Những góc nhìn Văn hoá

Giá trị văn hóa và sức lan tỏa của dân ca Ví, Giặm

1. Hát ví và hát giặm ở xứ Nghệ đã và đang được các nhà nghiên cứu xem là đặc sản (có người gọi là thổ sản) trong kho tàng dân ca của một vùng văn hóa có bản sắc. Để góp phần làm rõ thêm những nét riêng biệt, độc đáo cũng như sức sống mãnh liệt của hai thể hát đó, trong bài viết này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu giá trị văn hóa và sức lan tỏa của dân ca ví, giặm. Đây là hai vấn đề nhưng có quan hệ mật thiết. Những vấn đề đặt ra sẽ được xem xét, giải quyết trên cơ sở hệ thống hóa ý kiến trong một số công trình nghiên cứu của những người đi trước và dựa vào kết quả điều tra, sưu tầm sự tồn tại trên thực tế của ví, giặm xứ Nghệ đã được công bố, giới thiệu.

Sự chú ý đầu tiên của nhiều nhà nghiên cứu ở nước ta khi đến với ví, giặm là cố gắng lý giải tên gọi của hai thể hát này. Ông Chu Xuân Diên cho rằng: “Nhân dân gọi là hát ví, có lẽ hát ví hay dùng lối ví von để trao đổi tình cảm với nhau. Giọng ví von rất gần với giọng thơ, âm giai và nhịp điệu” [5; 431]. Theo ông Ninh Viết Giao: “Có người cho hát ví là “hát vói”, bên nam đứng ngoài ngõ, ngoài đường” hát vói “vào sân…” [10; 10]. Còn theo chúng tôi, từ ví trong hát ví có thể bắt nguồn từ tiếng địa phương xứ Nghệ. Dân ở vùng này và ở vùng giáp ranh phía Bắc xứ Nghệ (Thanh Hóa) thương nói “ví” có nghĩa là “với”. Hiện tượng đó được lưu dấu ấn trong một câu thơ ở bài Nhớ của Hồng Nguyên: Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc (Độc lập nhớ rẽ về chơi với nhau). Trả lời câu hỏi “Hát giặm là gì?”, ông Nguyễn Đổng Chi giải thích: “Thực ra, ngày nay nhiều người không còn rõ nghĩa tiếng “giặm” là gì? Ngay cả những người hát kỳ cựu cũng hiểu nó một cách mơ hồ. Tuồng như tiếng “giặm” đặt trong hát giặm đã trở thành một tiếng không có nghĩa. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cách cắt nghĩa sau đây ít nhiều có vẻ hợp lý. Tiếng “giặm” có nghĩa là đem một vật gì thêm vào, điền vào một cái gì đó còn khuyết, vào một nơi nào đócòn có thể chêm được. Nó rất gần với tiếng giấm giúi…” [2; 7]. Cắt nghĩa sự láy lại câu cuối một trổ hát trong hát giặm, ông Ninh Viết Giao cho rằng: “…là tiếng vọng lại nơi núi rừng, nhất là khi chúng ta đi vào những khu núi rừng có nhiều vách đá thẳng tắp, cheo leo… câu láy lại một đoạn hay một khúc có thể là tiếng vọng đó của con người thời xa xưa” [10; 4]. Ông Chu Xuân Diên thì chú ý phân biệt hát giặm Nghệ Tĩnh với hát dặm Hà Nam: “Hát dặm (Hà Nam) ca ngợi Lý Thường Kiệt ” [5; 424]. Nó thuộc loại dân ca nghi lễ tế thần. Trên thực tế, theo sự tìm hiểu của chúng tôi, một số nơi như xã Xuân Hải, Xuân Phổ, Tiên Điền,… ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, người dân gọi hát giặm là hát kể chuyện (Tư liệu điền dã của sinh viên khoa Văn trường ĐHSP Vinh năm 1981, 1982 hiện còn lưu giữ).

