4. Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩ/hỉ
a.Việc phiên âm và tình trạng xuất nhập dấu hỏi, dấu nặng, dấu ngã khi phiên âm.
4. Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩ/hỉ
a.Việc phiên âm và tình trạng xuất nhập dấu hỏi, dấu nặng, dấu ngã khi phiên âm.
Câu thơ này, đa số sách phiên theo các từ điển quen thuộc là Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩ. Anh Vương Trọng chép là Nhất thế tài hoa kim dĩ hỉ. Về vấn đề này, trong bài viết trên Tạp chí văn hóa Nghệ An số 82, tôi viết như sau (trích):
Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ Vương Trọng chép là hỉ. Ông Nguyễn Khắc Bảo cho rằng nhà thơ Vương Trọng chép sai thơ. Tiếp đó ông vu cho nhà thơ hiểu sai nghĩa rồi tìm cách trốn nghĩa đó khi dịch. Xin thưa rằng, cái chữ đó có thể phiên được cả hai âm hĩ và hỉ. Người Nghệ Tĩnh phiên và phát âm hỉ là chuyện bình thường… Nếu ta đọc nhiều bản phiên âm thơ chữ Hán hoặc phiên âm thơ văn Nôm của các cụ vùng Bắc Trung Nam từ cuối thế kỉ XIX đến cuối thế kỉ XX thì sẽ thấy rằng ở nhiều chữ dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng vẫn có tình trạng xuất nhập. Vấn đề là phải hiểu các cụ, chứ không phải vì vậy mà bắt bẻ. Tất nhiên người hiện đại phiên như các từ điển quen thuộc vẫn hơn. Song điều này mới quan trọng… từ điển J.F.M. Génibrel (1848) còn giữ lại cách đọc chưa phân biệt hỉ (vui mừng) và hỉ (caractère final). Chữ hỉ sau của Génibrel mới là chữ trong văn bản trên. Bởi vậy có ghi là hỉ thì trong đầu nhà thơ Vương Trọng cũng không bao giờ xuất hiện nghĩa “vui mừng” như ông Nguyễn Khắc Bảo đã gán cho anh để dễ bề giễu cợt “khôn lường sai ngoa”.(hết trích)
Trong đoạn viết trên đây, từ văn phong, qui cách, cách dùng từ, cấu trúc đoạn văn đến tư tưởng của tôi là hoàn toàn mạch lạc, sáng sủa, đúng đắn, được chọn lọc kĩ càng từng tí khi phát ngôn một vấn đề nhạy cảm về khoa học (vì nó có thể được các nhà ngôn ngữ học quan tâm và theo dõi). Vì cần thiết nên nay tôi phải giải thích thêm. Về cách dùng từ, tôi đặt việc phiên âm không thống nhất các dấu hỏi, ngã, nặng ở nhiều chữ vào “tình trạng xuất nhập”. Tình trạng xuất nhập có nghĩa là: trước hết đó là tình trạng nghĩa là, trong một hữu hạn nào đó, không phải là phổ biến nhưng đó là một hiện thực khách quan. Xuất nhập là điều đó xảy ra ở nơi này thì thế này, mà ở nơi khác có thể khác đi, thay thế cho nhau trong giới hạn hữu hạn đó. Cụm từ tình trạng xuất nhập trong văn nghiên cứu, người ta thường dùng để chỉ các hiện tượng dị bản về chữ nghĩa đã xảy ra một cách hiện thực trong khi không phân biệt mạch lạc đúng sai, phải chấp nhận nó như một tình trạng khách quan. Rõ ràng tôi không cho rằng phiên hỉ trong trường hợp này là sai lầm như ý kiến nông nổi của ông Nguyễn Khắc Bảo, mà tôi viết rất rõ là: tình trạng xuất nhập. Về qui cách đoạn văn trên không va vấp bất cứ lỗi qui cách nào, chỗ nào trích dẫn tôi in nghiêng và thậm chí cho cả ngoặc kép cho chắc, chỗ nào văn của tôi cũng rõ ràng. Về cấu trúc đoạn văn, tôi đã thao tác liên tục bốn bước: 1, Nêu vấn đề (việc phiên và hiểu chữ hĩ/hỉ của hai người); 2, khẳng định ý kiến của mình (có thể phiên được ở cả hai dạng trong trường hợp xuất nhập); 3, Giải thích vấn đề bằng các bước: yếu tố phương ngữ ở một người còn nặng giọng Nghệ thể hiện một cách bản năng; hiện thực phiên âm xuất nhập trong một thế kỷ ở các vùng; dấu tích “còn giữ lại cách đọc” rõ ràng ở từ điển cổ là từ điển J.F.M Génibrel; 4, tái khẳng định lại ý kiến của mình và vạch rõ mưu mẹo gán nghĩa để giễu cợt người khác của ông Nguyễn Khắc Bảo.
