Bẵng đi đến trên hai mươi năm, anh trở lại với tập thơ “Sóng Bãi Ngang”, và từ đó những tác phẩm văn chương - độc đáo liền mạch, và tên tuổi anh dần dần được đậm nét trong tiềm thức làng văn. Nhưng sự “đứt quãng” đến vài thập niên trong sáng tác, vẫn còn là một dấu hỏi. Anh đã từng là Bí thư Huyện uỷ, Trưởng ban Tuyên giáo tỉnh uỷ, Chủ tịch UBMT Tổ quốc tỉnh - Uỷ viên Trung ương MTTQ Việt Nam; nên có ý kiến cho rằng: anh bị cuốn hút hẳn vào địa hạt chuyên môn cách biệt văn chương, vào ma trận chính trị-xã hội theo mạch đời thường: “Lạc vào kinh kệ / u mê chiều tà / lạc vào quan chức / kiếp nào gỡ ra”(1). Chúng tôi xin được giải mã theo một hướng khác, một tứ khác, xuất phát từ tập thơ đầu tay, tựa đề Tưởng nhớ Thân phụ của anh: “Vấp bãi bờ, sóng gầm thét ...”(*).
Bãi bờ của Xuân Diệu là bãi: “Bờ đẹp đẽ cát vàng/ Thoai thoải hàng thông đứng... ” để sóng “ hôn thật khẽ thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi...”; còn ở HPP - con sóng nhân văn ẩn cư trong anh đã “ vấp ” bãi bờ phi vật thể, phản quy luật, thậm chí là mầm họa, tai ương..., khiến Người cầm bút trong anh phải thức dậy.
Độc giả thấy rõ trong nhiều trang viết của anh nỗi ám ảnh, nỗi lo đến cháy lòng khi con người tự huỷ hoại chiếc nôi của chính mình - sự tàn phá môi sinh;
Trước hết là nạn huỷ hoại rừng bằng chặt phá và nạn thuỷ điện:
“Nơi gặp nhau của bao đôi bờ tàn tạ. Có cái chết làm cho cái chết ngàn năm sống lại. Bãi đá tận đáy sông sâu một ngày bỗng trồi lên mặt nước. Và vẫn cái chết đó vừa mới ban ơn cho cái chết ngàn năm được sống, lại vội vã phải bắt nó chết ngay tức thì...Hai cái vĩ đại tày trời được mở ra trong vòng ba bốn chục năm - một thời gian quá ngắn để con người tự hủy hoại !” (Trận đồ).
“Tiếng rìu đẵn thông xa dần/ Tiếng rìu đẵn thông/ Xa dần/ Tiếng rìu/ Xa.../ Tiếng rìu đau cả gió!” (Đà Lạt).
“Các bạn tính toán thế nào mà ra tay chặt phá cả một ngàn năm dày đặc để đổi lấy dăm năm thưa thớt !” (Khúc ca cây xanh).
Một trong những định luật cơ bản của Thuỷ văn học là “Lượng mưa bằng lượng bốc hơi”, và sự phá hoại sinh thái đã cho hậu quả:
“Thiếu phụ đi xuống những bậc đá/ Chị dừng lại ở bậc thứ chín thứ mười/ Hồi nhỏ hàng ngày rửa rau giặt giũ/ Giờ không còn nước vỗ dưới chân” (Bến hoang tàn).
Anh đã “kỷ mục sở thị” cái chết dần mòn của nhiều danh thắng, của những đặc trưng dân tộc thân thương đã tồn tại ngàn đời; xót xa; muốn cứu mà lực bất tòng tâm: “Quả núi sừng sững giữa quê nhà đã thành vũng lầy hoang tàn như nơi sa thạch vừa rơi... Con cháu đọc thơ ông mới ngỡ ra rằng cuộc đời cần quả núi hơn hòn non bộ” (Bài thơ và quả núi).
“ Bốn luỹ tre làng/ Đi biệt tăm từ ngày ấy/ Mang theo đàn cò quây tổ quanh năm/ .../ Mang theo khung cửi và chày giã lụa” (Tre làng).
