Người xứ Nghệ

Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh

TÁC PHẨM CHÍNH: Thơ Ðêm Quảng Trị(bút danh Vũ Ngàn Chi) - 1971; Ngọn lửa dòng sông - 1976; Xamakhi - 1981; Lối vào phía Bắc - 1982; Trăng sau rằm - 1985; Ðất hai vùng - 1986; Miền hương lặng - 1993; Thơ, 1995; Nhặt lá - 1996; Bến tìm sông - 1998; Khúc rong chơi - 2000. Văn xuôi Góc núi xôn xao- ký, 1999; Bài hát về cây ngải cứu - ký, 2000. TỰ BẠCH: Từ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, nếu tôi nghe theo lời nhạc sĩ Phạm Duy, có lẽ tôi trở thành người hoạt động ở ngành nhạc. Nhưng tôi ham thích sân khấu. Tôi theo anh Bửu Tiến. Tôi phải vượt qua nhiều khó khăn để đứng được trên sàn diễn hai mươi lăm năm. Diễn viên kịch là một nghề cao quý. Có thể gắn bó trọn đời người. Nhưng phía sau các vai diễn là lớp son phấn tạo sự hóa thân kỳ diệu... tôi vẫn là tôi. Vẫn muốn có tiếng nói riêng của mình. Một thứ tiếng nói có thể đối thoại tiếp với một người. Không cần hai cánh màn khép mở. Không cần cái khung kịch bản văn học, kịch bản đạo diễn. Không đợi lên đèn. Những bài thơ đầu tiên ra đời khi tôi đã là diễn viên thực thụ. Và thế là tôi phạm nhiều khuyết điểm trong những quy chế nghiêm ngặt của sân khấu. Tôi phân thân. Chỉ chực thoát ra như con chim bị nhốt chặt trong lồng. Chính những bài thơ thời chống Mỹ tôi viết để tự cứu mình. Rồi bầu trời thơ ca mênh mông, cánh rừng thơ ca thăm thẳm, cuộc tìm kiếm thơ ca đầy quyến rũ và không bị trói buộc ấy là của tôi. Một hành trình không có ga dừng, không có trạm nghỉ. Khi có dấu hiệu mệt mỏi, tôi thường ngoái lại gọi tên một người lính, một người tình. Hai người này chứ không phải ai khác đã cổ vũ tôi nâng sức tôi bay tiếp. Tôi đoán chắc rằng bài thơ sau cùng của cuộc hành trình đam mê và trắc ẩn cũng chỉ vì một trong hai người đó mà thôi. 6-1996 NHẬN ĐỊNH: Phạm Ngọc Cảnh là một trong những người đầu tiên trong lớp nhà thơ nhà văn chống Mỹ trăn trở tìm tòi về đổi mới về thi pháp. Thơ anh một thời cũng bị một số người coi là cầu kỳ, khó hiểu nhưng được nhiều bạn trẻ yêu thích trân trọng. Sớm đổi mới cả về thi pháp và về công tác biên tập, nhưng Phạm Ngọc Cảnh cũng chưa được ghi nhận đúng mức những đóng góp của mình cho nền thơ. Sự thua thiệt trong đời thì do nhiều nguyên nhân, nhưng bù lại Phạm Ngọc Cảnh có nhiều bạn tốt. Hết mình với thơ, với bạn, nhưng Phạm Ngọc Cảnh sống bằng nghề điện ảnh... Có lẽ Phạm Ngọc Cảnh lần đầu tiên trở lại với diễn viên trong trường quay điện ảnh là vào năm 1987 tôi mời anh đóng vai ông đại tá trong phim Ngọn đèn trong mơ. Nhưng cái nghề diễn ấy chỉ có thể dùng làm kỷ niệm giữa hai nhà thơ, đâu có thể nuôi sống anh và cả gia đình, nên anh không thể đến được với nghệ thuật thứ bảy trong tư cách diễn viên. Phạm Ngọc Cảnh xoay xở làm phim tài liệu, viết kịch bản, viết lời bình, dựng phim để lấy tiền nuôi gia đình trong suốt mười năm chị Tị vợ anh nằm liệt trên giường bệnh. Phạm Ngọc Cảnh nói với tôi rằng anh thầm cảm ơn ngành điện ảnh, truyền hình đã giúp anh vượt qua thời gian khắc nghiệt đó. Là người trong ngành, tôi chẳng giúp được gì anh trong làm phim. Tôi cũng cảm như mình có lỗi với anh, nhưng thực tình mà nói, bản thân tôi cũng chưa tổ chức và tham gia