Những góc nhìn Văn hoá

Bảo tồn nghệ thuật diễn xướng truyền thống trong xã hội đương đại: vai trò của hoạt động đào tạo và truyền nghề [Nghiên cứu trường hợp ca Huế]

1. Đặt vấn đề

1. Vấn đề bảo tồn và lưu truyền các loại hình diễn xướng truyền thống trong bối cảnh đương đại vẫn luôn là bài toán nan giải, trong đó, việc tìm hiểu và đưa ra một giải pháp hợp lý cho hoạt động đào tạo và truyền nghề là đề bài cần thiết và cấp bách. Có một thực tế, bên cạnh hoạt động đào tạo chính quy ở các trường cao đẳng, đại học lâu nay, đã và đang góp phần vào bảo tồn và phát huy nghệ thuật diễn xướng truyền thống nói chung, còn có vai trò quan trọng của các bậc nghệ nhân lão thành tài hoa thông qua các loại hình trao truyền dân gian, giảng dạy không chính quy. Điều này đặt ra yêu cầu nghiên cứu, xem xét các thế mạnh và hạn chế của các phương pháp đào tạo chính quy và truyền nghề dân gian hiện nay, làm cơ sở cho một giải pháp kết hợp giữa 2 loại hình đào tạo. Điều này, một mặt vừa đảm bảo những kiến thức cơ bản về nhạc lý, âm nhạc truyền thống từ trường lớp, mặt khác vừa tạo cơ hội tiếp thu những tinh hoa, kinh nghiệm và kỹ xảo từ lớp nghệ nhân lão thành, cho các lớp kế tục và trao truyền, thực hiện sứ mệnh bảo tồn.

2. Ở miền Trung, ca Huế là một loại hình nghệ thuật diễn xướng mang đặc trưng của địa phương vùng Huế. “Ca Huế là một bộ phận quan trọng của kho tàng nhạc cổ dân tộc và nhiều người cho rằng ca Huế là đỉnh cao của lối diễn xướng đơn lẻ của ca hát truyền thống dân tộc, nó thu nạp tinh hoa của nhạc cung đình, nhạc cửa quyền, tinh hoa của các điệu hò, lý, hát khắp nơi trong đó, nhưng chủ yếu là chất núi Ngự sông Hương biểu hiện trong ca Huế và chính ca Huế đã trở thành một nét đặc trưng văn hoá, đặc trưng tình cảm, tâm lý của con người xứ Huế”[1]. Hiện nay, cũng như bao loại hình văn hóa truyền thống khác, loại hình diễn xướng truyền thống này đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức trong vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị. Trên quan điểm lịch sử, việc hiện nay ca Huế bị công chúng thờ ơ, hay biến chất là điều khó tránh khỏi trong số phận chung của những loại hình diễn xướng truyền thống vốn được hình thành và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ âm nhạc của một thời kỳ. Tuy nhiên, trong dòng chảy chung của xã hội, vẫn có những lối đi riêng, trong rất nhiều sự thờ ơ đó vẫn có những ý kiến tâm huyết, đề xuất giữ gìn, bảo tồn ca Huế nói riêng và các loại hình âm nhạc truyền thống nói chung.

Hiện nay, trong đời sống âm nhạc truyền thống, loại hình nghệ thuật ca Huế đang tồn tại và được trao truyền theo hai tuyến cơ bản: tuyến chính thống trong các trường học và tuyến phi chính thông bởi các nghệ nhân. Ngoài sự độc lập của mỗi tuyến với những tính chất đặc thù riêng, những ưu điểm và hạn chế khác nhau, điều đáng lưu ý chính là sự kết hợp giữa 2 tuyến này. Trong thực tế, sự kết hợp này đã và đang góp phần hiệu quả vào việc lưu giữ và trao truyền loại hình ca Huế trong bối cảnh hiện nay so với những loại hình khác. Đối với diễn xướng dân gian, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh về vai trò của các nghệ nhân. Trong vị trí người nghệ sĩ, họ là nhân tố thực hành biểu diễn, thông qua họ những giá trị truyền thống được nối tiếp, bảo tồn một cách tự thân. Trong vị trí người người thầy, họ giữ vai trò trao truyền những kỹ thuật, kinh nghiệm, kỹ năng đặc biệt, những bí quyết nghề nghiệp cho thế hệ nối tiếp lưu giữ, phát huy. Tuy nhiên, những vai trò này chưa được chú ý phát huy. Vấn đề này càng trở nên báo động khi đa số các nghệ nhân tài hoa, những người lưu giữ và thực hành những tinh hoa, bí kíp, ngón nghề… đã lớn tuổi, khi họ mất đi sẽ kéo theo sự thất truyền, mai một những hiểu biết, kinh nghiệm, kỹ năng, tuyệt kỹ vốn là những giá trị phi vật thể không thể nào tìm kiếm, phục dựng lại được.