Tình trạng xuất nhập các thanh điệu hỏi, nặng, ngã là một hiện thực khách quan trong phương ngữ, trong phiên âm chữ Hán và đây là một vấn đề lý thú khi người ta nghiên cứu lịch sử hình thành các thanh điệu trong tiếng Việt. Dẫn chứng có rất nhiều, trong đó sự xuất nhập nặng – ngã chiếm một tỉ lệ lớn hơn là hỏi – ngã. Để tiện theo dõi, tôi sẽ đưa dẫn chứng một cách tập trung nhất, khả tin nhất từ hai cuốn từ điển Hán Việt có uy tín nhất hiện nay đó là Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh (ĐDA) và Hán - Việt tự điển của Thiều Chửu (TC) để bạn đọc tiện theo dõi. Cùng một chữ, cùng một nghĩa nhưng hai cụ phiên vào từ điển hỏi – ngã khác nhau:
Nghĩa rút gọn ĐDA TC
Ăn no Bảo Bão
Đúc đồ Dả Dã
Măng tre Duẫn Duẩn
(hai chữ) Duẫn Duẩn
Kịp Đải Đãi
(hai chữ) Đải Đãi
Bất quá Đản Đãn
Hết - Giết Điển Điễn
Thoi vàng bạc Đỉnh Đĩnh
Thuyền nhỏ Đỉnh Đĩnh
Ngay thẳng Đỉnh Đĩnh
Cái gậy Đỉnh Đĩnh
Bi ai quá Đổng Đỗng.
(vì là từ điển được sắp theo thứ tự chữ cái nên tôi không dẫn trang, các bạn có thể kiểm chứng theo mục chữ)
Có lẽ sẽ không cần thiết tra thêm về sự xuất nhập hỏi-ngã này nữa. Chỉ mới những mục từ của 5 trên 24 chữ cái đã cho ta kết quả đến 13 lần hỏi- ngã khác nhau (chưa tính đến nặng) thì đây là tình trạng gì vậy. Nếu có một sinh viên theo Thiều Chửu và một sinh viên theo Đào Duy Anh khi họ phiên âm thì không biết thầy giáo phải chấm điểm thế nào đây? Làm sao cho công bằng. Chỉ có một cách là chấp nhận tình trạng xuất nhập vì điều đó vốn dĩ xảy ra, phiên thế nào cũng được. Đến như ở ngay chính một nhà từ điển học điều đó cũng xảy ra. Cái chữ có nghĩa là giao long, thuồng luồng cụ Thiều Chửu phiên là Thận, cụ Đào Duy Anh phiên là Thẩn trong từ điển. Đến khi phiên âm Ức Trai thi tập thì cụ Đào phiên là Thẫn tuốt. Thế đấy! Trong bài trao đổi với tôi, ông Nguyễn Khắc Bảo viết một cách vô lối rằng: “Việc nhầm dấu hỏi-ngã là chuyện thường ngày ở văn chương cấp huyện…” là mạo phạm với các cụ. Đó không phải là nhầm, mà là tình trạng xuất nhập như tôi đã chỉ rõ. Phiên Hỉ hay Hĩ trong trường hợp này cũng vậy. Chữ Hĩ này, giáo sư Trương Chính và cụ Lê Thước từng phiên trong câu thơ:
Ánh lý tu mi khan lão hỷ
Soi gương thấy mày râu biết mình già rồi
(Bài Lạng Sơn đạo trung. Sách Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Lê Thước, Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp. In lần II. Nxb Văn học. 1978. Trang 165.)
Còn với chính câu thơ của Nguyễn Hành, GS Nguyễn Thạch Giang cũng đã từng phiên:
Nhất thế tài hoa kim dĩ hỷ.
(Nguyễn Du toàn tập. Nguyễn Thạch Giang sưu tầm biên dịch. Bách Việt hiệu đính. Phần Lời giới thiệu. Ấn bản lưu tại thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. (14/6/1996).
