Những góc nhìn Văn hoá

Quan điểm và giải pháp quản lý lễ hội truyền thống hiện nay

1. Quản lý lễ hội truyền thống và các lý thuyết trong Nhân học về quản lý lễ hội

Quản lý lễ hội là quá trình lập kế hoạch, tổ chức lãnh đạo, bố trí quyền lực, kiểm soát hoạt động lễ hội nhằm đạt được hiệu quả. Quản lý lễ hội thực chất là ‘hàng loạt các công việc như lập kế hoạch, nguồn nhân lực tổ chức tham gia lễ hội, tuyên truyền, Marketing, tìm kiếm nguồn tài trợ, dịch vụ hậu cần an ninh, y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm” (Phạm Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn, 2012, tr.35).

Từ khi đổi mới đến nay, lễ hội dân gian biến đổi mạnh mẽ dưới sự tác động mạnh của cơ chế kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa. Hiện nay, một sự kiện xảy ra ở vùng hẻo lánh thì cả nước, cả thế giới đều biết thông tin. Các góc khuất của tập tục, nghi lễ dù nhỏ bé, dù ở vùng xa xôi cũng được truyền thông phản ánh. Các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội đã tạo ra cơn bão dư luận có cường độ cao, áp lực mạnh cùng với “tâm lý đám đông” dư luận của mạng càng tác động rất lớn đến nhà quản lý, đòi hỏi nhà quản lý phải giải quyết ngay.

Như vậy, các yếu tố của truyền thông, toàn cầu hóa cũng như cơ chế thị trường đã tác động đến lễ hội, đặt ra những đòi hỏi mới về công tác quản lý. Trước khi đưa ra quan điểm, giải pháp đổi mới quản lý lễ hội cần xem xét một số lý thuyết của Nhân học trong quản lý. Trước hết là thuyết tương đối văn hóa với quan điểm đề cao văn hóa ở các dân tộc “khác ta”, phê phán lý thuyết văn hóa trung tâm (lấy thước đo của bản thân nhà nghiên cứu, của dân tộc đa số để đánh giá văn hóa tộc người khác là thấp kém, lạc hậu). Theo lý thuyết này, các nền văn hóa đều bình đẳng, không có quan niệm đúng hoặc giữa các nền văn hóa. Theo đó, trong quản lý lễ hội cần tôn trọng sự khác biệt giữa các nền văn hóa, giữa các tập tục, nghi lễ, không cực đoan áp đặt đúng - sai, phán xét lễ hội còn lạc hậu hay không, cũng không thái quá để bảo vệ những yếu tố hủ tục, không phù hợp với giá trị cuộc sống đương đại. Tính đa dạng văn hóa của các tộc người cần được tôn trọng nhưng cũng luôn đồng hành với tính phổ biến. Khi nghiên cứu, đề xuất biện pháp quản lý lễ hội, cần đặt lễ hội trong môi trường thực tiễn. Đồng thời cần vận dụng lý thuyết về biến đổi văn hóa vào nghiên cứu lễ hội. Cần xác định biến đổi văn hóa là quy luật tất yếu. Vì vậy, lễ hội là một thành tố của văn hóa nên cũng luôn biến đổi. Trong quản lý, cần xem xét lễ hội ở trạng thái “động”, không cực đoan bảo tồn nguyên vẹn mọi yếu tố truyền thống nhưng cũng không can thiệp thô bạo bằng các biện pháp nhằm “cải biên”, “cải tiến” lễ hội.

2. Sự biến đổi của lễ hội truyền thống trong vài thập kỷ qua

Kinh tếthị trường với nhiều bất ổn do cạnh tranh khốc liệt, các doanh nghiệp cảm thấy bất an. Người dân sống trong cơn lốc của sự bất định, luôn xuất hiện các vòng xoáy, các điều bất trắc (trong đời sống kinh tế và trong đời sống tinh thần. Các tai nạn, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, tai nạn giao thông xảy ra thường xuyên, mỗi năm có 8.000 - 9.000 người chết, hàng vạn người bị thương tật suốt đời...). Toàn bộ những sự bất trắc đó, cộng với sự xáo trộn về địa vị xã hội làm cho mọi người đều có tâm lý bất an. Người dân đến với các lễ hội để trông chờ vào lực lượng thần linh bảo vệ, cầu an. Mặt khác, khi đời sống có phần dư giả, người dân có nhu cầu giao tiếp, đi du lịch nhiều hơn và lễ hội phần nào nhu cầu đó. Cũng vì vậy mà lễ hội trở thành hàng hóa, dịch vụ và bị chi phối mạnh mẽ của kinh tế thị trường. Từ đó, nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp:

- Quan điểm coi lễ hội là hàng hóa, là phương tiện kinh doanh một cách thái quá dẫn đến tình trạng các địa phương thi nhau mở lễ hội với quy mô, mật độ tổ chức, và thời gian lễ hội tăng lên nhanh chóng đã đặt ra hàng loạt vấn đề trong quản lý cần phải giải quyết. Đó là vấn đề an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, quản lý đám đông... Những vấn đề này trong xã hội cổ truyền ít xuất hiện, nhưng hiện nay trở thành vấn đề cấp bách, đòi hỏi phải có biện pháp quản lý hiệu quả.