3. Nghiên cứu này tiếp cận vấn đề từ góc độ đào tạo và hình thức truyền dạy như một phương thức bảo tồn nghệ thuật diễn xướng truyền thống trong bối cảnh đương đại. Trong quan điểm đề xuất một giải pháp hợp lý cho việc lưu giữ và phát huy nghệ thuật diễn xướng nói chung và dân ca Ví Dặm nói riêng, cần phải có sự đánh giá nhìn nhận đúng phương thức và vai trò của các hoạt động đào tạo chính quy và truyền dạy qua nghệ nhân. Trên cơ sở đánh giá thực trạng đào tạo hiện nay, bài viết sẽ cố gắng chỉ ra được vai trò và thế mạnh của phương pháp kết hợp, trên cả góc độ đào tạo thế hệ nghệ nhân ca Huế mới cũng như góc độ lưu giữ, trao truyền và phát huy các giá trị tiêu biểu của loại hình này. Trong bối cảnh đang đối diện với những thách thức mang tính quy luật chung, đây sẽ là những kinh nghiệm thực tiễn quý báu cho loại hình dân ca Ví Dặm Nghệ Tĩnh đã và đang đứng trước nguy cơ thất truyền và mai một, loay hoay bế tắc tìm kiếm giải pháp bảo tồn.

2. Đào tạo và truyền nghề ca Huế: một cách tiếp cận

* Đặc điểm và vai trò của các hình thức đào tạo

Đối với một số loại hình thuộc văn hoá phi vật thể như diễn xướng truyền thống, trong các giải pháp bảo tồn, vấn đề trao truyền lại cho thế hệ sau luôn được đặt lên hàng đầu, thông qua các hình thức chính quy và không chính quy.

-Hình thức đào tạo chính quy

Hình thức đào tạo này do các trường học đảm nhiệm theo chức năng quy định của Bộ GDĐT và Bộ VHTTDL. Ở Huế hiện có Học viện Âm nhạc Huế[2]và trường Trung học Văn hoá Nghệ thuật Thừa Thiên Huế[3]chịu trách nhiệm đào tạo các ca sĩ, nhạc công, diễn viên cho Thừa Thiên Huế, Quảng Trị và Quảng Bình, với một chương trình đào tạo và quản lý bài bản, chặt chẽ. Vấn đề quản lý học và dạy ở trường, sự tâm huyết của ban lãnh đạo đối với bộ môn là điểm cốt lõi tạo nên sức mạnh của hệ thống đào tạo chính quy. Khi tốt nghiệp, học sinh có một hành trang kiến thức khá đầy đủ, toàn diện và phong phú về tất cả các lĩnh vực[4].

Trong chương trình giảng dạy môn ca Huế (và dân ca) ở trường Trung học VHNT, học sinh được tiếp thu các kiến thức về ca Huế, dân ca và nói lối. Riêng phần ca Huế, học sinh sẽ học hệ thống các điệu thức Bắc (14 bài bản), điệu thức Nam (5 bài bản), các bài bản lưỡng tính (5 bài bản), các điệu lý (11 bài) và các điệu nồi niêu (4 bài). Môn học trang bị cho học sinh những kỹ năng hát các làn điệu ca Huế, dân ca Bình Trị Thiên và nói lối để ứng dụng vào các vai diễn hoặc biểu diễn độc lập trên sân khấu ca kịch Huế. Môn học yêu cầu học sinh hiểu rõ nguồn gốc, xuất xứ các làn điệu; hát chuẩn xác cao độ, nhịp độ, đúng luyến láy, rõ lời; hát có nhạc cảm phù hợp tính chất từng bài bản, làn điệu ca Huế, dân ca Bình Trị Thiên, nói lối; thể hiện thuần thục khi biểu diễn phối hợp với nhạc đệm. Như vậy, ở đây học sinh không phải tuân theo những tiêu chuẩn khắt khe của ca Huế truyền thống, tuy nhiên họ cũng không có điều kiện thể hiện những bài bản lớn, ngoài việc tự học thêm[5].

Đội ngũ giáo viên giảng dạy bộ môn ca Huế và dân ca ở trường khá đông đảo, được đào tạo chính quy từ các trường âm nhạc ở Hà Nội và Huế. Tuy nhiên, trường vẫn có chủ trương mời một số nghệ sĩ, nghệ nhân tham gia giảng dạy. Vấn đề mời các nghệ nhân tham gia thính giảng là nỗ lực đáng ghi nhận của trường, tuy nhiên số lượng còn quá ít cũng như thời lượng lên lớp không đáng kể, vì thế chưa tận dụng hết được tài năng chuyên môn cũng như sự tâm huyết của lớp nghệ nhân lão thành tài hoa.

- Hình thức truyền nghề không chính quy

Hiện nay, hình thức truyền dạy ca Huế không chính quy rất đa dạng, mang tính tự phát của cá nhân hoặc tổ chức và nhu cầu của các tầng lớp đối tượng.