“Còn đâu hoà âm điền dã/ Tiếng gáy cu cườm cô đơn buồn rượi phía rừng xa”( Hoa đại).
Rồi anh mong ước mơ hồ vòng luân hồi đúng quy luật cho môi sinh hiền hoà: “Tôi thấy những tổ chim/ Trên sườn non Ba Bể/ Như hồi ấu thơ thường thấy/ Tôi thấy những cây già chết khô/ Gốc dính vách đá ngọn ngâm nước hồ / Sống yên ổn dao rừng không chạm tới...” – nhưng độc giả lại thấy một chốn nương thân, một cái “chết toàn thây” chỉ có ở nơi mà tổ tiên hoang dã của loài người mới vươn tới! Ngữ cảnh gợi nhớ Trần Dần: “Tôi hát một ngày mai không lại/ Bây giờ tôi hát lạc quan đen”.
Ở mảng khác của môi trường sống: Chính trị- xã hội, HPP cũng thể hiện tầm vóc tâm trí của mình, trong Kinh tế ngầm - viết năm 1990 -anh cảnh báo trước hàng nhiều chục năm, bây giờ vẫn nguyên tính thời sự: “ ...Pháp luật chỉ có một đối tượng duy nhất là Công dân... /Đất nước không còn vua, nhưng đã mọc ra quá nhiều quan hoạn xấu xa kiểu mới, lấp ló ở cấp này cấp nọ.../Hàng triệu cái vòi đỉa đói của ý thức tư hữu ở các tầng lớp làm ăn bất chính đang bám chặt những nhân vật quan chức thoái hoá.../ Nhiều thực trạng tiêu cực không còn ở mức độ con sâu làm rầu nồi canh nữa, mà lúc nhúc cả lũ ( bây giờ người ta ghi văn bản công khai là : Một bộ phận không nhỏ).../ Phải hạn chế những nguyên nhân phát sinh ra nó. Phải xử lý tính phức tạp hệ thống của nó (một VIP triều đình đã nghỉ hưu, đã nghĩ sớm, nhưng viết muộn, là: Lỗi hệ thống)... /Bài thuốc chữa bệnh nan y xã hội này phải thực hiện từ ba phía: Người bốc thuốc, Người bệnh và Lực lượng điều trị ( Tác giả nêu rõ là từ ba phía, phải chăng để nêu ra cái Bị vong lục–memorandum-về Tam quyền phân lập đã ngủ quên từ thời S.Montesquieu - trên 250 năm - đến nay vẫn “đoàn kết lại” - không chịu buông nhau ra, vẫn fascismo - bó nhóm..../ Chưa có dự báo nào lường hết được những gì nguy hiểm sẽ diễn ra khi hoạt động của bọn chúmg đã bắt đầu đánh cắp và buôn lậu nhiên liệu hạt nhân ... Trong tương lai, việc khủng bố tống tiền bằng cách sử dụng một số con tin trên máy bay chẳng hạn , sẽ quá nhỏ bé so với việc sử dụng con tin là hàng triệu người dân ở một thành phố, một địa phương./ Đã có dấu hiệu của những sự phát triển tất yếu đầy tội ác. Đó là điều cần cảnh giác cho cả hành tinh. Và các quốc gia , các địa phương không thể nào coi thường mà phải nghiêm khắc ngăn chặn chúng, một khi lực lượng của chúng hãy còn ở quy mô có thể xử lý...( sau cảnh báo này hai mươi năm là sự kiện Taliban với tháp đôi thương mại WTC ở Mỹ; sau hai mươi lăm năm – 26/3/2014 - VN Express tiếp dẫn Washington post - lời Obama đánh giá về nguy cơ từ nước Nga nhân vụ việc Ucraina so với nguy cơ khủng bố nguyên tử: “ Họ không gây ra mối đe doạ an ninh số một đối với nước Mỹ, tôi sẽ quan ngại hơn nhiều khi nói đến an ninh của chúng ta trong trường hợp một vũ khí hạt nhân phát nổ ở Manhattan”.