Chỗ thì phiên hĩ, chỗ lại phiên hỷ, thế có phải là tình trạng xuất nhập không? Đơn giản thì có thể cho rằng do sắp chữ sai, do sơ ý khi phiên nhưng đặt trong tình trạng chung ở trường hợp này phải nói đó là cái bản năng phương ngữ mạnh mẽ lưu lại cho chúng ta những dấu tích về cổ âm (các cụ đều người Khu Tư). Ông Nguyễn Khắc Bảo viết “tìm được người thứ ba sau hai ông Vương Trọng, Nguyễn Hùng Vĩ để đọc Hỉ là một điều chắc khó lắm” thì đã có câu trả lời. Năm chứ không phải là ba: Génibrel (để lại dấu tích trong từ điển), Trương Chính – Lê Thước (phiên), Nguyễn Thạch Giang (phiên), Vương Trọng (chép) và Nguyễn Hùng Vĩ (dựa trên tình trạng xuất nhập hỏi-ngã mà cho rằng phiên Hỉ là không sai). Tình trạng xuất nhập thì không phải là phổ biến nên ông Nguyễn Khắc Bảo đưa ra ví dụ phổ biến như mỉ thuật, kỉ luật, sỉ phu là đánh tráo logic giữa đặc biệt và phổ biến. Đó là mẹo vu vạ vặt vãnh ngoa ngoắt mà tư duy khoa học phát hiện ra ngay. Đặc biệt thì không phải là sai lầm.
b, Những ý kiến thật thông thái!
Để tranh luận lại ý kiến của tôi, ông Nguyễn Khắc Bảo đã viết một đoạn văn mà trong đó lộ rõ rất nhiều cái bản lai diện mục của ông trong công tác nghiên cứu, tôi sẽ trích rõ và sẽ bình luận cùng bạn đọc, để hiểu rõ tư cách, năng lực một con người, và sau đó chúng ta sẽ tiếp cận vấn đề một cách rõ ràng hơn: (trích):
Ông Vĩ chép là: Hỉ (caractère final)
Trong khi nguyên văn là: Hỉ (Nhưng) caractère final.
Như vậy là ông không cố gắng ghi cả chữ Hán để mọi người cùng kiểm chứng xem với chữ Hán ấy, cách phiên âm của ông người Pháp này lỡ có sai sót gì không?
Ông lại không cố tra những Từ điển, Tự điển gốc Trung Hoa như Khang Hi, Từ nguyên, Từ Hải… các Từ điển, Tự điển Việt Nam từ cổ chí kim để xem cách họ phiên thiết hoặc kí tự La tinh có cho phép ta đọc là Hỉ không? Còn thực ta thì khi đã có chữ Hán ghi là: thì trên đất nước ta tìm được người thứ ba sau hai ông Vương Trọng, Nguyễn Hùng Vĩ để đọc
= Hỉ là một điều chắc khó lắm(tạm hết trích).
Trong đoạn tôi trích lại của ông Nguyễn Khắc Bảo này, có 4 chỗ kí tự chữ Hán là vốn có của ông Bảo, cái mà ông trình ra và gọi nó là chữ Hĩ . Tôi sẽ bình luận sau này.
Dẫu không muốn theo vào những chỗ sai liên tục trên bài viết của ông Nguyễn Khắc Bảo nhưng bạn đọc cho phép ở đây, tôi được sử dụng cái quyền trao đổi của mình.
