Những góc nhìn Văn hoá

Chuyện chẻ chữ Hán, cơ và nguy

Việc học được chữ Hán giúp ta rõ ra được thật nhiều những gốc rễ của các chữ Hán-Việt đang được sử dụng và tái sử dụng ở xứ Việt. Ngoài ra để giúp tra cứu phần văn bản nguyên gốc chữ Hán của các tác giả Việt xưa đối với những ai muốn đi chuyên sâu. Mọi việc học đều là cái « cơ », đều xứng đáng được cổ vũ.

Nhưng ngoài việc cổ súy sự học này một cách chung chung, cũng nên ý thức đến những mối nguy tiềm ẩn, do các tập tục vô thức.

Cần ghi nhớ một điều rằng tất cả các chữ viết của các tộc người trên thế giới ban đầu đều là chữ tượng hình cả, giống như trường hợp chữ Hán. Chưa có cách gì khác, thì hình vẽ là việc đầu tiên để ghi chép. Và sự ra đời của hệ thống chữ cái là một bước nhảy vọt mà mãi sau này mới có, điều này đòi hỏi một tư duy trừu tượng rất phát triển, để tiến đến xây dựng được một hệ thống lý thuyết cho phép tạo ra được một hệ thống hữu hạn các kí hiệu cùng các qui tắc ghi âm, để rồi từ đó ghi được tự do « vô hạn » các âm thanh của các từ ngữ của một ngôn ngữ nói, cùng với việc dựng được các câu có ngắt, nghỉ… 

Chữ tượng hình, ở một khía cạnh nhất định, là chữ “chết”, vì nó đã vẽ khắc luôn cả cái nghĩa cố định theo quan niệm của người vẽ chữ vào hình chữ. Dụ như vẽ khắc cái « mái lợp » (宀« miên" ) che phía trên « con lợn » (豕« thỉ ») để thành ra chữ « nhà » (家« gia »).

Người đầu tiên vẽ « mái lợp che con lợn » thực ra chẳng có tội tình gì, mà cũng chẳng uyên bác gì. Ưu điểm là hình vẽ này gần gụi, và ngộ nghĩnh. Nếu không vẽ « mái lợp che con lợn », thì có thể đã có người khác vẽ « con bò đội nón », v.v... cũng thú vị chứ. Những hình vẽ đó cho ta biết một quan niệm của một thời, thường là rất cổ xưa, của những người đã vẽ ra những chữ đó, và rồi được cộng đồng Trung Hoa lưu dụng. Có những hình vẽ cực kì đơn giản, 一«nhất », 二« nhị »... với một gạch ngang, hai gạch ngang... Xin đừng bịa quẻ này quẻ nọ ra ở đây. Có những hình vẽ có quan niệm tưởng tượng khá xa hơn, ⺩« vương », gạch dọc nối ba cái gạch ngang, sau này được người ta coi như là tượng trưng cho « kẻ nối trời đất người ». Nhưng cũng có những hình vẽ thì cũng chỉ « có thế mà thôi », như chữ « mái lợp » (宀« miên ») chẳng hạn, chẳng có gì để mà thần bí hoá.

Câu chuyện muốn nói hôm nay, là ở chỗ khác! 

Ở chỗ rất nhiều người xứ Đông thờ đê mê những hình vẽ xưa đó của chữ Hán! Họ coi những hình vẽ ấy là linh thiêng, là thần bí, là mặc khải, là trời cho, là rằng xưa thì phải hơn nay, là rằng ý tưởng xưa thì phải là chân lý vĩnh cửu. Nhiều thày đồ chẻ chữ Hán xong thì coi như là mình đã nắm được « huyền cơ của vũ trụ », tha hồ mà ngông nghênh. Cứ bài hát « mái lợp che con lợn », và không cần phải suy nghĩ tìm tòi gì hơn như thế nữa. 

Trong khi đó, chữ phải là khái niệm, đang vận động trong một hệ thống lý thuyết cũng đang vận động.

Phải xây cái văn hóa cho người ta học cái toàn bộ để cắt nghĩa cái chi tiết, chứ không phải là ngược lại, như lối thày đồ chẻ chữ.

Nhìn một bản nhạc, phải xem khóa gì, giọng gì, tốc độ gì, nhịp gì, bài gồm bao nhiêu khuôn nhịp, quay đi trở lại bao nhiêu lần, các vòng chính trong bài ra sao, tình cảm gì, phần chuyển dòng ( bridge) đặc trưng thế nào... Rồi quyết định chơi tiết tấu gì, chọn giọng âm thế nào (tiếng trong, tiếng khàn đục, độ vang, ưu trầm hay cao, hiệu ứng, độ nén ...) ở đâu, mạnh nhẹ, ngắn dài... mãi cuối cùng thì mới là câu chuyện... chơi cái nốt gì!

Vì cái hình vẽ đã khắc rõ mồn một cái “ý” trong chữ, nhiều người cứ phải vặn vẹo bẻ queo uốn éo suy diễn mỗi khi muốn làm mới hay thay đổi nội dung của chữ. Cả một lối sống lối nghĩ loay hoay uốn éo theo, sợ hãi khi phải thay đổi quá khứ, sợ hãi khi phải đối mặt đường hoàng với cái hôm nay, cái ngày mai. Lại cổ vũ tinh thần hý hoáy chẻ bẻ mỗi chữ ở trong một góc, rồi mang giải ra khắp xung quanh ...

Những chư vị tâm thức nông nổi mà tóm được mấy chữ này thì thường kinh dị lắm, hai hôm sau họ đã trở thành chuyên gia giải Kinh Dịch, gieo quẻ Sấm Chớp, nói trạng như ranh.