thực hiện được một số lượng hàng trăm phim tài liệu như anh. Những bộ phim Khoảnh khắc mùa xuân, Những giờ phút cuối đời của Bác, Nghi Xuân là những phim có lời bình hay, giàu chất thơ, có nét riêng của ngòi bút Phạm Ngọc Cảnh - trong sáng, sâu sắc và đôn hậu. ĐỖ MINH TUẤN Hà Nội ngày 4-6- 1998 Năm 13 tuổi Phạm Ngọc Cảnh rời thị xã Hà Tĩnh gia nhập Trung đoàn 103 Hà Tĩnh và liên tục khoác áo lính từ bấy đến nay. Hơn 30 năm, trải qua mấy cuộc chiến tranh, Phạm Ngọc Cảnh đã đi qua thời trai trẻ với những năm tháng không yên của đất nước mình. Nhưng ở anh, giọng nói, tiếng cười còn rất trẻ, và ngọn lửa của lòng say mê nghệ thuật vẫn hừng hực cháy. Trước khi được bạn đọc biết đến với danh nghĩa nhà thơ, Phạm Ngọc Cảnh đã là một diễn viên có "hạng" của Ðoàn kịch Quân đội. Rất yêu thơ, nhưng ánh đèn sân khấu cũng có một sức hút kỳ lạ đối với anh. Một thời gian khá dài Phạm Ngọc Cảnh đã chung thủy với cả hai người yêu đẹp là Sân khấu và Thơ. Tên anh xuất hiện trên các bảng phân vai của vở diễn và dưới các bài thơ in báo. Cho đến năm 1971, từ chiến trường Nam ra Bắc anh mới rời hẳn đoàn kịch về Tạp chí Văn nghệ quân đội làm biên tập, để có điều kiện chuyên hơn với công việc sáng tác. Gần 30 năm qua, có thể nói chặng đường thơ của Phạm Ngọc Cảnh như một dòng chảy liên tục không ùn tắc. Bạn đọc thấy anh có mặt khá đều đặn trên các mặt báo, các trang sách và trong những tuyển tập. Anh là một cây bút say mê, tận tụy và chuyên tâm đi đến cùng với thơ. Cho đến thời điểm năm 1989, Phạm Ngọc Cảnh đã có trong tay bẩy tập thơ. Ðối với nghệ thuật, số lượng không phải là thước đo giá trị, nhưng vẫn có một ý nghĩa rất lớn. Nó chứng tỏ tâm huyết, sức lao động và độ tập trung của cảm xúc. Do vậy nó cũng phải được ghi nhận như là một yếu tố làm nên bản sắc và tài năng. Ðọc thơ Phạm Ngọc Cảnh, dễ nhận thấy anh là người chịu khó tìm tòi, luôn luôn cố gắng đổi mới giọng điệu, dẫu rằng sự tìm kiếm đó không phải lúc nào cũng đạt hiệu quả. Cùng với thời gian, ngòi bút Phạm Ngọc Cảnh ngày càng nhuần nhị, đa dạng và rõ nét hơn. Tuy mức độ "vào" người đọc ở từng bài, từng tập có khác nhau, nhưng nói chung thơ Phạm Ngọc Cảnh có ý để nhớ, có tình để cảm và rõ hơn là có công sức mồ hôi của lao động nghệ thuật. Thơ anh đã mở ra được nhiều hướng của đời sống. Nói đến thơ Phạm Ngọc Cảnh nhiều người hay nhắc đến bài Sư đoàn, coi đó như là một cái "đỉnh" của thơ anh. Thật ra không hẳn như vậy. Dẫu rằng lúc đó nó đã để lại một dấu ấn thật tươi mới trong phong trào sáng tác thơ. Giai đoạn sau này thơ Phạm Ngọc Cảnh nhiều rung cảm, có chiều sâu hơn. Anh đã có được những bài đạt tới độ cao của sự hài hòa giữa cảm xúc và hình thức biểu hiện. Những bài thơ đó sẽ trở thành người đồng hành yêu mến của bạn đọc không phải chỉ một thời. Một trong những thành công đáng kể đó là bài Trăng lên. Bài thơ viết về Bác Hồ với một nỗi xúc động sâu sắc và một niềm thành kính thiết tha. Hình ảnh vầng trăng xuyên suốt bài thơ, vừa hiện thực vừa lung linh huyền ảo gợi được không khí cho cả bài bằng những câu thơ sâu lắng, giàu nhạc điệu: Trăng lên - kìa trăng lên Quảng trường dâng biển sáng Ôi vầng trăng Ba Ðình Mênh mông và thiêng liêng Con thấy cõi vô biên Không như lòng