2. Bàn về giá trị văn hóa của dân ca ví, giặm, sau khi đã phân tích, chứng minh, lý giải một cách thỏa đáng, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận xét, đánh giá có tính khái quát cao. Nhà “Nghệ học” Ninh Viết Giao nêu lên tám giá trị văn hóa của ví, giặm: “…là tài sản văn hóa phi vật thể cổ truyền, lâu đời, một thổ sản đặc biệt của xứ Nghệ (1); là một phương tiện văn hóa tự túc (2); có sức lôi cuốn các danh sĩ, thi sĩ, các nhà khoa bảng tham gia sinh hoạt (3); là nguồn chất liệu để nhiều nhạc sĩ khai thác, sáng tác các bài hát mới(4);là nguồn cứ liệu của nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ (5); đã được sân khấu hóa thành một kịch chủng, cũng gọi là kịch hát dân ca (6); đã để lại bao nghệ nhân có tên tuổi (7); đã có nhiều công trình sưu tầm, nghiên cứu có giá trị (8)” [10; 7, 9] (Chúng tôi chỉ tóm tắt các luận điểm). Từ góc độ văn học (một phương diện nằm trong văn hóa), ông Hoàng Tiến Tựu nhận xét: “Người Nghệ - Tĩnh không sinh ra nhiều làn điệu dân ca khác nhau để diễn đạt nội dung, tư tưởng, tình cảm khác nhau như nhiều nơi khác trong nước ta. Tất cả những gì cần được nói dưới hình thức hát của người Nghệ đều đưa vào hát giặm và hát ví. Có lẽ đây là biểu hiện của truyền thống tiết kiệm, truyền thống chú trọng nội dung hơn hình thức của con người xứ Nghệ được bộc lộ trong lĩnh vực dân ca chăng? ...Trong văn học dân gian Nghệ - Tĩnh, nhìn chung mặt “văn” nổi hơn mặt “nghệ” [9; 6, 7, 14]. Trên bình diện ngôn ngữ (nằm trong văn hóa), bà Đỗ Thị Kim Liên cho rằng: “Cùng với thể hát ví, hát giặm được xem là thể dân ca “đặc sản” của Nghệ - Tĩnh, nghĩa là chúng chỉ tồn tại ở địa phương Nghệ - Tĩnh mà không có ở bất cứ địa phương nào khác… Từ kết quả đưa lại do sự khảo sát trên, có thể khẳng định: hát giặm Nghệ - Tĩnh là kho tư liệu quý giá lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống độc đáo của người Nghệ - Tĩnh” [6; 52, 57]. Ông Nguyễn Đổng Chi nêu rõ: “Nhưng miền Nghệ -Tĩnh còn có một thổ sản đặc biệt thứ hai nữa mà các người ít được biết đến (thổ sản thứ nhất là món cà muối - chúng tôi chú thêm). Đây là món ăn tinh thần, một lối hát và thể điệu văn chỉ riêng xứ chúng tôi có và riêng xứ chúng tôi hay dùng trong đám bình dân. Ấy là hát giặm” [2; 1]. Ông Hoàng Xuân Hãn khẳng định: nguồn gốc câu văn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng như truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự là hát phường vải. Theo ông, hát ví phường nón và hát ví phường vải đã góp phần đáng kể để hình thành văn phái Hồng Sơn từng nổi tiếng một thời ở nước ta (xin xem bài Nguồn gốc văn Kiều, Hoàng Xuân Hãn, BáoThanh Nghị, số 29, 30, 31, tháng 2 năm 1943).

Từ các ý kiến đã được dẫn ra ở trên, nhất là ý kiến của ông Ninh Viết Giao, chúng ta có được cái nhìn tổng quát về giá trị văn hóa của ví, giặm xứ Nghệ. Tuy nhiên, khi xem xét giá trị này, theo chúng tôi, cần xem thử hai thể hát đó có gắn với phong  tục tập quán của người Nghệ hay không? Các biểu tượng trong hát ví, giặm có những nét riêng như thế nào? Cả hai đã ăn sâu vào tâm thức, trở thành máu thịt của người Nghệ ra sao? Đây là những khía cạnh mà chúng tôi muốn trình bày thêm trong bài viết này.

Ví, giặm xứ Nghệ tuy ít gắn với các hình thức nghi lễ nhưng lại có quan hệ mật thiết với một số phong tục tập quán của người dân ở vùng này. Sự hình thành và phát triển của hát ví gắn với tục kết phường, kết hội để làm ăn, sinh sống của người dân xứ Nghệ. Phường, hội là hình thức tổ chức theo nghề nghiệp, sở thích. Đây là một trong năm cách thức tổ chức đời sống cộng đồng trong nông thôn cổ truyền Việt Nam (xin xem cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam - Trần Ngọc Thêm). Tục kết phường phổ biến ở nông thôn nước ta trước đây, nhưng dường như không có nơi nào phong tục đó lại gắn với sinh hoạt văn nghệ dân gian một cách chặt chẽ, tạo nên thể hát ví của nhiều phường như phường vải, phường nón, phường cấy, phường củi… độc đáo như ở xứ Nghệ. Qua hát ví, chúng ta có thể hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa cuộc sống tinh thần với đời sống vật chất trên nền tảng lao động, sản xuất của con người ở xứ này. Hát ví gắn với tục kết phường cũng đã được nói qua trong cuốn Hát ví Nghệ Tĩnh của Nguyễn Chung Anh và Hát phường vải của Ninh Viết Giao.