- Quan điểm lễ hội là hàng hóa dẫn đến tình trạng kinh doanh lễ hội, các dịch vụ trở thành phản văn hóa và phản thị trường với vấn nạn “chặt chém”. Dịch vụ nghỉ, ăn, đi lại đến các phí tham quan, giá cả các mặt hàng trong các ngày lễ hội đều tăng vọt. Lễ hội trở thành cơ hội cơ hội làm ăn của một địa phương và tâm lý tổ chức lễ hội hoành tráng theo kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy”, tổ chức không xuất phát từ nhu cầu của công chúng mà chủ yếu nhằm quảng bá trên các phương tiện thông tin.

- Do bất an, do nhu cầu đòi hỏi nhiều về lợi lộc nên người đi dự hội có nhiều hành vi phản văn hóa như chen chúc cướp ấn nhà Trần, tranh cướp các vật thiêng, tranh cướp quả Phết trong hội Phết ở Hiền Quan...

- Về thời gian tổ chức lễ hội, có hai xu hướng biến đổi: Một số lễ hội làng, lễ hội cổ truyền ở miền núi trước thường tổ chức từ 3-5 ngày thì nay chỉ tổ chức trong nửa ngày hoặc kéo dài đến 2-3 ngày, một số lễ hội cổ truyền kéo dài thời gian hơn đến hàng tháng như hội Chùa Hương, hội Bà Chúa Xứ, hội Đền Hùng...

- Không gian lễ hội cũng mở rộng: Trước đây, các hội làng được tổ chức ở phạm vị, quy mô và không gian nhất định trong làng, thì nay, do nhiều yếu tố (quảng bá du lịch, tâm lý muốn vượt trội của các nhà lãnh đạo địa phương...) nên quy mô của các hội làng được mở rộng. Nhiều lễ hội không còn là lễ hội làng mà đang có xu hướng biến thành lễ hội vùng, thậm chí là lễ hội chung của huyện. Đối tượng người đến dự hội không chỉ là dân làng, không chỉ là một dân tộc mà là nhiều dân tộc, có cả du khách nước ngoài tham dự, gây ra sự quá tải về không gian tổ chức lễ hội.

- Chủ thể lễ hội: Trước đây, trong các lễ hội làng cổ truyền, người dân thực sự là chủ thể của lễ hội. Cộng đồng người dân địa phương đều háo hức tập luyện hàng tháng để mong được tham gia gánh vác một việc nào đó, hoặc sắm một vai nào đó trong lễ hội. Người được khiêng kiệu, rước lễ là một vinh dự cho cả phe, giáp, dòng họ. Các hội làng hầu hết do chủ làng và hội đồng quản lý của làng thực hiện. Nhưng hiện nay, hầu hết các lễ hội đều do chính quyền các cấp chỉ đạo. Nhiều lễ hội đồng bằng, ban tổ chức thuê các công ty sự kiện, các đoàn nghệ thuật đứng ra dàn dựng chương trình, đứng ra làm dịch vụ tổ chức. Người dân, chủ thể của lễ hội, bị “gạt ra rìa” và chỉ đóng vai trò thụ động như các du khách.

3. Đề xuất một số giải pháp quản lý lễ hội truyền thống hiện nay

3.1. Về quan điểm

Nhận thức sự biến đổi của lễ hội cổ truyền cũng như xuất hiện nhiều loại hình tổ chức sự kiện mới là một yếu tố khách quan trong đời sống văn hóa hiện nay. Vì thế, không nên có quan điểm cứng nhắc, lấy các nguyên lý tổ chức lễ hội truyền thống làm khuôn mẫu cho việc tổ chức các lễ hội, tổ chức các sự kiện như hiện tại. Ở lĩnh vực này, cần bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn trên cơ sở lý luận về quản lý văn hóa. Trong đó, cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ thể của cộng đồng tổ chức lễ hội. Người dân phải được tham gia vào quá trình tổ chức lễ hội, được trao quyền tổ chức lễ hội. Đồng thời, cũng không coi nhẹ việc quản lý của nhà nước đối với lễ hội.