Hình thức truyền dạy ở các “lò” nghệ nhân:

Hầu hết các nghệ nhân ca Huế đều mở lớp dạy ở nhà cho những ai có nhu cầu học. Hình thức truyền nghề này, ngoài việc lĩnh thu kinh nghiệm người học còn được học hỏi những phẩm chất từ người thầy, học thêm được cái hồn, cái chất, cái thần của các nhạc sĩ. Tuy nhiên, không hẳn là nghệ nhân, nghệ sĩ thì dạy hay, cũng như không phải lò luyện nào cũng cho ra những sản phẩm chất lượng. Ngoài sở trường, phương pháp dạy riêng, mỗi nghệ nhân có sự lựa chọn và đánh giá học trò mang tính chủ quan, điều này ít nhiều đã ảnh hưởng đến chất lượng truyền nghề của chính họ. Mặt khác, so với trước đây, các điều kiện để nhận học trò như năng khiếu, khả năng, sự đam mê, tính kiên nhẫn,… hiện không còn được đặt nặng, bởi như thế sẽ khó lòng thu nhận học trò, thậm chí sẽ không có ai theo học, vì rất khó học trò nào có thể đáp ứng. Hơn nữa, từ phía người theo học cũng chỉ đặt yêu cầu đàn ca được, đúng mà không cần ca hay, vì vậy người dạy cũng khó toàn tâm khi người học vì kiếm sống hơn vì đam mê.

Nghệ nhân Minh Mẫn là thế hệ thành danh từ hình thức đào tạo truyền khẩu, hiện nay tuy không còn tham gia biểu diễn và dạy thêm như trước đây bởi tuổi cao sức yếu, tuy nhiên vẫn luôn được mọi người nhắc đến không chỉ bởi giọng ca mà còn sự tâm huyết với việc truyền nghề. Lớp học ca của nghệ nhân Minh Mẫn đào tạo khá đa dạng và linh hoạt: có người theo học từ đầu; có người đã theo học ở trường, đến đây để học thêm kỹ thuật luyến láy, những bài lớn hoặc nhờ bà chỉnh sữa những chỗ sai, hoặc học ca để có thể đàn đúng; mượn băng về nghe và học ca lại. Lớp học đàn của cố nghệ nhân Trần Kích và con trai Trần Thảo cũng không quá coi trọng năng khiếu trong việc thu nạp học trò, mà chỉ yêu cầu họ chăm chỉ tập luyện. Kế tục những ý nguyện của cha mình vừa là người thầy, nghệ sĩ Trần Thảo, một người vừa là giảng viên vừa là nghệ nhân, vừa dạy ở trường và mở “lò” ở nhà, anh tâm sự, “dạy ở nhà mình toàn tâm hơn, bởi chủ động hơn với học trò, nhất là gặp được học trò có năng khiếu và đam mê thực sự, người dạy cũng hứng lắm?”.

Hình thức “cha truyền con nối”:

Hình thức này không phổ biến, nó giới hạn trong các gia đình nghệ nhân có truyền thống nghệ thuật như gia đình nghệ nhân Trần Kích - Trần Thảo, Nguyễn Kế - Nguyễn Đình Vân, Hồ Viết Châu - Hồ Đăng Định, Lữu Hữu Thi - Lữ Hữu Ngọc - Lữ Hữu Minh,… Con, em, cháu vừa là học trò nhưng cũng chính là truyền nhân. So với hình thức khác, truyền nghề theo kiểu cha truyền con nối là có hiệu quả nhất, bởi người dạy sẽ truyền hết tuyệt kỹ cho học trò với tất cả tình cảm và sự chăm chút, lo lắng, tuy nhiên, nó lại hạn chế về mặt số lượng. Hiện nay, rất ít các nghệ nhân chỉ truyền dạy cho một hoặc hai học trò duy nhất, bởi ngoài việc khó đáp ứng những điều kiện khắt khe trong lựa chọn truyền nhân, thế hệ nối tiếp lại không mặn mà với “sứ mệnh truyền nhân”. Vì thế, trừ các trường hợp học trò vừa là con, hầu như các nghệ nhân ca Huế đều không có truyền nhân theo đúng nghĩa: “Truyền nhân là người sống tiếp cuộc sống nghệ thuật của thầy mình”. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến gia đình cố nghệ nhân Trần Kích là một gia đình như thế: đã có 4 đời nối tiếp phát huy truyền thống. Cố nghệ nhân Trần Kích ngoài việc truyền nghề lại cho con, trong sự nghiệp của mình ông đã góp công đào tạo được nhiều nghệ sỹ thành danh[6]. Nghệ sĩ Trần Thảo vừa là con trai đồng thời cũng là người học trò xuất sắc, kế thừa được những tinh hoa âm nhạc mà cha mình truyền lại. Đến nay, ông Thảo cũng tiếp tục truyền lại tuyệt kỹ và nhiệt huyết cho con và cháu mình.