Nhưng, nếu chỉ có vậy thìBãi bờ mà anh vấp phải, dẫu con sóng trong anh đã tung lên một cách ấn tượng, nhưng ở trong bối cảnh bùng nổ thông tin hiện tại - thì cũng chỉ là trầm tích của “chuyện thường ngày ở huyện”, “biết rồi khổ lắm nói mãi”. Chúng tôi muốn đề cập đến phần chìm của tảng băng.
Hồ Phi Phục là hậu duệ gần đời của Bà Chúa Thơ Nôm, thơ Bà thường có nghĩa bóng đậm giới tính dí dỏm đi kèm, nên dễ nhận ra; thơ văn HPP có dày đặc “ tứ” khác đi kèm, nhưng ở một mạch khác, lại không thuộc thơ văn có thể “xếp gọn vào tri thức người đọc ngay lập tức, sau một giây” (2), hoặc có thể có lý do tế nhị, nên cần suy ngẫm mới có thể nhận biết thông điệp song hành.
Đó là thông điệp của một người đã “chín chắn chính trị, yên ổn phương trình, vu vơ nghi ngờ những gì bất biến... ”; ở đó có “Tiếng tù và già cỗi gọi rừng nhắc nhở sự lỗi thời của cách nhìn an phận tiện lợi muôn thủa” đối với đấng bề trên - được gọi chung là Thượng đế - là đối tượng “Không cha, không mẹ, không mồ côi” được “những đám mây Ngân Hà ngút trời động đậy kia tỏ lòng che phủ nỗi buồn thất nghiệp vĩ đại...” thì còn“mong chi thời điểm sáng tạo” và“sự có mặt của Người có hơn gì sự không có mặt ?” (Về Thượng đế).
Một thế kỷ trước, R.Tagore đã cởi “chiếc áo khoác linh thiêng” của Thượng đế, lay tỉnh nhân loại cái tâm thức cuồng tín đạo giáo :“ Hãy từ bỏ những vòng tràng hạt / và những lời tụng niệm hát ca/Người thờ ai/trong cái xó tối đen hẻo lánh này/.../ hãy mở mắt nhìn xem/có Thượng đế nào trước mặt ngươi đâu...”( 3 ); còn bây giờ, anh thức tỉnh sự cuồng tín ngu trung – và cũng mượn bóng hình Thượng đế.
Thượng đế hay thảo dân mà sự tồn tại chỉ làm cho vũ trụ thêm chật chỗ thì sự có mặt tệ hại hơn là không có mặt. Người Nhật nói “Không làm một việc gì cả, có nghĩa là đã làm một việc xấu”. “Con gà mái ” của HPP “ vì hay phóng đại tô màu, phô trương thanh thế...”, bị Gôgôn phê phán: “nó đẻ ra quả trứng bé xíu mà kêu la ầm ĩ như đẻ ra cả hành tinh”; HPP biện hộ rằng “ít ra thì chúng cũng đẻ ra được những quả trứng, hơn hẳn mấy vị ba hoa chích choè thuyết giảng lung tung nhưng không có sản phẩm”. Chỉ có Thượng đế đồng sàng mới biết “mấy vị” ấy. Gà mái theo định nghĩa của Platon (“Con người là động vật hai chân và không có lông vũ”) thì hẳn có thuộc tính phóng đại tô màu, theo đó - lại băng rôn (slogan) ầm ĩ, ngộ nhận mình có trước cả bốn mùa, tiên sinh Thượng đế. HPP lại nhờ Giả Bình Ao biện tiếp “Trứng mà đã thối thì thối lắm !” - thì, đến Nhật hoàng cũng phải chịu. Thà vô sinh như “mấy vị ” còn hơn đẻ ra thứ gì đó quái đản làm khổ mũi thiên hạ.