đã nghĩ Khi gặp nét thần tiên Trong khuôn vàng dung dị Trong lăng Bác chợp nghỉ Như sau mỗi việc làm Trăng ơi trăng biết thế Trăng bước nhẹ nhàng chăng Hình ảnh vầng trăng và Bác thật cao quý mà cũng vô cùng gần gũi, luôn tỏa sáng cho mỗi cuộc đời. Trăng lên đã được coi là một trong những bài thơ hay viết về Bác. Bài thơ càng có sức lan tỏa rộng rãi hơn khi trở thành một ca khúc xuất sắc của nhạc sĩ Thuận Yến. Phạm Ngọc Cảnh là một trong số không nhiều những nhà thơ được coi là có tài diễn thuyết. Xa sàn diễn đã lâu nhưng cái "duyên" sân khấu vẫn còn. Phạm Ngọc Cảnh đã có hàng trăm cuộc nói chuyện với công chúng yêu thơ. Anh là người cổ động tích cực nhất cho hình thức xuất bản thơ "bằng miệng". Những dịp tiếp xúc với độc giả đã giúp cho anh nhìn được thơ từ nhiều phía, giúp cho anh có thêm tình yêu và lòng nhẫn nại để đi đến cùng với thơ. Tôi vẫn còn nhớ rõ ấn tượng sâu sắc khi lần đầu được nghe bài Lý ngựa ô ở hai vùng đất. Hôm đó tác giả tự trình bày bài thơ của mình trên sân khấu Nhà hát thành phố trong đêm thơ do Ðài Tiếng nói Việt Nam tổ chức. Ðã hơn mười năm. Số lượng những bài thơ còn lại với trí nhớ trong khoảng thời gian ấy không phải là nhiều. Hôm nay đọc lại, tôi càng cảm nhận rõ hơn cái hay, cái đẹp của nó. Lý ngựa ô ở hai vùng đất có sự tròn đầy của một bài thơ hay cảm xúc chín, liên tưởng phong phú, cách dựng ý và câu chữ được chọn lọc kỹ lưỡng... Nhưng tất cả những cái đó dường như lùi lại phía sau, người đọc bị cuốn hút bởi nhịp điệu say mê, hối hả, bởi cái tình sâu nặng ẩn trong những câu thơ Hóa vô tận bao điều mơ tưởng ấy Bao câu hát ông cha mình gởi lại Sao em thương câu lý ngựa ô này Sao anh nghe đến lần nào cũng vậy Sao chỉ thấy riêng mình em đứng đấy Chỉ riêng mình em hát với anh đây. ... Thế mà bên em bên em móng ngựa gõ mê say ... Ngựa tung bờm bay qua biển lúa Ngựa ghìm cương nơi sông xòe chín cửa tiếng hí chào xa khơi. Không có điều kiện để trích dài, nhưng bỏ đoạn nào cũng thấy tiếc. Bài thơ này in đậm dấu ấn Phạm Ngọc Cảnh, ào ạt dữ dội mà cũng thật trữ tình sâu lắng. Trong thơ anh có những câu, những hình ảnh tài hoa và đột ngột khiến người đọc sững sờ như gặp một bóng mát trên con đường đầy nắng lửa. Cũng như phần lớn những nhà thơ quân đội, Phạm Ngọc Cảnh viết nhiều về người lính. Hình ảnh anh bộ đội trở đi trở lại trong thơ anh như "món nợ" suốt đời không trả hết. Người lính được mô tả dưới nhiều góc độ khác nhau: khi chiến trận gian lao, lúc tĩnh lặng đời thường, khi dũng cảm hy sinh, lúc mộng mơ say đắm. Ðó là những con người mà anh thường tâm niệm "dù đến tuổi giã từ đoàn quân và khẩu súng - có bao giờ quên đâu". Ðúng, làm sao có thể quên được khi cuộc sống hôm nay được đổi bằng rất nhiều xương máu. Sự tưởng nhớ và kỷ niệm về những người đã khuất đã trở thành một phần của cuộc sống hiện tại. Và chắc chắn điều đó khiến người ta sống tự tin, có trách nhiệm hơn trong cuộc sống bộn bề của hiện tại. ... Những nấm mồ bè bạn dọc rừng xanh Lời thề trang nghiêm trước mỗi lần chiến dịch Nước mắt là bao đạn thắt quanh mình. (Thơ cho một người lính trẻ) Thơ Phạm Ngọc Cảnh không phải đã hết những bài mà người đọc chưa đồng cảm được. Có lẽ vì anh còn ồn ào, ít ý mà nhiều lời. Anh hay