- Khi đề cập đến tư liệu trong từ điển của Génibrel tôi viết liền mạch: “… từ điển J.F.M. Génibrel còn giữ lại cách đọc chưa phân biệt hỉ (vui mừng) và hỉ (caractère final)”. Về qui cách, đây là một câu văn của tôi, không có dấu hiệu trích dẫn, và viết thế là đủ hiểu. Có nghĩa là, từ điển đó cung cấp một dấu tích cần thiết để chúng ta sử dụng nó, hiểu nó, biến nó thành tri thức của mình. Nếu là văn trích dẫn thì phải đầy đủ. Tôi không làm cái công việc chép như ông Bảo đã nói nhằm gán cho tôi là mắc lỗi trích dẫn. Thế tại sao tôi lại không chọn cách viết có trích dẫn để chứng cứ của mình thuyết phục hơn? Vấn đề nằm ở chữ (Nhưng) rất thú vị nhưng rất đặc biệt sau chữ Hỉ trong từ điển đó (HỈ(Nhưng). Caractère final). Tại sao giải nghĩa là chữ kết thúc (caractère final) mà Génibrel lại còn viết là nó tương đồng với chữ Nhưng? Trường hợp mà tôi gọi là đặc biệt này không phải ai cũng hiểu (đặc biệt ông Nguyễn Khắc Bảo sẽ không bao giờ hiểu nổi, muốn hiểu, tôi mách cho ông hãy cầm sách vở xuống nhà GS Hoàng Phê và 16 Giáo sư biên khảo Từ điển mà ông mê tín ấy mà hỏi. Họ không trả lời cho ông được thì nếu ông có nhời, tôi sẽ chỉ cho). Thành thử, trong câu văn viết của mình, tôi thấy việc đưa chữ Nhưng vào theo kiểu trích dẫn thì tất phải giải thích dài dòng, lạc khỏi ý kiến đang bàn bạc. Tôi vẫn nói, ông Nguyễn Khắc Bảo là người không hiểu và không sử dụng được từ điển là vì vậy.
Tương tự, ông Nguyễn Khắc Bảo viết rằng “…để mọi người cùng kiểm chứng với chữ Hán ấy, cách phiên âm của ông người Pháp này liệu có sai sót gì không?”. Trong một câu viết, chứa đựng nhiều cái sai của một đầu óc ấu trĩ về khoa học. Trước hết, nếu chữ đó nằm trong từ điển của Génibrel thì không thể gọi ngay đó là chữ Hán (chữ Hán ấy) vì đây là cuốn từ điển Việt Pháp có chú chữ Nôm trước chữ quốc ngữ mà người Việt dùng. Dù chữ Nôm đó có sử dụng chữ Hán nguyên dạng và đọc theo âm Hán Việt đi nữa thì, trong mối liên hệ với nghĩa và quy cách từ điển, vẫn phải coi đó là chữ Nôm. Thứ hai, Génibrel không làm cái việc phiên âm chữ Hán ra cách đọc Hán Việt như những nhà làm từ điển Hán Việt hoặc những nhà phiên âm dịch nghĩa. Ông là người làm từ điển Việt Pháp. Trong quá trình làm từ điển, Génibrel có tham khảo các từ điển trước đó nhưng trong trường hợp chữ Hỉ này, ông không tham khảo bất cứ ai cả. Đây là đóng góp của từ điển của ông. Ta hình dung cách làm của Génibrel như sau: Hoặc ông có trong tay một văn bản có chữ Hĩ, ông đi hỏi người bản địa: Chữ này đọc ra sao? Họ trả lời “Hỉ” và ông kí tự quốc ngữ rồi đưa thành một mục chữ của từ điển. Hoặc ông nghe người bản địa nói “Hỉ”, ông đi hỏi các cụ đồ nho tiếng đó thì viết thành chữ như thế nào, các cụ liền cầm bút viết tự dạng đưa cho ông, ông ghi lấy và đưa thành một mục chữ. Cái khả năng làm việc thứ hai có thể xảy ra hơn. Ai đã từng làm cái việc dùng chữ quốc ngữ ghi tiếng các tộc người khác như Mường, Nguồn, Êđê… hoặc đi ghi phương ngữ thì hiểu điều này. Làm việc như vậy thì sao lại đòi hỏi kiểm chứng việc phiên âm chữ Hán của Génibrel. Ông Nguyễn Khắc Bảo có sử dụng từ điển mà không hiểu mục đó như thế nào? Tính chất từ điển là gì? Đề nghị ông xem lại cho kĩ, có gì không hiểu cứ đi hỏi người khác. Còn tôi, trong bài viết trước, bên cạnh các lập luận về phương ngữ, về tình trạng xuất nhập khi phiên âm, tôi đưa ra cứ liệu từ Génibrel như sự minh chứng cho cả hai lí lẽ trên và viết một cách súc tích: “còn giữ lại cách đọc” Hỉ. Dấu tích tồn tại ở phương ngữ (tiếng địa phương) và dấu tích ghi chép quốc ngữ trong các từ điển cổ (khi các từ điển này thu thập tư liệu trên các vùng địa lí ngôn ngữ khác nhau) đều là những tư liệu quý báu, có giá trị như nhau, tương hỗ nhau khi ta lí giải về mặt ngữ âm việc phát âm một tiếng nào đó, trường hợp ta đang nói ở đây là sự xuất nhập hai thanh điệu hỏi và ngã trong khi phát âm chữ Hỉ/Hĩ.
