1.Về tên bài báo:
Cả 2 bài báo của tôi gửi tạp chí Văn hoá Nghệ An và tuần báo Văn Nghệ đều có chung một tiêu đề là: “Để hiểu cho đúng được ý của nhà thơ Nguyễn Hành”. Rất may là Văn hoá Nghệ An đã đăng nguyên văn tên và nội dung bài báo. Song tuần báo Văn nghệ đã rút gọn tên bài thành “Để hiểu đúng ý của nhà thơ Nguyễn Hành”.
Điều đáng lưu ý là ông Nguyễn Hùng Vĩ đã nhầm lẫn ngay từ câu mở đầu bài báo: “Đọc bài “Để hiểu đúng ý của nhà thơ Nguyễn Hành” của ông Nguyễn Khắc Bảo trao đổi với nhà thơ Vương Trọng in trên tạp chí Văn hoá Nghệ An số 74 (10/5/2006 và tuần báo Văn Nghệ số 26 (1/7/2006”. Xin ông Nguyễn Hùng Vĩ đọc kỹ lại cho, cái tên bài báo trên chỉ đăng trên Văn nghệ số 26 là do Ban biên tập tuần báo tự ý rút đi 2 chữ “cho” và “được”, còn trên Văn hoá Nghệ An vẫn in đầy đủ như trong bản thảo của tôi là: “Để hiểu cho đúng được ý của nhà thơ Nguyễn Hành”.
Đến cái tên 2 bài báo to đùng, ý tứ hơi khác nhau mà ông lại đồng nhất làm một, rồi lại cứ dựa vào tên bài báo do tuần báo Văn nghệ tự ý biên tập cắt xén (không hỏi ý kiến tác giả) mà viết một đoạn văn “tràng giang đại hải” phê bình: “Đối với thơ ca, đặc biệt là thơ chữ Hán trung đại mà đặt vấn đề “hiểu đúng” nó thì quả là một cả quyết thiếu lịch duyệt”. Điều “cả quyết” của Nguyễn Hùng Vĩ mới thực sự thể hiện tính nôn nóng, đại ngôn của một người “thiếu lịch duyệt”. Viết và quy kết như vậy thì hoá ra các giáo sư, nhà nho làm các công trình biên dịch văn học chữ Hán trung đại để giúp hậu thế “hiểu cho đúng được” văn chương của các tác gia tiền bối đều là những người “thiếu lịch duyệt” cả sao? Điều quy kết ấy chỉ dành cho ai đó tự vỗ ngực rằng chỉ có mình dịch đúng, hiểu đúng còn người khác chỉ là: “nhầm”, “cạn ý”, “dịch sai vì không hiểu chữ và không hiểu thơ” rồi hùng hồn chỉ thị cho các nhà nghiên cứu khác rằng: “Câu thơ trên không bao giờ được dịch như vậy”.
Toàn bộ bài báo của tôi đều tập trung làm sáng tỏ ý: Vậy dịch nghĩa “công xảo hoàn” với nghĩa là “ông mới ra đi trọn vẹn thanh danh” thiết nghĩ cũng không có gì là quá thoát ly nội dung của bài thơ để đến nỗi ông Vương Trọng phải cho là “dịch sai” vì không hề có chữ nào mang nghĩa là ra đi, tức là chết như hai ông đã dich”.
Ông Nguyễn Hùng Vĩ đã cố tình bẻ queo cách hiểu tên bài báo – đã bị cắt xén – của tôi trên báo Văn nghệ. Mà “Để hiểu cho đúng được… là cả một quá trình đang phấn đấu, cố gắng chứ tôi đâu có khẳng định “duy ngã tộc tôn” mà Nguyễn Hùng Vĩ phải ra điều mình ở thái cực ngược lại, tỏ ra khiêm tốn: “Tôi chỉ dám đặt vấn đề “để hiểu thêm một chút” chứ không dám nói rằng “để hiểu đúng” như ông Nguyễn Khắc Bảo”.
Làm công tác nghiên cứu mà đọc cứ mập mờ lẫn lộn như vậy, hai bài báo tên và nội dung khác nhau mà cứ “dồn vào một rọ” rồi hấp tấp “Vơ đũa cả nắm” viết bài để phê bình thì quả là xưa nay hiếm thấy.