nói quá mức những điều đáng ra có thể diễn đạt một cách bình thường, giản dị. Và đôi khi vì anh quá coi trọng sự "tìm tòi, đổi mới" nên đi vào xu hướng cầu kỳ, bí hiểm. Có người nói Phạm Ngọc Cảnh là người làm thơ có "nghề". Ðó là tiếng khen mà cũng có thể là lời chê. Ðiều dễ nhận thấy là thơ Phạm Ngọc Cảnh ít có những bài viết vội. Anh thường viết kỹ lưỡng, chịu khó thay đổi. Thơ anh đa dạng, giàu liên tưởng và đậm chất nghĩ suy. Phạm Ngọc Cảnh là người làm thơ đầy tâm huyết và tự tin. Mong rằng ở chặng đượng sắp tới dòng sông thơ của anh vẫn sôi nổi, dào dạt và có sức lắng đọng hơn nơi người đọc. LƯU KHÁNH THƠ TÁC PHẨM: LÝ NGỰA Ô Ở HAI VÙNG ĐẤT Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi đường đánh giặc trẩy xuôi về bến bãi Lý ngựa ô em hát đợi bên cầu. Hóa vô tận bao điều mơ tưởng ấy bao câu hát ông cha mình gửi lại sao em thương câu lý ngựa ô này sao anh nghe đến lần nào cũng vậy sao chỉ thấy riêng mình em đứng đấy chỉ riêng mình em hát với anh đây. Làng anh ở ven sông Sắp vào tháng tư mắt tình tứ rủ nhau về hội Gióng mùi hương xông nụ cười lên nhẹ bẫng ai chẳng ngỡ mình đang đi trong mây ai chẳng tin mình đang rong ngựa sắt cả một vùng sông ai chẳng hát sao không nghe câu lý ngựa ô này Thế mà bên em móng ngựa gõ mê say qua phá rộng duềnh lên gợn sóng qua truông rậm đến bây giờ anh buộc võng gặp mối dây buộc ngựa gốc lim già suốt miền Trung sông suối dày tơ nhện suốt miền Trung núi choài ra biển nên gập ghềnh câu lý ngựa ô qua Anh đa tình nên cứ muốn lần theo xấu hổ gì đâu mà anh giấu diếm. Ðêm đánh giặc mịt mù cao điểm vạch lá rừng nhìn xuống quê em mặt đất ra sao mà thúc vào điệu lý khuôn mặt ra sao mà suốt thời chống Mỹ lý ngựa ô hát đến mê người mỗi bước mỗi bồn chồn về em đó em ơi. Hay vì làng anh ở ven sông những năm gần đây tháng tư vào hội Gióng đã hát quen lý ngựa ô rồi khen câu miền Trung qua truông dài phá rộng móng gõ mặt thời gian gõ trống khen câu miền Nam như giục như mời ngựa tung bờm bay qua biển lúa ngựa ghìm cương nơi sông xòe chín cửa tiếng hí chào xa khơi... hay em biết quê anh ngoài đó câu hát bắc cầu qua một thời quan họ câu hát xui nhau nên vợ nên chồng lý ngựa ô này hát theo đường đánh giặc có điều gì như thế ẩn vào trong? Em muốn về hội Gióng với anh không để anh khoe với họ hàng câu lý ấy em muốn làm dâu thì em ở lại lý ngựa ô xin cưới sắp về rồi đồng đội anh đã trọn mùa thắng giặc cũng sắp về chia vui. Bài thơ ngắn tặng con sông dài Sông rồi biến dạng Ông có về đừng nhầm lối Hang Tôm Cầu chìm lỉm nổi nênh vầng mây xám Vò rượu theo ông gió ghé nhòm. Ông mê đắm hội Xòe và hàng khuy bướm bạc Nguồn duềnh không chạm gót chân son May ra còn trang viết của ông vượt thác Còn mùa trăng mới Nguyễn nghịch vê tròn (*) Có là gì sông vẫn theo ông Ra tít mù khơi xa kiễng chân tìm thuở ấy Chiềng Pấc, Chiềng Pheo chi rồi cũng đã tang bồng Cho giọt lửa bò lên nương rẫy. Thiếu vạt cỏ Quỳnh Nhai vừa vuông chiếu trải Ðem độc ẩm lên non nhấm nháp vị sương trời Ông thử gõ đầu can vào bờ mé phải Và sông Ðà đưa Nguyễn cùng xuôi. 2001 Trăng lên Kính tặng Binh đoàn bảo vệ Lăng Bác Trăng lên, kìa trăng lên quảng trường dâng biển sáng ôi vầng trăng Ba Ðình mênh mông và thiêng liêng. Con thấy cõi