Hình thức truyền dạy tại trung tâm:

Lớp dạy ca Huế của các nghệ nhân tại Trung tâm bảo trợ trẻ em nghèo Thuỷ Xuân là trường hợp duy nhất ở Huế, từ một hảo ý tâm huyết của một cá nhân về lưu giữ và truyền nghề ca Huế. Rất nhiều các thế hệ nghệ sĩ, nghệ nhân ca Huế đã và đang tham gia giảng dạy ở đây. Yêu cầu đặt ra đối với lớp học này là cho các em hiểu biết về loại hình diễn xướng ca Huế. Việc thành tài là tuỳ vào năng khiếu của các em. Ngoài học văn hoá, vào các buổi chiều chủ nhật các em tham gia lớp học ca Huế. Đây là môn học không bắt buộc nên ít em theo học. Trong thời gian đầu dạy cho các em những làn điệu cơ bản, dễ học, em nào có khả năng và yêu thích thì sẽ dạy cao hơn. Nghệ sĩ Thanh Hương tâm niệm rằng “mình tuổi đã cao, giúp các em được gì thì giúp, có bao nhiêu hiểu biết, bao nhiêu kinh nghiệm thì truyền hết cho các em. Với lại dạy để các em biết cách mà hát cho đúng ca Huế. Hơn nữa, tạo được một công việc cho các em sau này để tự giúp bản thân”.

* Những vấn đề đặt ra từ các hình thức đào tạo ca Huế

Trước hết, cần phải thừa nhận rằng, mỗi phương pháp đào tạo và truyền dạy đều có những thế mạnh và hạn chế nhất định. Vấn đề đặt ra ở đây là cần có sự kết hợp trên cơ sở phát huy thế mạnh của hình thức này và khắc phục hạn chế của phương thức kia, để có thể đáp ứng được yêu cầu bảo tồn và phát huy đối với mỗi loại hình văn hóa truyền thống riêng.

Đối với hệ đào tạo chính quy, trên cơ sở khung đào tạo chung theo quy định của Bộ GDĐT và Bộ VHTTDL, có một chương trình đào tạo bài bản, từ thấp đến cao, từ cơ bản đến chuyên sâu. Học viên sẽ nắm được lý luận chung về âm nhạc, thu nhận kiến thức tổng quát và cơ bản về âm nhạc truyền thống: ca, đàn, trống các loại, các làn điệu ca Huế (Nam Ai, Nam Bình…), dân ca Huế (lý, hò, vè). Tuy nhiên, thời lượng học các môn liên quan chiếm hầu hết quỹ thời gian đối với học sinh tốt nghiệp một trường văn hoá nghệ thuật đáng lẽ phải tập trung nhiều hơn vào chuyên môn. Với một khối lượng kiến thức lớn và rộng, không đi sâu vào chuyên môn, sẽ khó tạo ra một thế hệ nghệ sĩ điêu luyện, bởi vì, mặc dù rất muốn nhưng đội ngũ giáo viên có rất ít thời gian và sự tập trung luyện ngón nghề (kỹ thuật luyến láy, nhấn nhá). Thực tế học sinh chỉ có thể ca được “nhịp nội” (vừa ca vừa nhịp) hơn so với “nhịp ngoại” (ca xong mới nhịp). Do vậy, hệ đào tạo chính quy thường tạo ra một thế hệ có chất lượng ngang bằng, không có chênh lệch lớn, tạo nên sự vượt trội, rất ít người trong số họ sẽ nổi danh, nếu không tự đào tạo, học hỏi thêm sau khi ra trường.

Đối với các hình thức truyền nghề không chính quy, một trong những ưu điểm lớn nhất là học trò sẽ nhận được những kiến thức trực tiếp từ nghệ nhân; mặt khác từ sự cảm mến và tự hào họ sẽ trao truyền hết những tuyệt kỹ một cách kỹ lưỡng, nhiều khi không có trong giáo trình. Đặc biệt với ca Huế, một loại hình kén chọn và hạn chế về không gian, thời gian cũng như đối tượng sáng tác, biểu diễn, có những tác phẩm được đưa lên tuyệt đỉnh nhiều khi là từ kinh nghiệm và cảm hứng mà không theo một bài bản nào, mà chỉ có qua trao truyền trực tiếp mới cảm thụ hết được. Tuy nhiên, truyền thụ theo hình thức này, các nghệ nhân thường thiếu một phương pháp bài bản, mà hầu như chỉ dựa trên kinh nghiệm, theo cách riêng của mình trong tuyển chọn và đánh giá chất lượng học trò.   

Thưa hai, vấn đề của những người theo học, là những người kế tục và phát huy ca Huế. Đa số giáo viên, nghệ nhân đều cho rằng, các em thiếu một bản lĩnh nghề nghiệp, thiếu kiên nhẫn theo học đến cùng, và không chăm chỉ luyện tập,... Đây là những khó khăn lớn nhất đối với những người thầy - nghệ nhân đang phải đối diện. Lâu nay chúng ta đã được báo động về thực trạng giới trẻ ngày càng xa rời các loại hình âm nhạc truyền thống. Điều này càng rõ ở loại hình ca Huế, họ không biết, không hiểu và vì thế không cảm nhận được những giá trị của nó, từ đó không đam mê. Chính vì thế, động lực theo học của họ không giống nhau: học vì yêu thích, học để có nghề, học để nổi tiếng, để kiếm sống,… Vì học trò chỉ cần những bài bản nhỏ, dễ thuộc, nhanh biết để đi “ca Huế trên sông Hương”, nên các nghệ nhân “không được” dạy những bài bản lớn, và như vậy nguy cơ thất truyền kỹ thuật ca, đàn các bài bản lớn, bài bản cổ chỉ còn là thời gian. Một điều nữa ở các nghệ sĩ trẻ là họ nhanh chóng tự thoả mãn về bản thân, là một tâm lý đang rất phổ biến đáng cảnh báo. Tuy nhiên, giá trị và chiều sâu văn hoá của một loại hình nghệ thuật không thể chỉ đánh giá trên mặt số lượng. Bởi thế, dù đã mở “lò” dạy lâu năm, cho đủ đối tượng, với nhiều mục đích, nhưng trong sâu thẳm, các nghệ nhân vẫn mong gặp được một truyền nhân để có thể trao truyền hết ca kỹ, ngón nghề của mình.

