát Ví.”[3] Rồi thì, trên các báo gần đây, một số tác giả đã có những khái quát khá cụ thể về bức tranh của hát Ví Giặm hiện nạy. Hầu hết những bài viết này đều khẳng định, khi mới xuất hiện, những bài Ví Giặm còn thô sơ, mộc mạc, giản dị. Nhưng, sau đó, theo thời gian, loại hình này đã phát triển lên tầm cao mới với bố cục chặt chẽ, câu từ trau chuốt, vần điệu chắt lọc để hập dẫn và làm say đắm lòng người nghe. Có bài báo còn cho biết là, vào những năm gần đây, Ví Giặm được đưa lên sân khấu biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp để biểu diễn trong những chương trình nghệ thuật lớn của đất nước. Nhiều tác giả cho rằng, trong thời gian kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, dân ca Ví Giặm bắt đầu có sự chuyển hóa từ diễn xướng dân gian đến trình diễn nghệ thuật dưới hình thức kể vè, đối ca, hoạt ca trong các phong trào văn nghệ quần chúng. Rồi thì, dân ca Ví Giặm đã trở thành chất liệu cho âm nhạc hiện đại. Nhiều nhạc sĩ đã rất thành công trong việc sử dụng chất liệu dân ca Ví Giặm để sáng tác những ca khúc hiện đại.

Như vậy là, bước sang thời kỳ cận và hiện đại, đặc biệt là từ sau Cách mang, hát Giặm đã có những chuyển biến và phát triển phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống. Tất cả những sự phát triển này đã chứng tỏ sức sống mạnh mẽ của dân ca Việt Nam nói chung và của Ví Giặm nói riêng. Đây cũng là điều đáng mừng cho hát Giặm. Thế nhưng, như các nhà chuyên môn đã chỉ ra, trong quá trình cách tân và “cải biên” này, đã “rụng” mất không ít những hạt vàng của hát Giặm xưa, hay, nói theo ngôn ngữ khoa học, là hát Giặm dân gian truyền thống. Đúng như các nhà khoa học đã nhận thấy, hát Giặm xưa, từ lâu rồi, đã không còn được hát. Những gì còn được hát hôm nay là “Giặm cải biên” hay, nói theo ngôn ngữ khoa học, là “Giặm đương đại”, nghĩa là Giặm xưa đã thay đổi. Vì sự việc này đã diễn ra từ lâu và diễn ra một cách tự nhiên, từ từ, nên, như một số nhà chuyên môn đã nhận xét, trong những đợt liên hoan Ví Giặm gần đây, ở một số đoàn, còn chưa có sự phân biệt dân ca nguyên gốc và dân ca phát triển, còn có sự lầm lẫn giữa cái cũ và cái mới. Từ những hiện tượng trên, một số bài báo đã cho thấy ý thức nghiên cứu và bảo tồn dân ca Ví Giặm ở một số địa phương còn chưa cao.

***

Như các nhà chuyên môn đã nhận thấy, để tồn tại, hát Giặm dân gian đã phải và được thay đổi và phát triển cho phù hợp với cuộc sống đổi thay của xã hội. Và, những thay đổi trong đời sống chính trị, xã hội và văn hóa của đất nước nói chung và của xứ Nghệ nói riêng, diễn ra mạnh mẽ nhất, sâu sắc nhất và lâu dài nhất là từ sau Cách mạng 1945. Rồi thì sự thay đổi này lại được thúc đẩy nhanh hơn nữa kẻ từ sau khi đất nước đổi mới và bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Trong hoàn cảnh xã hội phát triển mạnh theo xu hướng đô thị hóa, thị trường hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa như hiện nay, từ những kinh nghiệm nghiên cứu văn hóa dân gian của bản thân, chúng tôi cho rằng, những “hạt vàng” “vang bóng một thời” đã mất đi của hát Giặm xưa (hay hát Giặm dân gian truyền thống), như hát Giặm nam nữ, như “cách hát dùng nhiều tiếng đệm lót, đưa hơi”, như “chất đều đều, đơn giản và kéo dài của nhịp điệu, tiết tấu”, như tính ứng khẩu khi hát, như hát theo phong tục…, khó có thể, thậm chí không thể “sống lại” được. Do vậy, hiện nay, qua những công việc sưu tầm, chúng ta cũng chỉ ghi chép lại được chỉ một phần rất nhỏ những di sản của hát Giặm xưa. Hơn thế nữa, những cái mà chúng tả ghi lại được, sưu tầm được hôm nay, về mặt nào đấy, cũng chỉ là một phần nhỏ “cái vật chất” của hát Giặm dân gian xưa thôi. Mà, hát dân gian là cuộc sống nghệ thuật chứ không phải là trình diễn nghệ thuật. Do vậy, theo chúng tôi, ngoài việc nghiên cứu, sưu tầm những bài nhạc, bài hát, phong tục, cuộc sống…, thì việc phục dựng để bảo tồn sống nguyên trạng những di sản của hát Giặm xưa là rất quan trọng và cần thiết, đặc biệt là khi hát Ví Giặm đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia và sẽ được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới./.

   


[1]Để có những khái quát về hát Giặm, chung tôi dựa vào tài liệu của một số công trình, như: Nguyễn Đổng Chi, Hát Giặm Nghệ Tĩnh, T.I và T.II, Nxb.Sử học, Hà Nội, 1958, 1963. Nguyễn Đổng Chi (chủ biên), Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh, Nxb.Nghệ An – Vinh, 1995.

[2]Chúng tôi tổng hợp từ một số tài liệu, như Ronald.O.Cohen, Folk music. The basics (CRC press, 2006); Percy Scholes, The Oxford Companion to Music, OUP 1977, Article “Folk Song”…

[3]Nguyễn Đổng Chi (chủ biên), Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh, Nxb.Nghệ An – Vinh, 1995. tr.280- 288. 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577461

Hôm nay

2325

Hôm qua

2335

Tuần này

2660

Tháng này

224518

Tháng qua

130677

Tất cả

114577461