Chúng ta đều biết ngôn ngữ là công cụ của tư duy. Do đó một ngôn ngữ đơn giản, thiếu tinh tế là sự phản ánh của một tư duy đơn giản và thiếu tinh tế, như giáo sư Nguyễn Ái Việt đã nhận xét rất xác đáng. Tuy nhiên tôi cho rằng, nếu người Việt tư duy đơn giản và thiếu tinh tế hơn người Anh hoặc người Mỹ thì cũng là chuyện rất bình thường. Một nền sản xuất tiểu nông thì không thể sản sinh ra một ngôn ngữ đa dạng, phức tạp và tinh tế như một nền sản xuất hậu công nghiệp được. Ở đây quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội của triết học duy vật đã nói lên tiếng nói của mình. Và cũng doquy luật vạn năng đó nên tôi tin rằng, tiếng Việt sẽ ngày càng đa dạng và tinh tế cùng với sự phát triển đi lên của xã hội Việt Nam. Không nên quên rằng, như một thành tố văn hóa, ngôn ngữ luôn luôn biến đổi cùng với xã hội và thời gian. Có lẽ ngay cả người Anh cũng bối rối với ngôn ngữ của Shakespeare chỉ vài trăm năm trước: “When forty winters shall bisiege thy brow, / And dig deep trenches in thy beauty’s field, / Thy youth proud livery, so gazed on now, / Will be a tattered weed of small worth held.” Còn nếu ngược dòng thời gian tới thời của nhân vật Ivanhoe trong tiểu thuyết của Walter Scott, tôi e rằng chỉ có những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp mới hiểu được những gì mà hiệp sĩ dũng cảm Ivanhoe thưa với đức vua Richard Tim Sư tử của mình!
Tiếp theo, tác giả cho rằng Ngô Tùng Phong rất xác đáng khi nhận xét: “Ngôn ngữ của một cộng đồng dân tộc, đương nhiên là dụng cụ của nền văn hóa của cộng đồng. Nhưng ngôn ngữ chỉ trở thành một dụng cụ sung mãn của nền văn hóa khi nào ngôn ngữ gồm được hai đức tính: dễ học để trở thành một dụng cụ phổ biến, thông dụng và đại chúng; và chính xác để trở thành một dụng cụ suy luận tinh vi và sắc bén”. Nói theo ngôn ngữ teen của giới trẻ hiện nay thì quan niệm đó “chuẩn không cần chỉnh”. Tuy nhiên khi đi sâu hơn thì Ngô Tùng Phong đã không còn chỉnh nữa, khi cho rằng, “Hoa ngữ hoàn toàn bất lực khi phải đóng vai trò dụng cụ phổ biến thông dụng và đại chúng cho văn hóa. Cũng vì trở lực tạo ra bởi một sinh ngữ biểu ý, mà văn minh Tàu khi xưa, mặc dầu lên đến cao độ, vẫn không có sinh lực bành trướng như văn minh Tây phương ngày nay”. Nói như vậy có nghĩa tác giả xem ngôn ngữ, rộng hơn là văn hóa, là yếu tố quyết định sự phát triển. Đó là một quan niệm không đúng.
Nếu xem văn hóa là yếu tố quyết định, chúng ta sẽ không hiểu tại sao thế giới Hồi giáo hoặc Trung Quốc từng đứng đầu thế giới về sự phát triển. Với Tứ đại phát minh (thuốc súng, la bàn, giấy và kỹ thuật in), Trung Quốc thế kỷ XV là tấm gương được cả thế giới ngưỡng mộ. Tiền giấy mà Marco Polo mang từ Trung Quốc về đã làm kinh ngạc cả châu Âu. Hạm đội Trịnh Hòa từng có các chiến thuyền dài hàng trăm mét và thủy thủ đoàn gần ba mươi ngàn người. So với các chiến thuyền kỳ vĩ đó thì mấy con tàu bé tẹo đi vòng quanh thế giới của Colombus nửa thế kỷ sau chỉ là một trò đùa không hơn không kém. Khó có thể tưởng tượng được rằng, kinh thành nhà Minh hoặc nhà Thanh từng có hàng triệu người nước ngoài tới sinh sống! Vậy tại sao chỉ sau vài trăm năm, phương Tây đã vượt xa về phía trước? Từ 2002, trên tạp chí Văn nghệ quân đội, tôi đã viết bài Tại sao phương Đông đi trước về sau?, cho rằng khoa học hiện đại là nguyên nhân của sự phát triển thần kỳ đó. Vậy tại sao khoa học hiện đại lại ra đời tại phương Tây, chứ không phải Trung Quốc? Câu trả lời là các yếu tố địa lý, chứ không phải các yếu tố văn hóa, đóng vai trò quyết định. Theo các nhà khoa học như Diamond (sinh học môi trường), Lang (sử học) hoặc Cosandey (vật lý), địa lý Trung Quốc phù hợp với sự tồn tại của một nhà nước tập quyền; trong lúc địa lý châu Âu thuận lợi cho sự phân quyền. Đó là lý do các tư tưởng có thể trăm hoa đua nở tại châu Âu, và cuối cùng dẫn tới sự ra đời của khoa học hiện đại (Trung Quốc cũng có thời hoàng kim như vậy, thời Bách gia chư tử, trước khi Tần Thủy Hoàng thành lập một nhà nước chuyên chế). Bạn đọc quan tâm có thể tìm bài viết trên, cùng các bài viết Xin hãy hiểu đúng Kipling và Tại sao khoa học hiện đại ra đời tại phương Tây? trên trang mạng cá nhânmới được kích hoạt của tôi www.dokiencuong.comđể tìm hiểu thêm.