3. Hình thức đào tạo, truyền nghề là một giải pháp chiến lược cho mục tiêu bảo tồn nghệ thuật diễn xướng truyền thống trong bối cảnh hiện nay

* Thế hệ nghệ sĩ trẻ với vấn đề bảo tồn, phát huy ca Huế

Trước hết, về quan điểm bảo tồn nhìn từ vấn đề đào tạo và truyền nghề, chúng tôi cho rằng, cần phải có sự phân định rõ mục đích và hình thức, để có giải pháp phù hợp với điều kiện và nhu cầu hiện nay của xã hội.

[1]. Trao truyền bảo tồn: đào tạo nguyên gốc, tôn trọng tính lịch sử; tạo nên một thế hệ nghệ sĩ có ý thức bảo tồn, lưu giữ những giá trị bản sắc.

[2]. Trao truyền thích ứng: đào tạo theo nhu cầu thị hiếu, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của đại công chúng; chấp nhận sự cải biên hay thay đổi.

Sự nhìn nhận, phân định và đánh giá lại sự tồn tại và tính hiệu quả của các loại hình đào tạo và truyền nghề hiện có, đặt nó trong vai trò là một trong những giải pháp quan trọng và sinh động vừa bảo tồn vừa phát huy những giá trị của nghệ thuật diễn xướng truyền thống. Do đó, sẽ là chủ quan nếu phủ nhận hay đề cao hình thức đào tạo chính quy hay không chính quy, bởi mỗi phương pháp đều có một lợi thế riêng trong sự bổ trợ qua lại các ưu và khuyết điểm.

Trên cơ sở kết hợp giữa loại hình đào tạo, truyền nghề chính quy và không chính quy, chúng tôi cho rằng đây giải pháp tối ưu, một mặt vừa đảm bảo cho thế hệ truyền nhân những kiến thức cơ bản về nhạc lý, âm nhạc truyền thống từ trường lớp, mặt khác vừa có thể tiếp thu những kinh nghiệm và kỹ xảo từ lớp nghệ nhân lão thành. Giải pháp kết hợp hai loại hình đào tạo này là phù hợp và sẽ mang lại hiệu quả, bởi ngoài những lợi thế do sự hỗ trợ và hậu thuẫn từ phía nhà nước của hệ đào tạo chính quy, mỗi nghệ sĩ trẻ sẽ trực tiếp thu nhận tinh hoa, tuyệt kỹ từ các các nghệ nhân. Đây là điều kiện cần và đủ để có thể tạo nên những cá nhân xuất sắc, tài hoa với những dấu ấn riêng trên bước đường nghệ thuật của mình.

Trở lại với việc đào tạo và truyền nghề ca Huế hiện nay, mỗi nghệ nhân như ông Trần Thảo, bà Kim Vàng, Thanh Tâm,… luôn có sự hoà trộn, kết hợp giữa vai trò nghệ nhân vàgiáo viên. Trong vai trò vừa tham gia giảng dạy ở trường vừa mở lớp dạy thêm ở nhà, ông Trần Thảo đã có một phương pháp dạy khá phù hợp và bài bản. Ông cho rằng, “sau vài năm học ra trường, sinh viên mới chỉ mới tiếp nhận phần được “xác” mà thôi (những kỹ thuật cơ bản), để có “hồn” trong các lời ca, tiếng đàn, họ phải tìm học thêm nữa ở các nghệ nhân”. Tuy nhiên, không phải khóa đào tạo nào cũng cho ra lò những “sản phẩm” như mong muốn, nhưng những thành công thực tế từ sự kết hợp các hai hình thức đào tạo, đang đi đúng hướng, đang dần tạo cho Huế một thế hệ nghệ sĩ trẻ có tay nghề cao, có ý thức nghề nghiệp. Hiện nay, bên cạnh lớpnghệ nhân tiền bối tài danh, ca Huế đang có sự hiện diện của một dàn nhạc công trẻ tài năng như Trần Diệp, Trung Thành, Nguyễn Hưng, Quốc Khánh, Đình Hưng, Thùy Dương… và lớp nghệ sĩ trẻ như Thu Hằng, Ý Nhi, Thiên Phúc, Ý Linh, Mỹ Duyên, Thảo Hạnh, Ngọc Nhẫn, Kim Châm, Khánh Châm… là “sản phẩm” được đào tạo bài bản từ trường lớp kết hợp với các “lò luyện” của các nghệ nhân[7].