3.2. Xây dựng các mô hình tổ chức quản lý các lễ hội truyền thống hiệu quả

Hiện nay, có nhiều nhà khoa học cho rằng nên “trả lại lễ hội cho dân”. Nhưng nhiều nhà quản lý lại cho rằng lễ hội phát triển với quy mô lớn, không thể “khoán trắng” cho người dân tự tổ chức. Vậy, cần tổ chức lễ hội như thế nào? Dựa vào ý kiến của một số nhà khoa học (Từ Thị Loan, 2012, tr.9), chúng tôi đề xuất một số mô hình cụ thể như sau:

-  Mô hình quản lý lễ hội do cộng đồng tự quản, có sự giám sát của chính quyền cơ sở

Đây là mô hình quản lý và tổ chức lễ hội bước đầu có sự tham gia của Nhà nước. Chủ thể tổ chức lễ hội phải là người dân trong cộng đồng. Vai trò quản lý của Nhà nước thể hiện ở chỗ: giám sát và chỉ đạo, giải quyết kịp thời những vấn đề về trật tự an ninh, an toàn thực phẩm, giá cả dịch vụ... Mặt khác, vai trò quản lý nhà nước cũng cần được phân cấp dần tới cộng đồng và thể chế hóa bằng hệ thống hương ước, quy ước chung của làng, sử dụng và phát huy vai trò của già làng, trưởng bản hoặc người có uy tín. Nhà nước cũng thường xuyên theo dõi diễn biến của các lễ hội để nắm bắt những thay đổi trong đời sống tín ngưỡng của người dân, đảm bảo trật tự, an ninh xã hội trong thời gian tổ chức lễ hội. Kinh phí tổ chức những lễ hội này hoàn toàn do cộng đồng đóng góp.

Trong xã hội cổ truyền, hình thức tổ chức các ban quản lý lễ hội rất gọn nhẹ. Các ban quản lý này vận hành đơn giản nhưng vẫn đảm bảo được việc tổ chức lễ hội. Bởi lẽ, nhiều lễ hội cổ truyền chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp, trong không gian của làng bản, với sự tham gia của người dân trong vùng. Nhưng hiện nay, các lễ hội làng có xu hướng trở thành lễ hội vùng, liên vùng, người tham gia gồm dân trong vùng và khách thập phương. Quy mô lễ hội mở rộng, số lượng người tham gia đông đảo, trở thành một sức ép đối với địa phương. Vì thế, để đảm bảo an toàn thực phẩm, an ninh trật tự, giá cả hợp lý, vệ sinh môi trường... đều cần sự tham gia của cả bộ máy chính quyền địa phương. Các ban tổ chức lễ hội này phải có kiến thức, phải được tập huấn, phải nắm vững nội dung, yêu cầu của lễ hội. Đồng thời, họ cũng là những người giỏi xử lý tình huống trong việc tổ chức các sự kiện. Hiện nay, các ban tổ chức lễ hội đang lúng túng trong việc tổ chức các dịch vụ đón khách du lịch, quản lý du khách và chính quyền địa phương lại quản lý quá sâu, thậm chí “lấn sân” cộng đồng trong việc tổ chức lễ hội. Nhưng nhiều ban tổ chức xóa bỏ không gian thiêng, coi nhẹ hoặc hạn chế phần nghi lễ, giao cho ban văn hóa trang trí làm sai lệch giá trị tinh thần của lễ hội. Thay việc hành lễ của cộng đồng (mà người đại diện là già làng, trưởng bản, hay thầy cúng) bằng diễn văn khai mạc dài dòng, không đúng mục đích của lễ hội. Chính sự can thiệp quá sâu của chính quyền vừa làm mất đi tính chất thiêng của lễ hội, vừa chịu “bao cấp”, vừa hạn chế tính chủ động của cộng đồng.

-  Mô hình kết hợp vai trò tổ chức của nhà nước và sự phối hợp của cộng đồng

Đối với một số lễ hội của làng, liên làng có quy mô ngày càng mở rộng và đang được nâng lên thành các lễ hội để phục vụ du lịch, cần xây dựng mô hình phối hợp chặt chẽ giữa vai trò tổ chức của cộng đồng với vai trò quản lý của nhà nước.

Trong mô hình này, các hoạt động lễ và hội vẫn do cộng đồng quyết định và thực hiện là chính; tuy nhiên, đã có sự chỉ đạo, định hướng và tham gia của chính quyền nhà nước. Kinh phí tổ chức lễ hội cũng được nhà nước tài trợ một phần. Vai trò của nhà nước thể hiện rõ trong vấn đề đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn thực phẩm, quảng bá, giá cả dịch vụ, điều hành lực lượng… Cụ thể, trước khi tổ chức lễ hội, chính quyền địa phương cần tổ chức họp dân để bàn về việc tổ chức lễ hội, phân công cụ thể công việc cho cộng đồng và các ban, ngành. Chính quyền đóng vai trò tổ chức nhưng việc thực thi lễ nghi và chủ trì lễ hội phải giao lại cho cộng đồng. Trưởng thôn, trưởng bản có trách nhiệm triển khai các hoạt động của lễ hội sau khi đã cùng bàn bạc với chính quyền, với nhân dân và cùng cùng nhân dân trong thôn, bản chuẩn bị các hoạt động phục vụ cho hoạt động của lễ hội.