Còn về hát giặm, theo Nguyễn Đổng Chi: Người ta đã tìm thấy nhân dân làng Phù Minh ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh ngày xưa có sử dụng hát giặm trong khi đi hái củi như một thói quen phổ biến. Tập quán này được miêu tả khá kỹ trong phần phụ lục số II ở cuốn Hát giặm Nghệ Tĩnh (sđd). Trên thực tế, theo sự tìm hiểu của chúng tôi, thể hát giặm còn được dùng trong tục tang ma ở một số nơi thuộc xứ Nghệ, nhất là ở Hà Tĩnh. Khi có người qua đời từ tuổi 70 trở lên (nay là tuổi đăng thọ) người ta thường cho hát các bài hát giặm quen thuộc, phổ biến như Phụ tử tình thâm, Thập ân phụ mẫu. Những bài này được cất lên liên tục để thay cho tiếng khóc, để đưa người chết và kể cả người còn sống trở về và nhớ về nguồn cội. Tục này hiện còn lưu giữ nhiều nơi ở xứ Nghệ, có cả ở đô thị như thành phố Hà Tĩnh, thành phố Vinh. Chỉ có điều nếu như trước kia người hát thường là những người có giọng trong phường bát âm thì nay được thay bằng băng, đĩa, loa đài với giọng ca của NSƯT Xuân Năm, NSND Hồng Lựu. Như vậy, kể từ lúc sinh ra, người Nghệ đã nằm trong chiếc nôi cùng với khúc hát ru từ dân ca ví, giặm; lúc trưởng thành, họ lại tham gia vào sinh hoạt ca hát này; đến lúc nhắm mắt xuôi tay lại ra đi trong lời ca quen thuộc đó. Rõ ràng, hát ví và hát giặm đã gắn bó và theo sát cuộc đời của mỗi người dân xứ Nghệ, ăn sâu vào tâm thức và trở thành máu thịt.

Trong dân ca ví, giặm đã hình thành một hệ thống biểu tượng khá hoàn chỉnh và có những nét riêng dễ nhận thấy. Nếu trong dân ca quan họ Bắc Ninh, các biểu tượng phổ biến là các liền anh, liền chị; những anh hai, chị hai; những người những ta… gắn với tục kết chạ (kết bạn) thì trong ví, giặm xứ Nghệ lại nổi lên biểu tượng của những anh những ả, những dượng những o, những tui những mự, những bay những choa… theo cách xưng hô của người Nghệ (xin xem bài Vẻ đẹp ví giặm Nghệ Tĩnh từ góc nhìn ngôn ngữ, Nguyễn Thị Thủy - Nguyễn Hoài Nguyên). Ngoải các cặp nhân vật đó, trong hát ví còn có cả hình ảnh của những thầy gà (thầy bày) xuất thân từ tầng lớp nho sĩ hiếm thấy trong dân ca các vùng khác. Chẳng hạn, trong hát ví phường vải, người ta đã ghi lại được lời ca đối đáp: Nghe tin anh học có tài/ Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa chàng? (bên nữ hỏi). Thầy Mạnh cụ Mạnh sinh ra/Đ… mẹ con hát tổ cha thằng bày (bên nam đáp). Nếu trong dân ca quan họ, khi so sánh, ví von, người ta thường dùng các hình ảnh như cây trúc, cành hoa, con bướm, con nhện, chiếc khăn, vạt áo, con thuyền, bến nước… thì trong ví, giặm, các hình ảnh phổ biến là dé lúa, nhành khoai, đĩa gừng, chén muối, vại nhút, lon cà; nhiều nhất vẫn là núi Hồng - sông Lam (kể cả sông La). Xin đơn cử một câu hát ví sưu tầm được ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An: Thương ai rồi lại nhớ ai/ Mặt buồn rười rượi như khoai mới trồng. Phải chăng cuộc sống “sớm khoai, trưa khoai, tối khoai”, “bán mặt cho đất, bán lưng chơ trời” của người dân ở vùng quê nghèo, ít được thiên nhiên ưu đãi đã góp phần sản sinh ra những câu ca trong hát ví rất đậm chất Nghệ đó? Từ các biểu tượng được hình thành phổ biến trong dân ca các vùng, miền ở nước ta, tạo nên sắc thái riêng về giá trị văn hóa mà có người đã cho rằng: Nếu dân ca quan họ Bắc Ninh ngọt ngào, đằm thắm; dân ca xứ Huế man mác nhớ thương thì dân ca xứ Nghệ với hai đặc sản là ví và giặm lại sâu nặng nghĩa tình, chẳng khác gì gừng cay, muối mặn.