2/Về chức quan của Nguyễn Hành:
Ông Vương Trọng viết là: “Nguyễn Du mất ở Huế năm 1820, khi đó Nguyễn Hành đang làm quan ở Thăng Long” Vậy theo ông Nguyễn Hùng Vĩ thì chức quan của Nguyễn Hành là chức gì vậy? Làm từ năm nào đến năm nào? Sao ông đã định làm trọng tài mà lại “im hơi kín tiếng” bỏ qua lỗi kiến thức đáng thẻ vàng ấy. Cái lỗi này (do không được ai nhắc nhở) nên Vương Trọng cứ điềm nhiên nhắc đi nhắc lại từ Văn nghệ Quân đội số 6/2005 qua Nghệ An cuối tuần (2/4/2006) đến Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam 29/4/2006 (đã vi phạm cái ngưỡng dân gian là “quá tam ba bận”), nên phải phân định cho rõ, kẻo nhiều người do cũng “kính trọng nhà thơ Vương Trọng” mà cứ nhắc đi nhắc lại theo, thì oan cho nhân cách, cương trực của nhà thơ Nguyễn Hành lắm.
3/Là hai bài tuyệt cú hay là bài thể loại “thất ngôn bát cú”.
Ông Nguyễn Hùng Vĩ quả quyết tuyên bố: “Tôi xin nói rằng, chắc chắn đó là một bài chứ không thể là hai bài được”. Nhưng cũng chính Nguyễn Hùng Vĩ đã biết và viết trên Văn hoá Nghệ An rằng: “Cụ Trương Chính đã viết: “Có hai bài Nguyễn Hành (tức Minh Quyên) làm khi được tin chú là Nguyễn Du mất, để: Văn thúc phụ Lễ tham tri phó âm cảm tác”. Giáo sư Bùi Văn Nguyên cũng đã viết: “Nghe tin Nguyễn Du mất, Minh Quyên Nguyễn Hành làm chùm thơ hai bài tuyệt cú nhan đề: Văn thúc phụ Lễ Tham tri phó âm cảm tác”. Trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (thế kỷ 18 – nửa đầu thế ký 19) do tập thể 10 giáo sư, nhà nho học có uy tín như: Huỳnh Lý, Lê Thước, Nguyễn Sỹ Lâm, Đỗ Đức Hiểu, Đặng Thanh Lê, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh… tại trang 521 lại chép bài thơ trên thành hai khổ tách thành 2 kỳ, mỗi kỳ 4 câu, có in phân biệt I, II. Bài thơ ấy được chép như sau:
Văn thúc phụ lễ bộ tham tri phó âm cảm tác
I
Thập cứu niên tiền Tổ Như từ Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩ!
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn,
Dịch lề hà năng tốc công tử.
II
Tam thu luân lạc tử thành trung, Nam vọng phù vân mỗi ức công.
Qui khứ gia sơn văn dạ liệp,
Tinh linh hoảng dữ năng thời đồng.
Điều này thể hiện các nhà biên khảo đã được đọc một văn bản là “Hai bên tuyệt cú” cùng một chủ đề, chứ không thể gọi bừa là một bài “thất ngôn bát cú” được (Rất tiếc là hồi đó chưa ấn ảnh bản chữ Hán nên mới xảy ra cuộc trao đồi về văn bản học này).
Xin các độc giả yêu thơ Đường luật trong cả nước cùng thẩm định hộ xem bài thơ 8 câu 7 chữ trên có thể xếp vào loại “thất ngôn bát cú” được không? (Lưa ý xem xét kỹ: vần (bài này 8 cấu, 6 vần, 3 vần bằng, 3 vần trắc), luật bằng trắc có đạt nhị tứ lục phân minh, niêm, đối có chuẩn không).
Theo Giáo sư Dương Quảng Hàm trong Việt Nam Văn học sử yếu (trang 121) thì:
“Thơ Cổ phong
Số chữ và số câu trong thơ Cổ phong:
Lối này chỉ có số chữ trong câu là nhất định (hoặc ngũ ngôn hoặc thất ngôn): ngoài ra không phải theo thể lệ chặt chẽ như lối Đường luật, nghĩa là không có niêm, luật, không phải đối (một khi có đối là tuỳ nhà làm thơ, chữ không bắt buộc).