Trở lại mặt đất, nơi “Thượng đế ” bày ma trận của đức tin. Con chiên của Thượng đế ngụp lặn trong mê cung các kinh thánh dẫn đường mà Triết học các kiểu đóng vai trò khởi xuất, được vân dụng chạy hiệu và tô son cho ý kín của “ thượng đế ”. Một thời gian dài , rất nhiều người Việt tin rằng loài người chỉ có một thứ triết học ! trong khi thân mẫu của nó đã tồn tại trên hai ngàn rưởi thiên niên kỷ và có chi chít hậu duệ. HPP có phác họa hết sức độc đáo: “Triết học như người đàn bà xấu/ Nhờ trang điểm / Tưởng là hoa hậu/ Người đàn bà xấu xí ấy /Nàng hoa hậu kiêu kỳ ấy / Bớp vào đầu thế giới: - Mày đi đâu ?/ - Đi để làm gì?/ - Tại sao mày suy nghĩ ? ...”; anh có nhận xét thâm thuý rằng: “Triết học là nơi ẩn náu tốt nhất/ Cho những ý kiến thiểu số”. Có thiểu số giằng chân lý như Galilê (“Cái hồi ấy nếu dơ tay biểu quyết/ Cả hành tinh chống lại một con người” - Thạch Quỳ); có thiểu số lợi dụng triết học làm nơi ẩn náu, tự khoác cho mình những chức năng lớn lao; có thiểu số sử dụng triết học để tránh đòn sát phạt... Hậu quả là nhân loại có thêm nhiều ngả, lắm đường; “Attention ! - Cuội nói - ... Ở hạ giới có nhiều đường, lắm ngả; có những đường những ngả phải vượt qua bằng máu và nước mắt...” (4); và HPP mã hồi: “Cách mạng rất đẹp, CNXH rất đẹp, nhưng không thể đùa với nó được, vì nó mang theo chất nổ”. Không -thể -đùa khác không -thể, bởi Cách mạng ở nghĩa tốt đẹp của nó, là thay cũ đổi mới, là tiến hoá, kẻ chống lại quy luật là “... sự nổi lên của mục tử, chống lại sự khai hoá của văn minh”(5); nhưng, phải có “chút gì đây” khiến nhà văn không thể đồng thuận:“Cách mạng không bao giờ xoá bỏ giai cấp bóc lột này để sinh ra một giai cấp bóc lột khác tồi tệ hơn” (Kinh tế ngầm).
Hãy tiếp tục lang thang trong gia đình những đứa con tinh thần của anh:
Một bút ký của Hồ Phi Phục về một chuyến đi sang Liên Xô cũ: “Ngọn đèn Masa”. Chuyện kể về mấy ông nhà ta sang mẫu quốc công cán mươi ngày, ăn trưa ăn tối tại khách sạn có cô phục vụ người Nga hấp dẫn, nàng đẹp đến mức họ phải vận thơ của mặt trời thi ca Nga để đặt tên cho nàng -là Masa (“Nàng xinh đẹp tên gọi Masa”-A..X. Puskin ”). Hàng ngày họ trồng cây si, say ngắm nàng, “mắt họ ướt ra, như con dê nhìn chiếc bắp cải”(6), và mơ ước, kiểu “nếu không có dậu mồng tơi” (7). Biết ý, một hôm, Masa bảo với họ rằng: Tao đã có năm đời chồng, chúng nó lao vào tao như những con thiêu thân lao vào ánh đèn; bốn đứa đã lăn ra chết, đứa thứ năm đang thoi thóp; đấy! tao là vậy, chúng mày định sao?
Câu chuyện chỉ có vậy, dù viết rất hay thì nội dung cũng không vượt ra khỏi khuôn khổ một chuyện nhàn tọa tán gẫu tầm phào. Ngòi bút HPP không thể dễ dãi như thế. Lại có một “chút gì đây”? Ngọn hoa đăng hút chết loài tiết túc vô tri cứ lao vào đốm sáng, bao nhiêu kẻ hữu tri mà cứ lao vào cái nhan sắc Masa và đã thiêu thân - tắc tử; mấy ông trồng cây si kia có biết sợ không khi thấy anh chàng áp chót (mà suy luận logic thì có thể là chàng paxilô đường mật ở bên kia Tây bán cầu) hơn nửa thế kỷ ngắc ngoải ? Và, sợ Masa hay sợ cái ánh sáng soi đường tới sông mê của ngọn đèn? “ Trăm năm ở đỗ ngàn năm/ Bóng tối ở đỗ bên chân cột đèn” (Lời xẩm cổ) - người Nga vốn phúc hậu, nên Masa mới mách bảo cái bóng tối chết người dưới chân bó- đuốc- soi- đường.