Chữ tượng hình không ghi lại được âm mới, là một nhẽ, lại cũng không ghi được các âm nhập từ các ngôn ngữ khác, do không có hệ thống các kí hiệu nguyên âm, phụ âm cùng các qui tắc phát âm (alphabet). Khi phải « dịch », chữ tượng hình đành phải « ghi » theo cách “phiên âm”. Nghĩa là chọn những chữ tượng hình đã có sẵn rồi, mà đọc lên thì âm nghe na ná gần gần... Cần ghi Michel... thì chọn những chữ “Minh Sơn” chẳng hạn, cho xong việc; ghi Chèm (tiếng Việt xưa T’lem, theo Trần Quốc Vượng) thì thành “Từ Liêm”, v.v... Trong các chữ đọc lên na ná âm của một chữ định phiên, thì tuỳ theo « yêu » hay « ghét » mà chọn chữ có « nghĩa hay » hoặc « nghĩa xấu » để mà quyết định.

Người Việt mất dần hết cả các tên gọi riêng của người, của đất đai sông núi, một khi dùng chữ Hán làm chữ hành chính (“danh tự”, “tên chữ”), cũng chỉ vì chữ Hán tượng hình không ghi lại được các âm mới, mà chỉ biết “phiên”, hoặc đổi bịa luôn. Chữ Nôm khi xưa thì vừa chưa phát triển đủ, mà cũng lép vế, không đủ oai phong.

Và rồi người ta khinh luôn cả chữ Việt, vì không đủ oai! Nói « hội đồng hương » thì oai hơn là « đám cùng làng », nói chép « chuyện nhà » thì không oai bằng chép « gia phả », đám cưới thì phải treo bằng được chữ « song hỉ » thật lớn ở chính giữa gian...

Cả một lịch sử dân tộc bị nhạt nhoà theo đi...

Chữ tượng hình đẻ ra nạn dịch bịa. Khi gặp chữ economy của xứ Đoài, phu sĩ Nhật bí quá, không biết phiên thế nào, nhưng cảm thấy là chữ này là « rất quan trọng ». Họ bèn lấy chữ “kinh bang tế thế“, “trị nước cứu đời”, chữ vô cùng quan trọng, để « dịch », rồi gọi tắt là « kinh tế ». Bây giờ ta có « chữ Việt » [với rất nhiều từ Hán - Việt], nếu buộc phải dùng chữ mới “blog” thì ta viết blog, và định nghĩa nó, có vậy thôi. Hơn nữa, cùng với sự tiến triển của khoa học và công nghệ, nội dung của khái niệm “blog” sẽ ngày càng phong phú hơn lên. Ta không bị bó buộc phải vẽ cái bàn phím ở bên trái, con chuột ở bên phải, màn hình ở phía trên, rồi thêm chữ “nhân” ở phía dưới ;-) để trói tư tưởng của chính mình và của con cháu mình lại, để năm ngàn năm sau con cháu mình lại phải chẻ hình vẽ ra, rồi thì một số bậc siêu nhân sẽ tranh thủ giải bằng thích được rằng hồi ấy con chuột là biểu tượng của trí khôn, vật dương, bàn phím là biểu tượng của khéo tay, vật âm, v.v...

Phải giục giã dân tộc chúng ta phát triển vượt ra ngoài cái khuôn Thần quyền Khổng giáo Á Đông đã cắm rễ rất sâu vào đời sống mỗi người, đến mức vô thức. Điều này là sống còn cho người Việt đất Việt. Chúng ta đã có ngàn năm thử thách và chay sống với cái khuôn Thần quyền Khổng giáo này rồi, thừa biết sự chật hẹp vừa tối tăm vừa cứng đơ vừa nổ sấm vừa lặt vặt của nó rồi, chúng ta phải lớn lên để đi ra, đi ra để lớn lên.

Học được chữ Hán, như bất kì ngôn ngữ nào, đều là một cơ hội tốt.

Nhưng hiểu cơ, thì cũng phải lường ra cái nguy ở ngay bên trong, thực ra là ở ngay bên trong chính mỗi chúng ta.

Nhiều người xứ Đông cố treo hoành phi chữ Hán giữa nhà mà không cần hiểu là cái gì viết ở trong đó. Dẫu có viết được câu ấy ra chữ Việt, thì cũng cho như vậy là không đáng viết, vì chữ Việt không phải là chữ của thánh hiền! Mà giả dụ đến ngày nào đó có viết hoành phi bằng chữ Hán-Việt, thì cũng dễ không quan tâm đến việc hiểu chúng, vì vốn quen lo thờ chữ, không lo hiểu nghĩa. Xem người người ra chợ chữ ngày Tết mua bán chữ Hán thì biết, nhiều thày chữ viết sai chữ, mà vẫn bán hình vẽ sai chữ chạy như tôm tươi.

Hơn trăm năm nay người Việt dùng chữ Latin, nào ai bắt thờ, và nào ai muốn thờ « thần chữ Latin »?

Hãy học chữ Hán, nhưng với tâm thế như người xứ Đoài học chữ Hán : để giải trí, để mở mang, để giao tiếp, nhưng không để làm phục cổ cái tinh thần nô lệ “bán tự vi sư”. « Nửa chữ, cũng là nhờ có thày », à mà có thể như thế lắm, vì có khi học mãi mà mới vẽ được chữ 宀« miên », hoặc vẽ nên chữ 豕« thỉ », mà vẫn không vẽ xong được chữ « gia » 家.

Với việc học, tự do là người thày đầu tiên, rộng lượng, chân thành, cuối cùng.

Bản tác giả gửi VHNA.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578235

Hôm nay

253

Hôm qua

2352

Tuần này

21434

Tháng này

225292

Tháng qua

130677

Tất cả

114578235