Lối này cũng không hạn số câu: Cứ từ 4 câu trở lên, muốn làm dài ngắn bao nhiêu cũng được. Các thi gia thường cũng hay làm mỗi bài 4 câu (tứ tuyệt) hoặc 8 câu (bát cú) nhưng cũng có bài làm 6 câu hoặc 12 câu”.
Những điều tương tự cũng được học giả Trần Trọng Kim giảng trong cuốn sách Việt Nam văn phạm (trang 190-192).
Và Từ điển Tiếng Việt (2004 - Hoàng Phê chủ biên) tổng kết: “Cổ Phong: Thể thơ Trung Quốc có trước thơ Đường luật, chỉ cần vần, không cần và không hạn định số câu” (trang 203)
Vậy thì những người “kiến thức phổ thông” chúng tôi cứ vững tâm xếp 2 bài của Nguyễn Hành nói trên cùng bài “Đồng tước đài” của Nguyễn Du (như dẫn chứng của Nguyễn Hùng Vĩ) vào thể thơ Cổ Phong là chắc chắn nhất.
Do vậy ý kiến của Giáo sư Bùi Văn Nguyên: “Nguyễn Hành làm chùm thơ 2 bài tuyệt cú (chúng tôi thêm “thuộc loại Cổ phong”) nhan đề “Văn thúc phụ Lễ tham tri phó âm cảm tác” văn là hoàn toàn chính xác. Điều lý thú nữa là chính Nguyễn Hùng Vĩ trên báo Văn Nghệ đã từng xác nhận sai lầm của mình bằng câu lỡ tay: “Song đọc hết bài thì tôi té ngửa ra là ông cũng không hiểu hai bài thơ của Nguyễn Hành được bao nhiêu” (báo Văn nghệ 15/7/2006 cột 1 dòng 33). Hay đây là câu văn bộc lộ bản chất của tác giả chỉ nhận ra chân lý khi ở tư thế bị “té ngửa” mà thôi.
4/Hỉ hay Hĩ:
Ông Nguyễn Hùng Vĩ quả đã dụng công khi tìm được trong Tự điển Việt Pháp của Gébibrel (năm 1898 – trang 299) cái phao: nguyên văn là:
Ông Vĩ chép là: Hỉ (Caractère final).
Trong khi nguyên văn là: …. Hỉ (Nhưng) Caractère final.
Như vậy là ông không cố gắng ghi cả chữ Hán để mọi người cùng kiểm chứng xem với chữ Hán ấy, cách phiên âm của ông người Pháp này lỡ có sai sót gì không?
Ông lại không cố tra những Từ điển, Tự điển gốc Trung Hoa như Khang Hi, Từ Nguyên, Từ Hải... cácTừđiển, Tựđiển Việt Nam từ cổ chí kim để xem cách họ phiên thiết hoặc ký tự La tinh có cho phép ta đọc là Hỉ không? Còn thực ra khi đã có chữ Hán ghi là:thìtrênđấtnướcViệt Nam ta tìm được người thứ ba sau hai ông Vương Trọng, Nguyễn Hùng Vĩ để đọc Hỉlà một điều chắc khó lắm.
Ta có thể thông cảm cách phát âm địa phương thành: “Nhất thệ tài hoa kim dỉ hỉ” hoặc Nguỵển Hùng Vỉ, kỷ thuật, mỉ thuật, sỉ phu... nhưng khi đã đăng báo thì buộc phải in đúng dấu “ngã” chứ không thể là dấu “hỏi” được. Chính ông Nguyễn Hùng Vĩ khi chép lại để phiên âm dịch nghĩa cũng đã ghi là; “Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩ nhưng lại giải thích: "Chữ Hĩ tôi phiên theo phổ thông”. Cái từ Hỉ này ông Vương Trọng không chỉ đăng trên Nghệ An cuối tuần, Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam mà còn đăng trên Văn nghệ Quân đội (số 6/2005 - trang 110). Việc đăng tải liên tục sai lầm như thế đã là “sự bất quá tam" nên không thể còn gọi là "tiếng địa phương” được nữa rồi, phải chấn chỉnh thôi. Việc nhầm dấu hỏi - ngã là chuyện thường ngày ở văn chương cấp huyện, có khi lên tới cấp Trung ương như câu Kiều số 12 vẫn đang tranh luận: Gia tưnghĩcũng... Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung. Song ở văn cảnh này thì nên phục thiện mà chép trong văn bản là: Kim Dĩ Hĩnhưông Nguyễn Hùng Vĩ đã chép trong bài báo.