Thơ đã dẫn về “Bến hoang tàn” ở trên, kể về một thiếu phụ về quê, bước xuống “Bến quê lưu luyến”, cảm nhận “những tháng năm trượt dốc/ con người chuồi lòng sông xa bờ”; nhận thấy ở“Bậc thứ chín thứ mười đáng nhớ / Không còn nước vỗ dưới chân…”.- không đơn điệu là thông báo hậu quả của việc phá rừng; sao lại là “bậc thứ IX thứ X”, sao đến bậc này mới cảnh báo ? Nước là Dân, Dân là Nước (“Sông phía Bắc/ Bể phương Đông/ Nếu không Dân cũng là không có gì ” - Phan Bội Châu); khi Dân đã chuồi ra xa bờ ? khi ở bên dưới không còn Dân thì… khỏi phải bình luận.
Thơ “Trên sân ga” của HPP, đọc thoáng qua có thể cảm nhận là bè trầm thuộc hòa âm “buồn ở đâu hơn ở chốn này” của sân ga Nguyễn Bính - một tuyệt bút. Trước chia ly, nỗi buồn khiến người ta câm lặng “không nói được lời khảng khái”, “mắt ướt/ ánh nhìn rơi” - logic của sự nén chặn cảm xúc. Nhưng đọc kỹ, độc giả tinh tế sẽ cảm nhận thấy “ quãng năm chó sói ” ( là quãng năm mà Lý thuyết âm nhạc, với phân âm bảy nốt hiên tại , không thể đưa về thanh âm trung thực có thể hoà âm tự nhiên với âm chủ; chỉ có nhạc cụ thuộc hệ dây-không - phím mới khắc phục được yếu điểm này ) nổi lên trên bè trầm; lại có “ một chút gì đây” ? Kẻ “có lỗi” cũng “ không nói được lời khảng khái” vốn có, cũng né tránh cái nhìn trực diện. Và, sao lại “Lặng lẽ tàu đi/ Số phận/ Hồi còi”? Chưa kể đến tiếng rít kim khí , đã có hồi còi thì sao còn lặng lẽ? Bởi người ở sát xa lộ không thấy tiếng ồn - sự thích nghi bắt buộc; nhân viên hoả xa “không nghe ” thấy âm-thanh-đường-sắt vì tần xuất chứng kiến là trường diễn, quá quen thuộc; Chẳng ai quan tâm đến hiện tượng đơn điệu và nhàm chán; là dăm cây số hay năm năm cho một ga tàu (train station) thì cũng thế - (ga vũ trụ- space station - rồi sẽ là hàng trăm năm ánh sáng); người xuống , người lên- mặc kệ; tù –tù, tàu lại lầm lũi đi; rồi lại dăm cây số hay dăm năm - điệp khúc; lại người xuống - người lên với “mắt ướt / ánh nhìn rơi”… Cô độc, ngại ngùng. Gợi mở hình bóng một con tàu lầm lũi đi, dừng ga theo mặc định thời gian; hiện không còn ai nở nụ cười hình chữ nhật chào đón, nên “Vẫn khúc ca ngày nào/Sao giờ nghe buồn thế” ?
“Canh tập tàng” của HPP được cổ súy bằng tục ngữ “Canh tập tàng thì ngon, con tập tàng thì khôn”. Hừm ! Thật là ngại quá! Thế thì chế độ “loạn phu”, “quần hôn” lên ngôi à ? Có lẽ là không. Nửa sau của tục ngữ là phần an ủi động viên cho một hậu quả bị động; nửa trước là điểm tựa, là cơ sở để chứng minh nhằm thuyết phục đối tượng cần an ủi. Điều có thể thấy là HPP cổ súy cho canh tập tàng - loại canh đa nguyên tố ; nó được chế biến phá cách, không xơ cứng, không ngầm định; nó khai thác hết mọi khả năng đóng góp tiềm tàng của “quần chúng rau”. Ở đây, trong nồi nước, mọi thành viên đều bình đẳng, đều thực sự là “rau chủ”. Để tăng tính thuyết phục, tác giả nêu lên một đối cực điển hình: canh đơn nguyên tố, là canh rau lang; loại này có tính dân gian cao, nhưng hơi cá biệt vì “cứ ôm ấp mãi anh chàng mắm tôm nặng mùi”. Cả châu Âu quay mũi trước cái gia vị dậy mùi, gây nghiện này , nên khó mở cửa sổ cần thiết từ nhà mình sang họ. Hiện chúng ta đã bổ sung các loại Quốc hoa, Quốc tửu ... vào Quốc tuý để nâng cao thương hiệu; sau “Canh tập tàng” của HPP - thiết nghĩ ,ở bước một, nên có tổ chức “Canh đạo” để nối vòng tay lớn.