Bài viết Ngôn ngữ và tính cáchdân tộc?có cái kết rất gợi mở: “Chỉnh đốn tiếng Việt là một sự nghiệp kỳ vĩ vì nó thay đổi tính cách của một dân tộc, vốn không ưu những điều kỳ vĩ”. Giáo sư Nguyễn Ái Việt rất tinh tế khi nhận thấy, dân tộc Việt không ưa những điều kỳ vĩ. Và tôi xin được tiếp lời ông, khi mạn phép đặt ra mấy câu hỏi như sau: 1) Tại sao dân tộc này không ưa những điều kỳ vĩ; 2) Nếu cha ông ta xây dựng những công trình vĩ đại như Angkor Wat thì sao?; và 3) Có thực người Việt ta chưa từng có những điều kỳ vĩ?
Với sự trải nghiệm còn rất nông cạn của mình, tôi cho rằng, do điều kiện địa lý và dân số, dân tộc Việt không đủ nguồn lực vật chất và tinh thần để hướng tới những điều kỳ vĩ. Đây là những gì tôi từng viết trong bài Tại sao chưa có tác phẩm văn chương lớn về hai cuộc kháng chiến vĩ đại? (tại địa chỉ dokiencuong.com/tai-sao-chua-co-tac-pham-van-chuong-lon-ve-hai-cuoc-khang-chien-vi-dai-26.html): “Cá nhân tôi cho rằng, điều đó hoàn toàn dễ hiểu trên tinh thần duy vật hay lý thuyết Maslow. Với điều kiện đất hẹp người thưa, với các cuộc chiến chống ngoại xâm và thiên tai liên miên trong suốt tiến trình lịch sử, toàn bộ tinh hoa của người Lạc Việt phải tập trung cho sự tồn tại của giống nòi. Vì thế chúng ta không còn đủ tinh thần và vật lực cho các hoạt động sáng tạo. Khi mỗi người đàn ông Lạc Việt phải vừa là nông dân vừa là chiến sĩ theo chính sách “ngụ binh ư nông”, vắt kiệt mình cho nhu cầu sinh học và an ninh, họ làm gì còn thời gian, nhiệt huyết và sức lực để theo đuổi các giấc mơ nhận thức, thẩm mỹ hay tự hoàn thiện? Viết trong các cơn đói thắt gan thắt ruột giữa các đợt bom B52 rải thảm, nếu tác phẩm của chúng ta đạt tới tầm Tội ác và Trừng phạt hay Chiến tranh và Hòa bình thì mới là chuyện lạ.
So sánh với người láng giềng phương Bắc có thể giúp hiểu thêm bài toán nan giải nói trên. Với điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi (đất rộng người đông), nền nông nghiệp Trung Hoa tạo được nhiều đại địa chủ, là những người có thể nuôi hàng ngàn thực khách trong nhà, mà Mạnh Thường Quân là một điển hình. Đội ngũ trí thức đông đảo đó có điều kiện hơn hẳn chúng ta để theo đuổi các nhu cầu sáng tạo. Thế mà sau thời Bách gia chư tử, người Hán cũng không có sáng tạo nào đáng kể, nói gì đến chúng ta!”. Đó là câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất.
Câu trả lời đó cũng gián tiếp trả lời cho câu hỏi thứ hai. Nếu cha ông chúng ta tận tâm tận lực, dốc hết sức để xây dựng các công trình vĩ đại, có lẽ chúng ta đã không thoát khỏi số phận của các tộc Việt khác trong Bách Việt Hoa Nam, khi bị tận diệt trong sự Hán hóa hung bạo (người Hán khi Nam chinh không mang theo phụ nữ; và khi thắng trận, họ giết hết đàn ông và cướp phụ nữ của các tộc người bất hạnh).
Và câu trả lời này cũng lại gián tiếp trả lời cho câu hỏi thứ ba. Đây là những gì tôi cũng từng viết trong bài viết nói trên: “Có thể hiện nay nhiều người không muốn nhắc tới sự thần kỳ, nhưng tôi vẫn muốn nhấn mạnh rằng, sự tồn tại của người Lạc Việt trước sự Hán hóa trước kia và sự thực dân hóa mới đây thực sự là một kỳ tích có một không hai trên thế giới. Xin hỏi các tộc Việt khác trong Bách Việt xưa, từng chiếm lĩnh cả lưu vực rộng lớn phía nam sông Dương Tử, nay ở đâu?”. Những trận quyết chiến tại Chương Dương hoặc Hàm Tử khi xưa, cũng như trận Điện Biên Phủ hoặc Tết Mậu Thân 1968 (từng lọt vào 70 trận đánh vĩ đại trong lịch sử, cùng trận Hasting khai sinh nước Anh hiện đại hoặc trận Waterloo chấm dứt mộng thống nhất châu Âu của Napoleon) chính là những điều kỳ vĩ mà người Việt chúng ta đã thực hiện.
Và chúng ta hãy cùng hy vọng rằng, những trận Điện Biên Phủ trong kinh tế và xã hội sẽ giúp các thế hệ tương lai không chỉ tự hào với những kỳ tích trong dựng và giữ nước của cha ông, mà còn tự hào với những điều kỳ vĩ trong xây dựng và phát triển đất nước của chính mình. Từ những suy tư và trăn trở của giới trí thức tinh hoa, như giáo sư Nguyễn Ái Việt từng trăn trở, chúng ta có thể hy vọng vào điều đó.
TP Hồ Chí Minh 13-10-2014