vô biên không như lòng đã nghĩ khi gặp nét thần tiên trong khuôn vàng dung dị Trong lăng, Bác chợp nghỉ như sau mỗi việc làm trăng ơi, trăng biết thế nên bước nhẹ nhàng chăng. Như đầy thuyền trăng ngân rằm xưa sông Ðáy hát Bác luận bàn việc quân dưới trăng rừng Việt Bắc. Gió hàng tre dào dạt quanh Lăng như đầy thuyền con được mang tình Bác vượt sóng thời gian lên. Con đứng gác bên thềm con được là thủy thủ thả mái chèo êm êm trong mơ màng vũ trụ. Ôi vầng trăng xứ sở trong thơ Bác muôn đời xin được cùng gìn giữ hạnh phúc này thơ ơi. Cho sông núi đất trời biên cương và hải đảo thắng giặc, chúng con mời bóng trăng lồng sắc áo. Là người con hiếu thảo được gác với đêm rằm mời vầng trăng yêu dấu bước lên thềm, vào Lăng... 6-1-1985 Sư đoàn Sẽ có những sư đoàn thép Bất kỳ nơi đâu Không khuất phục tù đày chém giết Nơi đâu Người sống nợ nần người chết Bất kỳ nơi đâu, từ một cây "mút nhét" Một sải xuồng bơi Một nọc ong châm góp làm sự nghiệp Gốc tre xanh thắng trận cả đời Ba mươi triệu tấm lòng xông ra tuyến lửa Vạch lối điều quân Vai chảy xe thồ Trồng cây xanh che chở Mỗi bước quân đi Ðánh trận trường kỳ Ðêm trước núp trong lùm bắn tỉa Sớm sau giàn trận chính quy Ðến trận bão hiệp đồng cả nước Mỗi sư đoàn mang gió lốc bay đi... Ðất giải phóng thênh thang Sẽ cho ta dàn đội ngũ - sư đoàn Phía trước gọi ta Những Ðiện Biên, vòng đai thép tung ra làm chiến dịch Ðòn gánh hậu phương vượt đèo đi phản kích Hành quân Hành quân... Trùng điệp những sư đoàn Ai lên phía Bắc Tràn về hướng Nam Những vị tướng lại cầm quân đi đánh giặc Trải bản đồ Còn nguyên Vạch chỉ đỏ thắt quanh hầu giặc Pháp Bài học chiến tranh nhân dân Lại tiếp TRANG ẤP BẮC, PLÂY me Và chiến công trên ngực áo những binh nhì Ðất nước sẽ cho ta Những chùm con số đẹp Làm tên gọi khai sinh sư đoàn thép Này đây Doi cát Cửu Long Sư đoàn Châu thổ Giữa bãi sú, rừng tràm Vụt đứng dậy sư đoàn Nam Bộ Sư đoàn Tây Nguyên Từ hầm chông, bãi đá, cung tên Này đây Cực Nam, Phan Rang, Phan Thiết Này đây Quảng Ngãi, Phú Yên... Trên nguồn xa O Lâu, Thạch Hãn Sẽ tiến về Sư đoàn Trị Thiên Lại có một ngày Mọi cửa ô xanh Sài Gòn hớn hở Như Hà Nội đã từng Ba mươi sáu đường hoa tung sóng đỏ Phất rừng cờ thổi hồng ngọn gió Ðón con em Ðón những sư đoàn Mang chiến thắng trở về Rập bước Ca vang. 1966 Lục bát để dành đêm nào trời thật tròn trăng mẹ đem câu hát này giăng lưới chờ bắt cho con cả mùa thơ mấy năm mẹ hát ầu ơ một mình Ði vòng khắp nẻo hành tinh bói đâu ra được như tình mẹ đây mưa dồn bão đến bao vây mẹ che khô hạn hết ngày chờ con Cha quen dành dụm nỗi buồn mẹ đem phơi với khô giòn nắng trưa bắt con tép mại làm vua con cáy làm giặc con cua làm hề Bắt con sông Mã lôi về Câu huầy dô ướt dầm dề trước sân cha ngồi ngắm lại bàn chân thầm mong nhớ mẹ lại thầm thương cha à ơi xong lại ơi à nhắc làm chi thuở xót xa con đường trăng trôi lạnh cóng thang giường đêm dài mong mỏi mẹ thường ru trăng. 1991 Nguồn:blog vuhuu

Comments

{{ dataForm.errors().get('userId') }}
{{ dataForm.errors().get('content') }}

{{i.userId}}

{{i.content}}

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

Hôm nay

38657

Hôm qua

114166

Tuần này

396430

Tháng này

1111167

Tháng qua

2268048

Tất cả

114307573