5. Về quan niệm dùng Từ điển - Tự điển:
Với dân Việt “phổ thông” chúng tôi, khi cần tra cứu ngữ nghĩa của một từ, một ngữ nào đó thì Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Trung tâm từ điển học xuất bản, Giáo sư Hoàng Phê chủ biên và 16 Giáo Sưcùng biên khảo (in lần thứ 10 - có sửa chữa), đã là một tài liệu tin cẩn lắm rồi. Chỉ khi nào các khái niệm cần tra cứu không có trong các loại Từ điển do học giả Việt Nam biên soạn mới cần đến tra cứu Từ điển nước ngoài.
Đằng này ông Nguyễn Hùng Vĩ lại tỏ ra xem nhẹ Từ điển Tiếng Việt. Ông tự tiện tra thêm hai chữ "phổ thông” vào sau tên sách Từ điển Tiếng Việt ( 2 lần ởcột 1 dòng 29 và5 dưới lên) chỉ để cho độc giả cả nước biết rằng ông ở đẳng cấp cao hơn và còn dùng đến các loại: Khang Hi tự điển, Từ nguyên, Từ điển của J.F.M Génibrel và nhắc nhở cánh “phổ thông"'. "Không tin thì mở Từđiển Khang Hi tra chữ....” (lúc trước Từ điển Khang Hi - lúc sau Khang Hi Tự điển... mới có 1 dòng mà đã lại sai lẫn giữa: Tự điển và Từ điển).
Để "hoãn binh" về việc trót đã xếp loại 2 bài thơ tuyệt cú vào thể loại thất ngôn bát cú, Nguyễn Hùng Vĩ lại viết: "Còn nó có thực là thất ngón bát cú như nhà thơ Vương Trọng nói hay không thì cần tra cứu thêm các vãn thể Đường Tống, Từ điển Tiếng Việt phổ thông (lại phổ thông? - NKB nhấn mạnh), chỉ nói đến những điều cơ bản nhất mà thôi, còn biến thể chắc chắn sẽ phong phú hơn nhiều(câu này chỉ đăng trên Văn nghệ, Văn hóa Nghệ An không thấy in?).
Thưa ông định khoác áo làm trọng tài, ông lại đá quả bóng trách nhiệm này cho ai "tra cứu thêm các văn thể Đường Tống" nữa đây. Giới phổ thông chúng tôi sau khi đã có “những điều cơ bản nhất",chỉ cần đọc thêm bài giảng của các cụ Dương Quảng Hàm và Trần Trọng Kim (như đoạn trên) và từ đó đọc lại Từ điển Tiếng Việt (trang 203) là không phải băn khoăn gì trong việc xếp loai các bài thơ đã nhắc đến ở trên là Thơcổ Phong. Nếu ông tra trong "Văn thể Đường Tống" có điều gì “phong phú hơn nhiều" mà lại khác hẳn với các điểu chúng tôi hiểu trên đây, rất mong ông thông tin cho biết sớm.
Có một điều rất lạ là ông Nguyễn Hùng Vĩ hay trích dẫn xuyên tạc câu văn của người khác. Tôi tra Từ điển mục “ Thất ngôn bát cú” thấy giảng là “nói về một thể thơ làm theo Luật thơ Đường” thì tra giùm bạn đọc mục “Đường luật” để rõ trắng đen. Thế mà Nguyễn Hùng Vĩ lại viết khơi khơi “Ông Nguyễn Khắc Bảo lại tra mục Đường luật trong từ điển để nói về cổthể thì đúng là lạ”.