- Ông Nguyễn Khắc Bảo lại có một yêu cầu thật sự ngớ ngẩn khi đòi tôi tra các từ điển Khang Hi, Từ Nguyên, Từ Hải xem cách họ phiên thiết, có cho phép ta đọc là Hỉ không? Tại sao từ điển một quốc gia này, với tộc người này lại có thể cho phép một quốc gia khác, tộc người khác phải phát âm như thế này hoặc như thế nọ? Các cụ ngày xưa học chữ Hán chứ đâu phải học Hoa ngữ. Thế mới có chuyện một cụ đồ Nghi Trung đọc “Bổn cảnh thành hoàng”, lũ học trò về kháo nhau: “Thầy nói, thành hoàng làng ta là con chuồn chuồn!!”. Về từ điển Từ Hải, bộ này xuất hiện ba lần trong lịch sử Trung Quốc. Bộ làm từ thời Trung Hoa dân quốc tôi không có trong tay nên chưa dám nói, còn bộ thứ hai làm năm 1989 và bộ thứ ba làm năm 1999 (kỉ niệm 50 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) thì không có phiên thiết. Không rõ ông Bảo hỏi bộ nào? Còn Khang Hi và Từ Nguyên có phiên thiết dựa trên Tập vận hoặc Quảng vận. Phiên thiết là gì? Đó là sự hướng dẫn cách đọc chữ của người Trung Hoa: khi gặp một tự (tiếng) thì đọc nó bằng âm đầu (thanh mẫu) gì; vần (vận mẫu) gì; còn thanh điệu thì căn bản dựa trên thanh của vận mẫu được chỉ thị. Cách đọc đó chủ yếu dựa trên việc: thứ nhất, dùng chữ đã đọc được để đọc những chữ chưa biết âm của nó ra sao theo tinh thần gần âm hoặc đồng âm; thứ hai, để giúp cho việc đọc được cả phụ âm và cả phần vần, nó tạo ra cách đọc phản (phiên), việc này gần như kiểu nói lái dân gian ở ta. Mục đích của phiên thiết là thống nhất trong lịch sử về cách đọc (phát âm) của các vùng, các phương ngữ của Trung Hoa vốn rộng lớn và ngày càng rộng lớn. Nó là dành cho cách phát âm của cư dân các vùng thuộc Trung Quốc, phù hợp với sự phát triển ngữ âm của họ. Kết quả của cách đọc này bao giờ cũng chỉ đạt đến kết quả tương đối và từng thời kì người ta lại phải sửa sang, tu bổ cách phiên thiết để phù hợp hơn, thống nhất hơn. Sự phát triển của hệ thống ngữ âm tiếng Việt của người Việt mà ta có thể hình dung khá rõ được kể từ khi bắt đầu có phương pháp ghi âm qua con chữ La tinh (thế kỉ XVII) với kí tự các thanh điệu là thời điểm đã quá xa xôi và cách biệt với ngữ âm đọc chữ Hán của người Trung Hoa. Cách đọc này có giống với ngữ âm trong Tập vận và Quảng vận không là điều ngôn ngữ học chưa thể giải quyết được. Cách đọc này có tương ứng (tương ứng thôi chứ không thể nói là giống) cách đọc đời Đường không? Cùng lắm, đó mới chỉ là giả thuyết công tác, không thể chứng minh bằng thực chứng. Hệ thống thanh điệu trong các cách phiên thiết là khác với hệ thống thanh điệu trong ngữ âm tiếng Việt. Như vậy, làm sao mà ông Nguyễn Khắc Bảo lại có thể nói rằng phiên thiết có thể cho phép chúng ta đọc là hỏi hay ngã. Trong lúc sự phân biệt hỏi ngã trong lịch sử ngữ âm tiếng Việt tồn tại như một quá trình riêng so với tiếng Trung thì làm sao đem áp phiên thiết vào được. Các từ điển cổ Trung Hoa chủ yếu cung cấp cho chúng ta những thông tin tự dạng, ngữ nghĩa, ngữ pháp (qua cấu tạo từ ghép, cụm từ, ngữ cảnh), còn về ngữ âm, thìhỏi, ngã là cách đọc thực tế của người Việt để đọc âm Hán Việt. Trường hợp có sự hoán chuyển là do sự không khu biệt của phương ngữ, của dấu tích phát âm cổ. điều này không gây ảnh hưởng gì về nghĩa của câu cả. Sự phân biệt giữa hỏi vàngã thì làm