Tương tự, “ Con chim trôi bè ” lại cũng đơn độc hạ cánh xuống đồng nước lụt làm kiếp “tù binh” cho dân làng .
Trong đoản văn “Người mù”, HPP “Buồn cho ai đó đức thấp, sống uổng đôi mắt lành lặn, ham hố sa lầy tăm tối. Có người tài cao không mù, trớ trêu thành người mù nặng”; có ý kiến cho rằng anh đã có chút lấp lửng, “ Biết mà làm như không biết mới gọi là biết” - vận ý Khổng Tử . “Đôi con mắt không làm cho cảnh ngộ của người ta khá lên: một mắt nhìn cái tốt, mắt kia nhìn cái xấu của cuộc đời; đáng tiếc là nhiều người cứ nhắm con mắt thứ nhất, ít người nhắm con mắt thứ hai” (Vontaire – Người phu chột) - độc giả dễ nhận ra “ai đó”chủ ý nhắm con mắt thứ nhất.
Chán chường !
Chán chường “Chuyện kẻ ấm đầu dưới tầm dân trí/ Lăng xăng nói dối khoe tài/ Thòm thèm man khai/ Tước vị ... Chuyện lũ gián ngày bất hảo/ Trơ tráo thách thức”/ “Ra oai chén no long não”... (Chuyện chán chường). Chuyện“Lắm kẻ thành danh mà chẳng thành người” (Phác thảo Nguyễn Thái Học).
Chán chường ngữ cảnh “Ổ mối ruỗng chân đê” để“Người đi không ngoái lại”- là thời điểm “ Biết bao người bạc bẽo với quê hương/ Thả số phận bập bềnh vào biển tối ” (1) - những mong tránh kiếp cá chậu chim lồng (?): “Ngày lại qua ngày / Cá bầm môi thành chậu/ Tiếng chim kêu vướng lồng/ Mắt ai buồn đợi trông”. “Câu trả lời đâu phải dễ dàng chi ”(1) , nên tốt nhất nó vẫn là câu hỏi “Chập chờn sao mãi thế ?” và “Sọt rác (vẫn) đầy thơ vô đề ” (Ngày lại ngày).
Ngán ngẩm vì thiếu một Prômêtê: “... họ gây ra bẩn, cũng muốn đốt đi cho ổn, mà lửa chẳng đỏ lên cho”, HPP mượn lời L. Aragông “Giữa mùa phản phúc/ Tối đen tù ngục/ Suối đã đục dòng/ Chỉ còn lệ trong”; rồi “Tạm biệt côn trùng ếch nhái ồn ào tạp ca” (Bay lên). Có phải theo dấu người xưa - “Ông đã đi / Ngàn năm trôi nhẹ kiếp người.../ Mây gió trời cao rồng mãi lượn bay” (Lão Tử ); nhưng, ngữ cảnh lại gợi nhớTrần Dần: “Tôi khóc cho những người bay không có chân trời/ Lại khóc những chân trời không có người bay”.
Chắc là anh không thể “bay” lên được vì “không có chân trời” lại còn nợ gánh trần gian: “Lếch thếch nón tơi về bên ngoại / Giáp hạt quê chồng xoá đói dẫm chân...”(Gió mùa II). “Từng có một phố cổ mang tên Nhân Từ/ Con cháu dở hơi thay tên đổi biển...” (Bà mẹ Nga). Một trái tim. Hiếm hoi giữa làng quan.