Thế là vô hình trung Nguyễn Hùng Vĩ đã công nhận bài thơ đangbàn là "cổ thể’ chứ không dám gọi ngắn gọn là "thất ngôn bát cứ' nữa.
Chúng tôi dùng Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì bị Nguyễn Hùng Vĩ kháy là: "Dùng thước tây để lấy số đo ban thờ”. Xin Nguyễn Hùng Vĩ giải thích giùm: Ông coi cái gì là "bàn thờ” trong chuyện văn chương này. Ông ca ngợi nhà thơ vương Trọng có “mẫn cảm tài tình" "cảm năng thơ ca" nhưng chính ông đã dùng đến từ điển cùa ông Tây Génibrel rồi chữ nghĩa thơ văn của các ông Tàu: Khang Hy Lục Du để bào chữa cho nhà thơ Vương Trọng thì đúng ông mới là người “dùng cả thước Tây lẫn thước Tàu" để lấy "sốđo"cho nhân vật mà mình tôn thờ rồi đấy.
6. Về việc dịch nghĩa:
Ổng Nguyễn Hùng Vĩ có cách dịch nghĩa thường cắt các chữ rời ra rồi ghép 2 chữ xa nhau thành gần nhau để... dịch, ông viết: "Cũng như ta viết một câu: Bồng lai tiên cảnh công dĩ quy thì không ai không đọc ra cụm từ quy tiên trong đó".Vậy nên từ câu thơ: "Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn” ông Vĩ đã tán rằng: “Cái khệo của câu thơ là đã luồn được hai chữ hoàn và phúc vào phát ngôn nên nó vừa mang nghĩa thực vừa mang sắc thái tán thán”.
Nghĩa là phải tách chữ hoàn (đứng thứ 7) rồi dán vào sau nó chữ phúc (đứng thứ4) thành hoàn phúc và túm lấy cách giảng của học giả Đào Duy Anh: "Hoàn phúc: Trọn phúc, lời khen người chết".
Song việc cắt ghép này lại không đúng. Câu: "Bồng lai tiên cảnh công dĩ quy"thì chủ thể chỉ có một là ông cụ vừa mất, nên người chơi chữ “đọc ra cụm từ quy tiên” cũng là được. Đến câu thơ: Ngô môn hậu phúc, công xảo hoàn lại nói về hai chủ thể: Ngõmôn(cửa nhà ta - họ nhà ta) và “công” tức người được “phó âm cảm tác" tức ông Thúc phụ Nguyễn Du. Đem 2 từ "phúc, hoàn” bổ nghĩa cho 2 chủ thể khác nhau, lại đảo ngượctrước thành sau, xa lại gần chỉ để thỏa mãn điều “giật mình khi đọc mục hoàn phúc trong Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh", rồi từ đó cắt rời, đảo chỗ, dán lại để có cụm từ: Hoàn phúc và tổng kết:
“Như thế câu thơ có thể được dịch nghĩa:
Ông khéo tròn phúc dày nhà ta làm sao!
Trọn phúc, tròn phúc, tròn quả phúc vẫn là câu nói trước đây khi nghĩ đến người chết vậy.(Cột3 dòng 1 - 4).
Việc dịch trên đây đúng sai, hay dở, đủ thiếu... rất mong độc giả trong cả nước thẩm định.
Trong việc vận dụng cách dịch của Tam nguyên Yên Đổ, ông cũng lại đảo lộn thứtự chữtrong câu cho đúng cách dịch “sở trường" của mình. Nguyễn Khuyến viết: Dĩ hĩ Dương đại niên và cụ tự dịch là: Bác Dương thôi đã thôi rồi.
Lưu ý ông Nguyễn Hùng Vĩ là 2 chữ: Dĩ hĩ ở đầu câu và trong bản dịch in trong Thơ Văn Nguyễn Khuyến, (H, Nxb Văn học 1971 trang 129) chép như trên, chứ không tuỳ tiện thêm giấm ớt các dấu (chấm... chấm...) như ông chép trên báo là: Bác Dương thôi... đã... thôi rồi!