sao các từ điển đó đủ để cho phép. Trong bài viết trước của tôi, khi tôi nhắc đến từ điển của Khang Hi là nằm trong đoạn nói về nghĩa ngữ pháp trong cấu trúc cụm từ chứ không nói về ngữ âm. Câu vặn vẹo của ông Nguyễn Khắc Bảo tựa hồ như yêu cầu: Tại sao không tra Trà phả Trung Quốc mà chỉ rõ ở quê tôi người ta dùng lá lấu, lá bổi, lá lằng, lá ma ca, lá chạc chìu để nấu thành nước chè uống như thế nào. Cái đó thì trong Trà phả làm gì có. Tính độc lập trong ngôn ngữ cũng là một yếu tố căn cốt của độc lập dân tộc. Ông chứng minh được từ phiên thiết dẫn đến sự phân biệt hỏi ngã, thoát khỏi tình trạng xuất nhập, thì ông đã là nhà ngôn ngữ học giỏi hơn cả F.Saussure và Haudricourt rồi. Ông hỏi để lập lòe làm ra vẻ mình cũng có biết chứ thực chất ông chả biết gì cả. Tôi nghe nói rằng ông còn có cả thẻ hội viên Hội Ngôn ngữ học đấy! Thật là trò nhảm nhí. Cả một thời, chúng tôi ngồi dưới bóng bằng lăng gặm từng chữ một cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt của GS Nguyễn Tài Cẩn thế mà đến nay vẫn còn bì bõm biết đến vậy mà thôi. Hỏi ai cũng lắc đầu lè lưỡi cả. Tại sao lại vậy nhỉ? Trong nhiều điều có lí biết đâu còn chứa đựng những điều chưa hẳn đã có lí. Cần các thế hệ tiếp theo nghiên cứu là vì vậy.
Còn “Từ điển, Tự điển Việt Nam từ cổ chí kim… kí tự La tinh còn có cho phép ta đọc là Hỉ không (?)” như ông Nguyễn Khắc Bảo hỏi thì như thế này. Chí kim tôi không dám nói vì ngày nay từ điển ra quá nhiều, còn từ điển cổ, tức là từ thế kỉ XIX trở về trước có quyển nào thì tôi đều có cả. Quá trình làm tư liệu để hiểu nguồn gốc và sự phát triển chữ quốc ngữ chúng tôi đã có dịp so sánh các từ điển liên quan đến vấn đề đó với nhau. Và như đoạn văn trước tôi viết rằng “… trong trường hợp chữ Hỉ này ông (Génibrel) không tham khảo bất cứ ai cả. Đây là đóng góp của từ điển của ông.” là đã qua quá trình làm tư liệu đó. Còn như nói rằng, vì chỉ từ điển Génibrel có mục chữ này, từ điển khác không có, có nghĩa là Génibrel sai, thì tôi có thể đàm luận với bất cứ ai, dù đó là cả chín phần mười giới ngôn ngữ học. Còn ông Nguyễn Khắc Bảo đã lộ rõ là ông không biết gì. Muốn biết thì phải học hỏi.
Tóm lại, cách hỏi của ông Nguyễn Khắc Bảo giống như hai câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
- Một người đang nói về kĩ thuật trồng khoai lang. Ông Nguyễn Khắc Bảo đứng dậy vặn rằng: “Sao anh không tra cứu những sách kĩ thuật chọc lỗ gieo hạt mà ứng dụng”. Đó là đoạn ông hỏi về từ điển gốc Trung Hoa.
- Một người vốc được con chạch vàng dưới vũng. Ông Nguyễn Khắc Bảo vuốt râu và hặc: “Sao anh không trèo lên ngọn tre mà bắt con nữa?”. Đó là câu hỏi về các từ điển kí tự La tinh khác. Thật là thông thái!
c. Nông nỗi cái chữ Hĩ:
Trong bài báo của mình, ông Nguyễn Khắc Bảo có trách tôi là đã không cố gắng ghi cả chữ Hán để mọi người kiểm chứng. Điều đó là rất đáng nên làm nhưng tôi rất hãi. Dù cũng đã có ba học kì cầm bút theo thầy nhưng tôi chả biết được là bao nhiêu. Vả lại, làm trên máy nhà mình thì có phông chữ Hán nhưng có nhiều bài gửi đi, khi in lên thì những chữ đó bay hết đi đâu mất, hỏi ra thì chỗ báo ấy không quen dùng phông chữ đó. Nhiều lần đâm ngại, đành cố viết sao cho người đọc hình dung ra vấn đề là được rồi. Tôi sẽ cố gắng lần sau.