* Vấn đề bảo tồn dân ca Ví Dặm nhìn từ thực trạng đào tạo, truyền nghề

Ví dặm là một thể loại hình diễn xướng dân gian độc đáo với giai điệu trữ tình, đằm thắm, sâu lắng, trở thành một nét văn hóa đặc trưng, làm nên biểu tượng của vùng đất “núi Hồng sông Lam”. Trong quá trình hình thành và tồn tại, loại hình này trải qua nhiều bước thăng trầm, và hiện nay lại đang đứng trước những khó khăn và thách thức trong vấn đề bảo tồn, lưu giữ và phát huy các giá trị truyền thống tiêu biểu. Đó không chỉ là vấn đề mai một, thất truyền làn điệu, câu hát cổ, sự biến mất của môi trường diễn xướng nguyên bản, biến dạng về không gian sinh thái lẫn hoàn cảnh lao động và sinh hoạt tại các làng quê,… mà còn là sự quay lưng của công chúng trẻ, sự khó khăn trong tìm kiếm và đào tạo thế hệ kế tục.

Đối với loại hình diễn xướng truyền thống nói chung và dân ca Ví Dặm nói riêng, môi trường thực hành và duy trì hoạt động là vấn đề quan trọng. Hiện nay, với hơn 50 câu lạc bộ đàn và hát dân ca[8], có khoảng 2.000 thành viên tham gia sinh hoạt, có thể nói đây là môi trường để nuôi dưỡng và bảo tồn loại hình nghệ thuật này[9]. Tuy nhiên, những khó khăn về kinh phí hoạt động, thiếu thốn đạo cụ và trang phục phù hợp, nơi tập luyện và biểu diễn,… đã hạn chế vai trò duy trì và thực hành dân ca Ví Dặm của những câu lạc bộ này. Hát ví dặm không có những mùa - lễ hội riêng mà gắn với gắn với khung cảnh lao động, sinh hoạt thực tế. Hơn nữa, Ví Dặm là một thể loại dân ca được cấu thành bởi ba yếu tố lời ca, âm nhạc, phương thức diễn xướng. Trong đó, lời ca và phương thức diễn xướng ít có khả năng được bảo tồn một cách tự nhiên, nguyên bản như xưa. Chính vì vậy, bài toán bảo tồn vừa phải đối đầu với vấn đề môi trường diễn xướng, vừa có nội dung lời ca phù hợp không gian. Bởi lâu nay, với quá trình “sân khấu hóa” hay “kịch hóa” đã và đang góp phần vào thực hành và duy trì dân ca Ví Dặm, nhưng không còn là không gian diễn xướng mang tính cộng đồng như trước đây.

Trước thực trạng dân ca Ví Dặm đang dần mai một trong đời sống cộng đồng, địa phương hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đó có nhiều nỗ lực bảo tồn, nhiều giải pháp thực hiện đáng ghi nhận và mang lại những hiệu quả nhất định: thành lập Trung tâm Bảo tồn và Phát huy Di sản dân ca xứ Nghệ[10], Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Hà Tĩnh[11]; đưa dạy hát dân ca vào trường học[12], dạy hát dân ca trên sóng phát thanh truyền hình, đến từng thôn bản để tìm người tiếp nối; tổ chức hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy các giá trị dân ca, hò, ví, dặm xứ Nghệ”; tổ chức Liên hoan dân ca Ví Dặm lần thứ I và II,… 

Tiếp cận vấn đề bảo tồn từ góc độ đào tạo và truyền nghề, chúng tôi nhận thấy thực trạng cấp thiết nhất đối với dân ca Ví Dặm là các nghệ nhân lưu giữ các làn điệu gốc đã qua đời hoặc đã già yếu, nếu không nhanh chóng có những hình thức trao truyền, đào tạo, truyền nghề, chúng ta sẽ mất đi nhiều hơn nữa vốn di sản quý giá và khả năng phục hồi.

Hiện nay, Ví Dặm được truyền dạy chủ yếu qua các hình thức như: Học từ chương trình dạy dân ca trên đài truyền thanh của xã/phường; Học từ cách dạy trực tiếp truyền khẩu của bố mẹ hoặc người trong làng); Học trong chương trình ngoại khóa ở nhà trường. Trong đó, việc dạy dân ca ở trường là chủ yếu, tuy nhiên, cũng nảy sinh nhiều bất cập do phụ thuộc vào ý thức và năng lực chủ quan của giáo viên dạy âm nhạc. Ở một số xã phường đã chủ động tạo mời các nghệ nhân đến dạy dân ca cho học sinh các lớp mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Đây là một cách thức trao truyền dân ca Ví Dặm đáng quan tâm, nhất là việc mời các nghệ nhân truyền dạy. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là trong thời gian tới, các nghệ nhân sẽ truyền dạy thế nào, được bao nhiêu thế hệ? và chúng ta phải làm gì để phát huy hết vai trò và giá trị của họ?