3. Về sức lan tỏa của dân ca ví, giặm, phải chăng chúng “chỉ lưu hành quanh quẩn ở vùng Nghệ - Tĩnh mà không đi đâu xa?” [2; 3]. Ông Hoàng Vinh cũng có ý kiến tương tự khi tìm hiểu không gian diễn xướng của thể hát này: “Hát giặm có cuộc sống độc lập nghĩa là có phát sinh, phát triển,  lưu hành và thu hẹp” [10; 27]. Qua kết quả điều tra sưu tầm trong một số lần điền dã của đồng nghiệp và bản thân, chúng tôi nhận thấy: Dân ca ví, giặm có khả năng vươn xa, vượt ra ngoài phạm vi xứ Nghệ. Ở phía Bắc, tại một số xã như Hải Thanh, Hải Thương… thuộc huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), đoàn điền dã của sinh viên khoa Văn trường ĐHSP Vinh vào năm 1981, 1982 do thầy Vũ Tam Giáp hướng dẫn đã tìm thấy 12 bài hát giặm và một bài hát ví đò đưa được lưu hành mặc dù ở vùng này có thể hát khúc cũng na ná như hát giặm. Bài hát ví đò đưa có sự thay đổi chút ít ở phần lời câu cuối theo kiểu “bình cũ rượu mới”. Bài đó như sau: Muối ba năm muối đang còn mặn/ Gừng chín tháng cay hãy còn cay/ Đôi chúng ta tình nặng nghĩa dày/ Nhưng vì dân công anh đào ngũ nên từ nay em dứt tình. Từ kết quả điều tra, sưu tầm, ông Vũ Tam Giáp khẳng định: “Rõ ràng không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của dân ca Nghệ - Tĩnh ra vùng đất ở địa đầu tỉnh Thanh này” [9; 94]. Ở Kẻ Cờn (nay là xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu) nơi giáp ranh với xứ Thanh, đoàn điền dã của sinh viên do tôi hướng dẫn chỉ tìm thấy duy nhất một bài hát khúc Tĩnh Gia có tiêu đề Nói về người con gái đi lấy chồng xa được lưu hành; còn lại toàn là những bài hát ví, hát giặm mang đặc trưng hai thể hát này của xứ Nghệ như các bài: Mẹ dònglệch gối nghiêng chăn, Vè đi khơi, Công giáo đi Nam, Trọng nam khinh nữ… Người dân ở đây cho biết: đại bộ phận những người hát ví phường vải ở Kẻ Cờn đều từ làng Quỳnh Đôi (quê bà Hồ Xuân Hương) ra đây định cư sinh sống. Họ mang theo cả lối hát ví của một làng có nghề quay xa dệt vải rồi lại sáng tác những bài hát mới có phần lời như sau: Trai bay đi dạ cho hư/ Mòn quần rách áo không dư đồng nào. Gái choa đi chợ cồn cao/ Mặc yếm hoa đào đôi dải đọt dong… (xin xem bài Về công tác điều tra, sưu tầm văn học dân gian tại một điểm phía Nam khe Nước Lạnh, Hoàng Minh Đạo [9]). Ở phía Nam xứ Nghệ, bên kia Đèo Ngang, đoàn điền dã do thầy Nguyễn Xuân Đức hướng dẫn đã sưu tầm được 36 bài hát giặm tại một số làng ở huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Trong số đó có khoảng 30 bài do người dân ở vùng này sáng tác,chưa thấy có trong cuốnHát giặm Nghệ - Tĩnh của Nguyễn Đổng Chi. Như vậy, thể hát giặm đã vượt Đèo Ngang tiến sâu vào vùng trong và cùng sống với dân ca Bình - Trị - Thiên (xin xem bài Một vài suy nghĩ bước đầu về đường ranh giới phía Nam của vùng văn nghệ dân gian Nghệ Tĩnh, Nguyễn Xuân Đức [9]). Đặc biệt, hát ví, giặm còn được lưu hành, phổ biến đến tận thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Trong bài Bước đầu tìm hiểu văn học dân gian ấp Nghệ Tĩnh - một ốc đảo văn học dân gianở Đà Lạt, tác giả Nguyễn Thị Thiên Thu cho biết: Khi đến gặp bà Hoàng Thị Lục (vốn gốc ở huyện Thanh Chương, Nghệ An) để ghi chép văn học dân gian thì bà hát một câu ví: Chuyện bà bà để trong oi (trong giỏ)/ Khi mô muốn hát bà xoi dần dần. Tại ấp này (do ông Phạm Khắc Hòe tạo lập năm 1941), “Chúng tôi ghi chép được nhiều câu hát cũ của vùng Nghệ - Tĩnh; đủ các thể loại hò, vè, truyện dân gian, đặc biệt là dân ca ví, giặm… Những người hát ví, giặm ở đây chủ yếu là các bà mẹ (hát trong sinh hoạt, ru con, nấu nướng, giã gạo, làm rẫy…)” [9; 62, 63]. Giải thích sự lan tỏa, lưu truyền của dân ca xứ Nghệ nói chung, ví, giặm nói riêng, trong các bài đã dẫn, các tác giả đều thống nhất cho rằng: Đó là do sức sống mãnh liệt của văn nghệ dân gian xứ Nghệ, là kết quả của quá trình dịch chuyển địa bàn cư trú của người dân ở vùng này và có những nét tương đồng về văn hóa giữa các vùng phụ cận với Nghệ - Tĩnh. Nơi nào có người Nghệ sinh sống thì nơi ấy có thể còn lưu giữ dân ca ví, giặm. Ngoài những nguyên nhân đó, theo chúng tôi thì hai thể hát này có khả năng hội nhập với dân ca ở các vùng miền khác mà vẫn không bị hòa tan bởi chúng có bản sắc và có thể tiếp biến để thích ứng với môi trường mới.