Hiện nay, trong các lễ hội đầu xuân, vai trò của người dân đang bị mờ nhạt, thay vào đó là Ban tổ chức lễ hội. Do đó, để người dân thực sự trở thành chủ thể, trong mô hình lễ hội này, thành phần ban tổ chức cần có sự tham gia của già làng, nghệ nhân hay người có uy tín trong cộng đồng. Mặt khác, có nhiều hoạt động cần có sự tham gia cả làng, cả bản. Đồng thời, phải để người dân được chủ động tham gia vào lễ hội ngay từ khâu chuẩn bị đến khâu tổ chức. Chính quyền địa phương, cơ quan chuyên môn (phòng Văn hóa - thông tin) thực hiện chức năng quản lý của mình thông qua việc hướng dẫn người dân chuẩn bị và tham gia lễ hội theo đúng quy định của nhà nước và thực hiện các biện pháp đảm bảo trật tự - an ninh xã hội trong thời gian tổ chức lễ hội. Trong tổ chức, quản lý lễ hội cần coi trọng vấn đề phân cấp quản lý. Chính quyền trung ương và địa phương chỉ đạo, phối hợp tổ chức các lễ hội lớn (chủ yếu là giám sát, kiểm tra), còn phân cấp cho các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp cộng đồng tổ chức. Việc tổ chức các lễ hội truyền thống, nhà nước (chính quyền các cấp) chủ yếu đóng vai trò giám sát, kiểm tra. Việc tổ chức cụ thể cần trao quyền cho cộng đồng. Tất nhiên, cần tăng cường kiểm tra, không nhất thiết khoán trắng cho cộng đồng để xảy ra các tình trạng độc quyền dịch vụ và một số tiêu cực khác (Trần Thị Thủy, 2013, tr.537).

Quản lý lễ hội là quản lý lĩnh vực nhạy cảm, đòi hỏi phải có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh và hiệu quả. Nhưng hiện nay, hệ thống văn bản quản lý vi phạm pháp luật về lễ hội còn nhiều bất cập, cần phải sớm được bổ sung, sửa đổi. Trong những năm qua, việc thể chế hóa các văn bản pháp luật của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch còn chậm. Thậm chí, việc quản lý còn mang tính chất chữa cháy. Cơ quan quản lý chưa tìm hiểu kỹ đặc trưng của lễ hội thời hội nhập, nên chưa có những định hướng quản lý hiệu quả, thiếu các chế tài mang tính bền vững. Mỗi khi có vấn đề từ các lễ hội thì Bộ mới bắt đầu họp tìm cách xử lý hay thấy khó quản lý thì cấm đoán (năm 2015 cấm cả lễ hội ăn trâu và tục đâm trâu). Vấn đề quan trọng hàng đầu đối với quản lý nhà nước là phải nghiên cứu được xu hướng biến đổi của lễ hội, dự báo những tình huống phức tạp để từ đó xây dựng các chiến lược quản lý một cách hiệu quả, khoa học, chứ không nhất thiết phải quản lý theo kiểu “giật cục”, chữa cháy nặng về hành chính, nặng về cấm đoán. Vì vậy, trước các diễn biến phức tạp của lễ hội, cần có đội ngũ chuyên gia nghiên cứu thực tiễn, không vội vã ban hành văn bản cấm đoán. Thực tiễn, nhiều vấn đề trong lễ hội mà nhà nước ra lệnh cấm nhưng ở cơ sở không thể cấm được. Quản lý lễ hội trong điều kiện tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa là nhiệm vụ phức tạp có nhiều thách thức đòi hỏi luôn nghiên cứu, bám sát thực tiễn để đề xuất các giải pháp hiệu quả.

 

 

Tài liệu tham khảo

1.    Phạm Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (2012), Quản lý văn hóaViệt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2.    Từ Thị Loan (2012), “Một số mô hình quản lý, tổ chức lễ hội cổ truyền”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Số 340, tr.7-11.

3.    Trần Thị Thủy (2013), “Về vai trò của cộng đồng và của nhà nước trong việc quản lý di sản văn hoá phi vật thể (nghiên cứu trường hợp lễ hội đền Bà Chúa Kho)”, Tạp chí Văn hóa học, Số 5, tr.31-38.

4.    Trung tâm Từ điển học (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114561741

Hôm nay

2169

Hôm qua

2334

Tuần này

2854

Tháng này

229284

Tháng qua

122920

Tất cả

114561741