4. Thay lời kết

1. Kinh nghiệm từ thực trạng bảo tồn Ca Huế, hay Quan họ, Ca trù,… vẫn là những giải pháp mang tính tham khảo, bởi mỗi loại hình có một lịch sử hình thành và môi trường tồn tại đặc thù. Một giải pháp chung khó lòng giải quyết được những thực trạng riêng, cũng như một mình ngành văn hóa khó lòng đảm trách được sứ mệnh này.

2. Xem xét vấn đề từ góc độ đào tạo và truyền nghề, đề cao vai trò của hoạt động đào tạo và truyền nghề, chúng tôi cho đó là một giải pháp mang tính chiến lược không chỉ cho Ca Huế hay dân ca Ví Dặm mà cả đối với các loại hình âm nhạc truyền thống khác, đang chịu chung số phận và phải đương đầu với nhiều khó khăn thách thức, ngoài những giải pháp bảo tồn và phát huy khác. Bảo tồn nguyên dạng hay bảo tồn thức ứng, coi trọng môi trường diễn xướng hay vai trò của cộng đồng,… thì vấn đề mấu chốt sẽ vẫn là công tác đào tạo và truyền dạy, trong định hướng tạo nên một đội ngũ kế tục, thế hệ truyền nhân.

3. Trong hệ thống âm nhạc cổ truyền Việt Nam nói chung, phương pháp truyền khẩu rất phổ biến trong việc truyền lại ngón nghề, tuyệt kỹ cho các thế hệ nối tiếp mà không qua hệ thống văn bản trung gian như một số nền âm nhạc trên thế giới. Vì thế, truyền khẩu trở thành một trong những phương pháp bảo tồn sinh động và hiệu quả tất cả các giá trị tinh hoa, tinh tế và phức tạp của loại hình diễn xướng dân gian nói riêng và các loại hình thuộc văn hoá phi vật thể nói chung. Điều này cho thấy sẽ rất nguy cập nếu chúng ta không có giải pháp bảo tồn, các giá trị đó sẽ vĩnh viễn ra đi khi nghệ nhân qua đời. Từ đặc điểm và thực trạng bảo tồn đối với những loại hình diễn xướng đặc thù như ca Huế, dân ca Ví Dặm truyền nghề theo dạng truyền khẩu, do vậy, nên có chính sách hỗ trợ cho các hình thức truyền dạy “phi chính quy” là các “lò” dạy tư nhân, các câu lạc bộ, bằng các chủ trương ưu đãi, chính sách hỗ trợ vật chất, chính sách xã hội hóa, nhằm phát huy tối đa vai trò của các nghệ nhân tài hoa lão thành./.

 

Tài liệu tham khảo

1. Bùi Quang Thanh (2013), Báo cáo tổng quan về kiểm kê khoa học dân ca Ví Dặm Nghệ Tĩnh. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam.

2.Bùi Trọng Hiền(2003), Vấn đề bảo tồn âm nhạc cổ truyền Việt Nam, Tạp chí VHNT, số 6 (228), trang 61- 66.

3. Hoàng Trọng Cương (2013), Đào tạo lực lượng nghệ sĩ kế cận – yếu tố bền vững trong việc bảo tồn và phát huy Nhã nhạc, Công cuộc bảo tồn Di sản Thế giới ở Thừa Thiên Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản.

4.  Lê Anh Tuấn (2007), Đào tạo và truyền nghề trong ca Huế hiện nay, nhìn từ góc độ bảo tồn. Kỷ yếu Hội thảo Bảo tồn và phát huy di sản ca Huế, 7/2007, Phân viện Nghiên cứu Văn hóa - Thông tin tại Huế.

5.   Lê Hàm, Hoàng Thọ, Thanh Lưu (2000), Âm nhạc dân gian xứ Nghệ. Nxb Nghệ An.

6. Minh Hải (1978), Sáng tác lời ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên. Huế.: Ty VHTT Bình Trị Thiên.

7. guyễn Hữu Thông (2007), “Môi trường và đặc điểm diễn xướng: vấn đề đặt ra trong việc bảo tồn di sản ca nhạc Huế”, trong TTKH, Phân viện NCVHTT, số tháng 3/2007.

8.                       Phan Văn Thảo (2006), “Truyền nghề - phương pháp để bảo tồn nguyên vẹn Nhã nhạc”, trong www.hue.vnn.vn/disandulich, ngày 19/07/2006.

Văn Lang (1993), “Ca Huế và ca kịch Huế”.Huế: Nxb.Thuận Hoá.



 

[1]Minh Hải (1978), Sáng tác lời ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên. Huế.: Ty VHTT Bình Trị Thiên.