Và cuối cùng, có lẽ rằng: “Từ Tấn Trò Đời Bandắc luận về tư hữu / Người mà không có gì là kẻ không ra gì...”. Thật đáng tiếc: “Bậc uyên bác không chạm vào minh triết đó...” (Không đề) – là cái nhìn lý luận tổng quan của HPP ?
*
* *
Tản mạn về “đàm thiên- thuyết địa - luận nhân” của HPP trên đây có thể chỉ là phác thảo bức tranh toàn cảnh Thông điệp của anh; đánh giá một tác phẩm hội hoạ độc đáo dạng này không dễ; thậm chí chỉ là “nam mô tam quan”. “Viết lách chính là hội hoạ của phát ngôn”(8), phát ngôn của HPP sâu kín, có tầm, có “tứ” đắt, nhờ bố cục hội hoạ chặt chẽ và kỹ xảo dùng màu chín.
Có ý kiến cho rằng, thơ văn HPP khúc khuỷu, khó hiểu, khó nhớ. Kỷ nguyên thơ vần đã qua từ lâu; thơ được nhớ nhờ “vần” và “tứ”, không nắm được “tứ” và nếu không hiểu nổi thông điệp của tác giả thì bàn gì đến nhớ.
Có nhiều trang viết, thậm chí cả một cuốn sách dầy, không tìm ra một hạt minh châu nào khả dĩ để nhớ. . Tác phẩm của HPP chắc là sẽ đi cùng năm tháng bởi tính độc đáo, có “ tứ ”đắt và hầu hết đều hàm chứa đủ ba yếu tố cốt lõi: Văn- Sử- Triết .
Sử và triết- chúng ta đã đảo qua, hãy điểm qua về tính văn chương:
“Thời khổ đau/ Màu da máu ứ/ Tóc vàng đẫm nước mắt/ Trích tiên đoạ trần...” (Detxđêmôna).
“Tuyết rơi người xa xứ/ Giáo đường chuông đổ dài/ Tóc ai xanh mòn vai..”.( Bên hoa).
“Sóng buồn phiền nỗi nhớ.../ Cuộc tình mắc cạn vu vơ...”(Trống mái).
“Giọng phiêu lãng mây trời/ Văn xanh mềm sóng mạ./ Nhạc nhạt nhoà mưa rơi../Mặt nước rạn màu vỏ trứng/ Thời gian vất vả chân cầu ”(Danh ca).
“Còn đâu hoà âm điền dã / Tiếng gáy cu cườm cô đơn buồn rượi phía rừng xa...” (Hoa đại).
“Ngày ấy / nàng hát trong đôi mắt hé mở/ tiếng hát âu yếm chơi vơi / tràn ngập nỗi buồn Nga chìm nổi/ ẩn dấu ước mơ một thời...”(Về một bức tranh Lêvitan).
“Ngày ra đi/ vó ngựa chập chùng gõ móng/ Cánh buồm về lấp lửng
trăng soi... /Sao sa hoài Huyền Trân lạ lối...” (Biệt ly ca).
....
Và có lẽ không phải bình luận gì thêm. Nghệ thuật văn chương ấy đủ để
chuyển tải mọi thông điệp, là lý do để HPP có đến non trăm tác phẩm được
đăng tải trên Tuần báo Văn nghệ – điều mà nhiều người viết chỉ mong có một
Để kết thúc, người viết xin được kể lại một giấc mơ liên quan .
Hôm đó đất trời nóng như trong lò kim đan của Thái thượng lão quân. Đức Môhamét ( Mohammed), trên tấm thảm Iran, bỗng hạ xuống bên tôi. Tôi thấy Người đường bệ trên ngai, khăn vấn đầu và y phục trắng toát, tay cầm bảo kiếm, tay cầm Côran, chân trái dẫm lên một chiếc coong lớn; đôi mắt ánh lên niềm vui của kẻ không gieo cấy mà bội thu mùa màng .
Người ra hiệu, và tôi bước vào với hành trang bốn ngàn năm, cảm nhận ngay mùa thu trong tấm thảm.