Còn như trình ra thứ chữ mà gọi là chữ Hán như ông Nguyễn Khắc Bảo thì tôi không dám đâu. Trước đây, đọc bài viết của ông, tôi thấy xuất hiện một số chữ Nôm, chữ Hán mà đa phần bất thành tự dạng, có chữ còn sai hẳn như chữ Hoàn in trên báo Văn nghệ, tôi cho rằng có thể các biên tập viên theo mặt chữ mà chép vào khi làm bản morasse nên nó ra nông nỗi vậy. Lần này, tôi được gửi trực tiếp bản email của ông có 4 chữ Hĩ tuyệt chiêu kia và mới hiểu đó đích thị là chữ ông Nguyễn Khắc Bảo vẽ ra. Có liền bốn chữ mà so sánh thì thật thú vị. Qua những chữ ông trình ra, ta hiểu rằng ông Nguyễn Khắc Bảo không hiểu được một cách sơ đẳng nhất các nét, cách sắp xếp các nét, cấu trúc tự dạng và cách viết một chữ Hán dù giản đơn như chữ Hĩ. Chữ này gồm chữ tư/khư () ở trên và chữ thỉ (
) ở dưới. Nguyên lai, cái nét mác nó xuất phát tự nét ngang dài, gần chỗ nét này cắt nét phết. Trong chữ Hỉ (
) không bao giờ nét mác này lại mọc ra từ thân nét phết phía dưới chỗ giao cắt đó cả. Trong thể chân hoặc hành viết bằng bút lông vì hai lí do: do cấu trúc hài hòa của chữ và do thao tác viết liên bút (đưa ngòi bút lông theo đà của thế tay vòng lên rồi chuyển sang phải) mà người ta viết thành một nét chấm tách ra, phần mũi của nét chấm luôn luôn phải hướng về gần chỗ giao cắt (
). Tuy viết là nét chấm nhưng với người đọc trong nghề người ta vẫn hiểu đó là nét mác của chữ Hĩ. Đọc như vậy người ta bảo là đọc theo bút ý (cái ý của của nghệ thuật đưa ngòi bút). Đó là bút lông, còn thời chúng tôi học, giáo trình dạy chữ Hán được viết bằng bút sắt, trên giấy nến rồi in ronéo, tôi chưa gặp chữ Hĩ nào như ông Bảo vẽ ra cả. Trong Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Quyển thượng, phần chữ Hán được viết bằng bút sắt tương tự, chữ Hĩ nhiều lắm, tôi cũng chưa gặp chữ nào như chữ vẽ ra của ông. Quan sát một lúc cả bốn chữ mà ông Nguyễn Khắc Bảo trình ra (mà tôi in lại ở trên) thì ta thấy rằng, ngoài sự sắp xếp lổng chổng các nét dài ngắn tùy tiện thì nét mác mọc ra từ nét phết rõ ràng, và lần lượt từ 1
,2
, 3
,4
nó càng lúc càng ngang ra về thế nét, thật vô lối. Thư pháp nào vậy ta! Để dễ hiểu, chúng ta hình dung một em mẫu giáo nhớn tập viết chữ a nhưng cái dấu móc lại phi ngang ra từ bụng chữ o. Cô giáo cũng đọc là a thôi, nhưng nó quả là bất thành tự dạng. Cổ nhân dạy: “Biết thì nói biết, không biết nói là không biết, ấy là biết vậy”. Tôi cũng chỉ biết đến thế mà thôi. Ở đây, rõ ràng là tình thế đối thoại và đối tượng đối thoại đã bắt buộc tôi phải viết dài những giải trình của mình mong bạn đọc biết kĩ hơn. Nếu bạn đọc có những phát vấn rõ hơn về những vấn đề thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học liên quan đến chuyện này, biết đến đâu tôi sẽ xin tận tình thưa lại đến đó.
(Kì sau đăng tiếp)
2183
2352
21564
225422
130677
114578365