[2]Khoa âm nhạc di sản của Học viện Âm Nhạc Huế, chuyên đào tạo những nghệ nhân, nhạc công chuyên nghiệp biểu diễn hai loại hình âm nhạc di sản là Nhã nhạc cung đình Huế và Cồng chiêng Tây Nguyên. Ngoài đội ngũ giảng viên, nhưng Học viện đã có chính sách mời các nghệ nhân tham gia giảng dạy như cố nghệ nhân Trần Kích, Trần Thảo, nghệ sĩ Lệ Hoa, Kim Vàng, Ngọc Hùng, Khánh Vân, nghệ nhân Thanh Tâm, Quang Vinh,…

[3]Trường Trung học VHNT có ngành Âm nhạc Dân tộc, gồm các chuyên ngành Nhạc cụ Dân tộc; Âm nhạc Truyền thống Huế gồm Nhã nhạc - Nhạc lễ Cung đình Huế, Nhạc Ca Huế - Ca kịch Huế, Nhạc Múa hát Cung đình, Nhạc Tuồng Huế,...

[4]Ở trường Trung học VHNT, học chuyên ngành ca kịch (hệ 4 năm), ngoài các môn chuyên môn như ca Huế, dân ca, múa, biểu diễn…, học sinh còn phải học các môn cơ sở (mỹ học, âm nhạc, lịch sử âm nhạc, sân khấu…), văn hoá phổ thông (Toán, Vật lý, Văn, Lịch sử…) và môn chung (chính trị, thể dục, tin học, ngoại ngữ…). (Chương trình khung đào tạo giáo dục bậc trung học chuyên nghiệp, theo Quyết định số 88/2004/QĐ-BVHTT, ngày 01/10/2004).

[5]Trong các hoạt động ngoại khoá như tham gia biểu diễn trên thuyền, hội diễn thì chỉ hát những bài lý, dân ca hoặc đồng diễn.

[6]Ngoài những lứa học trò được đào tạo tại nhà, ông còn tham gia giảng dạy nhạc cụ dân tộc tại Trường Quốc gia Âm nhạc Huế (1963), trường Âm nhạc Huế (1975), giảng dạy cho Ban nhạc cung đình của TTBTDTCĐ Huế (1987) và Học viện âm nhạc Huế,…

[7]Trong thế hệ nghệ sĩ trẻ, NSƯT Thu Hằng là một dẫn chứng sinh động về sự kết hợp đào tạo giữa nhà trường và “lò” nghệ nhân. Chị vốn là sinh viên của trường VHNT Thừa Thiên Huế, ngoài kiến thức tiếp thu ở trường, chị còn học thêm từ thầy Thái Quang Ngạn, Đình Sáng, nghệ sĩ Mộng Điệp, Kim Oanh, Kim Vàng, nghệ sĩ Đình Hạp.

[8]Các câu lạc bộ có thành tích nổi bật như: Câu lạc bộ Thạch Châu, Cẩm Mỹ, Thạch Thanh, Cương Gián (Hà Tĩnh); Hồng Sơn, Ngọc Sơn, Hoàng Trù, Nghi Trung, Phúc Thành (Nghệ An)...

[9]Hiện nay, có 4 loại/cấp độ CLB dân ca Ví Dặm được hình thành: CLB do làng/thôn/xóm/khu dân cư tự lập; CLB do chính quyền xã thành lập; CLB do Phòng VHTT hoặc Trung tâm Văn hóa cấp huyện thành lập; CLB do nghệ nhân tự đứng ra thành lập.

[10]Trung tâm bảo tồn và phát huy di sản dân ca xứ Nghệ được thành lập theo quyết định số 3143/QĐ-UBND ngày 03/7/2009 của UBND tỉnh Nghệ An, có chức năng, nhiệm vụ: sưu tầm, nghiên cứu, phục hồi, lưu giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật dân ca xứ Nghệ; Nghiên cứu, thể nghiệm sân khấu hoá dân ca xứ Nghệ thành một bộ môn kịch hát dân ca; sưu tầm, phục hồi, gìn giữ và phát huy các trò diễn xướng dân gian, dân vũ, các làn điệu dân ca xứ Nghệ; Nghiên cứu, sáng tác, biểu diễn, đào tạo, phổ cập và giới thiệu, quảng bá sâu rộng dân ca xứ Nghệ; Phổ biến, giới thiệu kho tàng dân ca xứ Nghệ cho tầng lớp thanh thiếu niên; Phát triển phong trào sáng tác và biểu diễn dân ca trong lực lượng văn nghệ quần chúng, vào các trung tâm, câu lạc bộ hát dân ca ở cơ sở, để nhằm bảo tồn và phát huy di sản dân ca xứ Nghệ.

[11]Ngày 22/11/2012, Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Hà Tĩnh được thành lập, hoạt động với các loại hình: Sưu tầm, bảo tồn và phát huy dân ca truyền thống; có nhiệm vụ phục dựng, xây dựng các chương trình nghệ thuật sân khấu biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng thời phục hồi, phát huy các trò diễn xướng dân gian, các làn điệu dân ca, hò, vè, ví dặm, ca trù …

[12]Đề án "Thực hiện đưa dân ca vào trường học" giai đoạn 2008 -2015 của Trung tâm Bảo tồn và Phát huy Di sản Dân ca xứ Nghệ đã và đang từng bước dần đưa bộ môn dân ca vào trường học bằng nhiều hình thức.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578262

Hôm nay

280

Hôm qua

2352

Tuần này

21461

Tháng này

225319

Tháng qua

130677

Tất cả

114578262