Người vui vẻ thông báo, rằng tôi ngẫu nhiên là thần dân đầu tiên may mắn của Người; hôm nay Người đến treo lưỡi liềm lên bầu trời một xứ sở liềm búa - tiếp quản một xứ sở mà thần dân đã tự quy đạo từ lâu, vừa nói Người chỉ vào mọi thần- dân- mới đang chuyển động, tất cả đều đeo mạng - che - mặt .
Tôi lịch sự cho Người biết sự nhầm lẫn; dưới này chỗ nào cũng nóng, mỗi ngày một nóng, rằng đấy là khẩu trang chống nóng, kính đen và khăn bịtmặt; ra đường, vợ chồng cũng không nhận ra nhau. Tôi kính cẩn đưa cho Người bài viết của tôi (đang là bản thảo, sắp hoàn thành) cùng bộ sưu tập nguyên liệu cấu thành, để chứng minh nguồn- nóng - tự- có.
Rồi khuyên người hãy tạm quay về Trời, vì đa phần chúng tôi, Nam Tào đã ghi lý lịch mặc định là: Tôn giáo - không; hơn thế nữa, chẳng ai biết đến Đức Alah của Người.
Nghĩ rằng Người sẽ nổi cơn thịnh nộ vì sự thoá mạ Thượng đế; nào ngờ Người bỗng cười lớn, và nói nhỏ: “Alah ban phúc cho PP ! Alah!”, rồi thầm thì: “May mắn cho Ixlam! Alah !”.
Đương đà, tôi rỉ tai người rằng, treo lưỡi liềm lên bầu trời của xứ liềm búa là việc không dễ nhưng không uổng công; dân bản xứ từng sinh ra trong lầm than, trưởng thành trong khói lửa, từng sống trong hỗn loạn, sống cùng bão lũ, nên tính thích nghi cao; chịu nhiệt tốt chỉ là một hệ quả nhỏ .Người sẽ thấy nhiều điều ngoài tầm tiên tri, ví như dân bản xứ thích nghi với tử nạn giao thông không kém gì tín đồ Ixlam tử vì đạo hoặc vì hiến tế... Hiếm có nơi nào, việc miễn dịch được triển khai từ buổi bình minh: các cháu lên ba của chúng tôi đã ba-lô đến trường và bắt đầu ăn dặm thuốc trừ sâu... Có được tín đồ như vậy, Đức Alah sẽ xoa đầu Ngài.
Nhưng, người bỗng nhíu mặt, nhổ nước thánh và bay vụt lên. Tôi hoảng hốt ngó xuống xem chỗ đó có mọc lên thứ gì giống như cây thuốc lá (9).
Vinh, I/ 2014.
PS: (*) - Các trích dẫn in nghiêng là Thơ- văn Hồ Phi phuc.
(1) - Nguyễn Trọng Tạo.
(2) - A.P. Tsêkhốp.
(3) - Thượng đế là lao động- R. Tagore.
(4) - Trích “ Tháng ngày” - Phạm Việt Thư.
(5) - F.Engels - Bàn về Vinhem Tell của F. Schiller.
(6) - Trích “ Mối tình đầu của tôi”- A.P.Tsêkhốp.
(7) - “ Cô hàng xóm” -Nguyễn Bính.
(8) - “ L’ écriture est la peinture de la voix “-Voltaire.
(9) - Sự tích về cây thuốc lá - theo Hồi giáo: Đức Môhamet bắt gặp một con rắn độc
nhỏ đang bị lạnh cứng; Người nhặt nó lên, ấp & ủ nóng nó giữa bàn tay và lồng
ngực. Khi tan băng giá, con rắn cựa quậy và bảo: “Tao cắn mày ”. Môhamet
nói “ Ta vừa cứu ngươi, sao ngươi lại cắn ta ?” Rắn: “ Tao cứ cắn!”. Môhamet
ngửa lòng bàn tay ra, bảo: “Ngươi cắn đi”. Con rắn bổ vào gò kim tinh trên tay
ông rồi nhảy xuống, lủi vào cỏ mất hút. Môhamet ngậm vết cắn, hút máu và
nọc rắn, nhổ xuống bên đường rồi đi tiếp- chỗ ấy mọc lên cây thuốc lá.