Trởlại câu thơ của Nguyễn Hành:
Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩthì dĩ hĩ là 2 từ ở cuối câu - khác với thơ Nguyễn Khuyến, hai từ Dĩ hĩnằm ở đầu câu. Vậy sao ông cũng lại mượn cách dịch ở câu thơ có cấu trúc Đầu - Đuôi khác hẳn nhau, để dịch thành:
Một đời tài hoa thì nay thôi... đã thôi rồi.
Cụ Nguyễn Khuyến viết "Thôi đã thôi rồỉ' do dịch 2 chữ Dĩ hĩở đầu câu, đến Nguyễn Hùng Vĩ thấy 2 chữ dĩ hĩ ởcuối câu mà cũng bắt chước dịch thành: “Thôi... đã thôi rồỉ'thì người đọc chúng tôi cũng đành phải ngán ngẩm mà kêu lên rằng: Cái sự dịch nhái theo dập khuôn ấy, thật là cũng nên “thôi đã thôi rồi”.
7.Về việc sửdụng văn bản và thái độ với các công trình của các bậc tiền bôi:
Chúng tôi là những người yêu văn học, trong những năm qua làm công tác sưu tầm văn bản Truyện Kiều có thu được 43 bản Truyện Kiều chữ Nôm và đã in thành các công trình khảo cứu. Nhưng với văn bản thơ của Nguyễn Hành thì không sưu tầm được, do vậy phải nhờ vào các công trình của các bậc trưởng thượng tiền bối như GS Trương Chính, GS Bùi Văn Nguyên, GS Nguyễn Thạch Giang, Hợp tuyển Thơ văn Việt Nam của 10 Giáo Sưbiên soạn, Thơ chữ Hán Nguyễn Du do 20 Giáo sư biên soạn.
Ấy vậy mà qua bài báo của ông Nguyễn Hùng Vĩchúng tôi mới giật mình, biết được một “sự thực đáng buồn” qua cách Nguyễn Hùng Vĩ nhận xét vể chất lượng các công trình nghiên cứu của các vị giáo sưtiền bối là:
“Cách của Giáo sư Trương Chính là trực dịch nêncạn ý”. “Giáo sư Trương Chính, Giáo sư Bùi Văn Nguyên và lẽ dĩ nhiên ông Nguyễn Khắc Bảo đã nhầm"(cột 1 dòng 32). "Sự nhầm lẫn của những ngựời khác gọi đó là 2 bài là một điều đáng tiếc, người trước sai (ám chỉ GS Trương Chính và GS Bùi Văn Nguyên) dẫn đến việc người sau sai theo” (cột 1 dòng 8 dl) “Người khác sai (chỉ GS Bùi Văn Nguyên) rổi ông sai theo mà thôi”(cột 2 - dòng 24) “Vìngười dịch(ám chỉ GS Bùi Văn Nguyên) đã nhầm từhĩ với tư cách là một từ đặt cuối câu với chữhĩkhác là: Ôi! A!(cột 2 dòng 39). Rồi lại lên giọng mời các vị giáo sưvà độc giả cả nước: “Không tin thì mởTừ điển Khang Hy tra chữ hĩ này sẽ rõ".
"Một người thìdịch sai vì không hiểu chữvà không hiểu thơ(ám chỉGS Nguyễn Thạch Giang). Một người thì tán đồng sự saiđó và lấy đó làm sở cứ để phê phán người khác'1(chỉ Nguyễn Khắc Bảo) (cột 3- dòng 17 - 19). Và cuối cùng Nguyễn Hùng Vĩ thẳng thừng kết luận: "Tôi không dám tranh luận cùng các cụ"(chắc ám chỉ mấy chụcGiáo sư biên soạn các sách ở trên - NKB chú) nhưng là người hậu thế, các cụ dạy thì mình học, các cụ chưa đúng thì mình lặn lội để cho đúng hơn” (Cột 3 - dòng 7-10 dl, báo Văn Nghệ 15/7/2006).