4. Tóm lại, trong dòng chảy của dân ca Việt Nam, hát ví, giặm xứ Nghệ vẫn ánh lên sắc màu riêng của chúng. Đó là vẻ đẹp của một “thứ vàng còn nguyên chất, chưa được chế biến nhiều” (Hoàng Tiến Tựu), có tính cổ xưa, mộc mạc, dung dị. Hai thể ví, giặm kết tinh trong đó những truyền thống đáng quý của con người xứ Nghệ như cần cù, chịu khó, dám vượt lên chính mình, tiết kiệm, coi trọng nội dung hơn hình thức, sống có nghĩa có tình như gừng cay muối mặn. Hát ví và hát giặm có sự gắn bó mật thiết với đời sống sản xuất, với phong tục tập quán, bộc lộ qua hình thức diễn xướng và nghệ thuật ca từ một hệ thống biểu tượng đậm chất Nghệ.

Là những đặc sản của vùng văn hóa Nghệ - Tĩnh, hai thể ví, giặm “vẫn sống dai dẳng” (Nguyễn Đổng Chi), có sức lan tỏa, vươn xa và có khả năng tiếp biến để thích ứng với những điều kiện tự nhiên và xã hội trong môi trường mới. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, trong cuộc sống đầy biến động, dân ca ví, giặm cần được bảo tồn và phát huy mọi giá trị, xứng đáng là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại./.

Tài liệu tham khảo

  1. Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ Tĩnh, Nxb Văn hóa.
  2. Nguyễn Đổng Chi (1961), Hát giặm Nghệ Tĩnh, quyển thượng và quyển hạ, Nxb Văn hóa tái bản.
  3. Ninh Viết Giao (2002), Hát phường vải, Nxb Văn hóa - Thông tin.
  4. Hoàng Xuân Hãn (1943), “Nguồn gốc văn Kiều”, Báo Thanh Nghị, số 29, 30, 31, tháng 2 (In lại trong Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, Trịnh Bá Dĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (tuyển chọn, giới thiệu), Nxb Giáo dục, 1998).
  5. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2000), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, tái bản lần thứ tư.
  6. Đỗ Thị Kim Liên (2011), “Hát giặm Nghệ Tĩnh - một thể hát dân ca đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Khoa học xã hội & Nhân văn Nghệ An, số 3, tháng 6.
  7. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
  8. Nguyễn Thị Thủy, Nguyễn Hoài Nguyên (2014), “Vẻ đẹp ví, giặm Nghệ Tĩnh từ góc nhìn ngôn ngữ”, Tạp chí Khoa học xã hội & Nhân văn Nghệ An, số 1, 2 tháng 1, 2.
  9. Nhiều tác giả (1985), “Kỷ yếu Hội thảo khoa học Về văn học dân gian miền Trung” tập I và II, Trường ĐHSP Vinh ấn hành.
  10. Nhiều tác giả (2011), “Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị dân ca hò - ví - giặm xứ Nghệ”, Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Nghệ An, Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Hà Tĩnh, Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An ấn hành.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578055

Hôm nay

2225

Hôm qua

2361

Tuần này

21254

Tháng này

225112

Tháng qua

130677

Tất cả

114578055