Như vậy, Nguyễn Hùng Vĩ không còn vẻ láu lỉnh khiêm tốn ban đầu là chỉ góp phần "hiểu thêm một chút' nữa, mà đã dần dần “giấu đầu hở đuôi" tự ngợi ca câu dịch của mình là “Dịch thếvừa kín đáo (né tránh sự thật phũ phàng) vừa được ý, vừa được tấm lòng”(một câu dịch có những 3 ưu điểm cơ đấy?), ông lại cao giọng nhắc nhở các cụ "Câu thơ trên không bao giờđược dịch như vậy”và cuối cùng thì chốt lại: “Mình lặn lội để cho đúng hơn” vì văn bản cũ các cụ dùng có “kết cấu vô nghĩa”. Ông cho rằng "Các cụ chưa đúng thì mình lặn lội để cho đúng hơn", vậy điều "cả quyết” ấy có đủ sự "lịch duyệt” trước các GS bậc thầy chưa nhỉ, mong bạn đọc cùng thẩm bình.
Chúng tôi là người sử dụng công trình của các cụ, nay các cụ đã qua đời gần hết, mong rằng trong số các cụ còn tại thế có ai đọc được bài của Nguyễn Hùng Vĩ mà cho mấy lời thì hay quá. Còn tôi đọc đến cuối bài viết mới phát hiện ra là: Nguyễn Hùng Vĩ có trong tay một văn bản bài thơ của Nguyễn Hành (Minh Quyên thi tập, VHV190), khác với các văn bản mà các cụ đã dùng.
Ồthì ra "xăng dầu" cho sự “bốc hỏa” của Nguyễn Hùng Vĩ là do ông đã có trong tay một văn bản thơ thay vì là chữ "năng” lại là chữ "cựu".
Rõ ràng, văn bản Nguyễn Hùng Vĩ sưutầm được chỉ là văn bản do Phạm Khắc Khoan chép lại (không rõ năm nào), có nhiều sai lệch với văn bản mà các vị GS tiền bối đã dùng. Theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (trang 507) thì văn bản trước có các đặc điểm sau: “Tên tập thơ : Minh Quyên phả, đầu bài ghi chức tước: Lễ bộ tham tri, công tư Tố Như, chép làm 2 kỳ I và II, mỗi kỳ 4 câu, câu thơ cuối là: Tinh linh hoảng dữ năng thời đồng”.Còn văn bản do Nguyễn Hùng Vĩ sưutầm và ngộnhận là đúng thì lại là: ‘Tên tập thơ: Minh Quyên thi tậpchức tước: Lễ bộ hữu tham tri (lưu ý trong Truyện Kiều cũng chỉ ghi tác giả là: Tiên điền Lễ tham Nguyễn Hầu soạn - không có chữ hữu), công hiêu TốNhư - cạnh chữhiệu lại có chữ tự chữa vào chứng tỏ văn bản này là chép sai”, chép liền một mạch 8 câu, câu thứ 8 là: Tinh linh hoảng dữ cựu thời đồng".
Nguyễn Hùng Vĩ có được một văn bản mới cũng là quý, nhưng lại quá tin vào văn bản mình có theo kiểu "Văn bản mình hơn văn bản ngườỉ"để sổ toẹt các văn bản mà các thày dạy mình từng nghiên cứu thì thật là quá hồđồ. Mà chắc lúc đó Nguyễn Hùng Vĩ chưa tới tầm được đọc văn bản của các bậc thầy trên sưutầm được. Quá tin tưởng vào văn bản của mình theo kiểu nhưvậy thì thật là "tận tín thư bất như vô thư". Ông có dám đảm bảo văn bản của mình là đúng 100% theo bản thảo của Nguyễn Hành chép không mà dám tự tin một cách thiếu khoa học như vậy?
Ông nhìn lại xem các nhà nghiên cứu văn bản Truyện Kiểu, trong khi chưa tìm được văn bản là thủ bút Nguyễn Du, thì dù có tới 43 văn bản, trong đó có nhiều bản rất cổ như Liễu Văn Đường 1866, Nguyễn Hữu Lập (cháu ngoại Nguyễn Du) chép 1870, Liễu Văn Đường 1871, Duy Minh Thị 1872..., mà có ai dám chỉcoi trọng"Văn bản mình", coi các văn bản khác rẻ như “bèo bọt - cơm thiu’như cách nhìn và đánh giá của ông đâu.
Lần trước với nhà thơ Vương Trọng có đặc tính là "Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây" nên chúng ta có thể thông cảm về sự nhầm lẫn (tiếc rằng nhầm gì mà tới những 3 lần). Nhưng với nhà giáo dạy văn chương ở bậc Đại học mà không phân biệt nổi thơ cổ phong với thơ Đường luật, có mỗi bài thơ 8 câu 7 chữ của Nguyễn Hành như trên mà ông tung ra đến 4 cái định nghĩa:
1/ “Thứ nhất đây có thể gọi là thất ngôn trường thiên (ôi, 8 câu mà đã gọi là trường thiên ư?).
2/ “Thứ hai theo chúng tôi là đúng hơn, đây đúng là một bài thất ngôn bát cú cổ thểluân chuyển 4 câu vần trắc tiếp 4 câu vần bằng.
3/“Nhà thơ Vượng Trọng nói rất đúngrằng đó là bài thơ thất ngôn bát cú chứ anh không nói là thất ngôn bát cú cách luậthoặc cận thểhoặc Đường luật.
4/”Vậy khi đã hiểu chắc chắn đó là một bài thất ngôn bát cú cổ thể (hoặc Cổ Phong) câu thơ này và cả đoạn thơ thứ hai nên dịch như sau…
(Ba cách định nghĩa thứ: 2-3-4 trên Văn nghệ ngày 1/7/2006 không thấy đăng, chỉ mới xuất hiện thêm trên Văn hoá Nghệ An ngày 10/8/2006).
Chỗ này, Nguyễn Hùng Vĩ lại thay khái niệm đã trót lỡ tay viết ở trên: Hai bài thơ của Nguyễn Hành” bằng khái niệm mới “đoạn thơ thứ hai”, nhưng dù sao ông cũng đã vô hình trung thành thật tái xác nhận bài thơ có hai đoạn.
Có mỗi bài thơ 8 câu mà có thể có tới 4 cách định nghĩa, Nguyễn Hùng Vĩ đã vượt gấp đôi cái điều người ta thường nói: “Làm trai cứ nước hai mà nói”.
Theo tôi (như trên đã dẫn sách của GS Dương Quảng Hàm và học giả Trần Trọng Kim, Từ điển Tiếng Việt) cứ gọi ngắn gọn bài thơ của Nguyễn Hành là bài Cổ Phong hoặc như Nguyễn Du đã gọi bài thơ của Thuý Kiều làm khi thăm mộ Đàm Tiên là:
Rút trâm sắc giắt mái đầu
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần…
…Lòng thơ lai láng bồi hồi
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Nếu ông Nguyễn Hùng Vĩ có thời gian thì nên đọc kỹ Việt Nam văn phạm của Trần Trọng Kim sẽ biết rằng thơ thất ngôn bát cú chỉ có các loại chính: thất ngôn 8 câu 5 vần (trang 195), thơ thất ngôn 8 câu 4 vần (trang 202), chứ theo cụ Trần Trọng Kim thì không thấy có loại thơ thất ngôn bát cú 8 câu 6 vần (3 vần trắc, 3 vần bằng như ông Nguyễn Hùng Vĩ đã đặt ra đâu).
Chúng tôi thật quá sửng sốt khi đọc cả hai bài báo của ông Nguyễn Hùng Vĩ tuy lúc đầu ông tỏ vẻ khiêm nhường “chỉ dám đặt vấn đề để hiểu thêm một chút” nhưng cuối cùng – như độc giả đã thấy – chỉ do kiếm được một văn bản photocopy bản chép tay (sao lục có nhiều sai sót) văn bản bài thơ của Nguyễn Hành mà ông đã lớn tiếng chê bai toàn bộ các công trình nghiên cứu về bài thơ đó của các GS, “các cụ nhà nho đã từng dạy ông học là: “Các cụ chưa đúng thì mình lặn lội để cho đúng hơn”. Chúng ta thường mong “Con hơn cha là nhà có phúc”, nhưng tiếc rằng trong trường hợp này điều đó chưa hề xảy ra. Vậy chúng tôi mới phải viết bài này mong nhận được sự tham gia bàn luận của độc giả trong cả nước./.
.......................
Bài đã in VHNA số 84, ngày 10/9/2006